Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 92 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT




TRÌNH BÀY BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA ĐIỀU KIỆN
BẢO HỘ SÁNG CHẾ













Học viên: TRẦN TRUNG KIÊN



Hà nội: 2006


Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


1
MỤC LỤC



Trang

Mục lục
1

Lời nói đầu
4
Chương I
Khái quát chung về bảo hộ sáng chế và điều kiện bảo hộ
sáng chế
9
1.1
Tổng quan về sáng chế và bảo hộ sáng chế
9
1.1.1
Khái niệm sáng chế
9
1.1.1.1
Định nghĩa sáng chế
9
1.1.1.2
Hình thức sáng chế

10
1.1.1.3
Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác
11
1.1.2
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
13
1.1.2.1
Nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
13
1.1.2.2
ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế
14
1.1.3
Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
15
1.1.3.1
Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế trên thế giới
15
1.1.3.2
Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế tại Việt Nam
17
1.2
Điều kiện bảo hộ sáng chế
20
1.2.1

Khái niệm điều kiện bảo hộ sáng chế
20
1.2.2
Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế
21
1.2.2.1
Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia bảo hộ và
trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới
22
1.2.2.2
Chính sách kinh tế xã hội của quốc gia
23
1.2.3
Nội dung điều kiện bảo hộ sáng chế
25
1.2.3.1
Giải pháp kỹ thuật thuộc phạm vi đối tượng bảo hộ sáng chế
25
1.2.3.2
Giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế phải đáp ứng được
yêu cầu về điều kiện tính mới
27
1.2.3.3
Giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế phải đạt đến trình
29
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


2
độ sáng tạo

1.2.3.4
Giải pháp kỹ thuật phải có khả năng áp dụng công nghiệp hoặc
có tính hữu ích
30
1.2.4
ý nghĩa của điều kiện bảo hộ sáng chế
33
Chương II
Quy định của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ
sáng chế
35
2.1
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam hiện
nay
35
2.1.1
Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế
35
2.1.2
Điều kiện tính mới của sáng chế
38
2.1.3
Điều kiện trình độ sáng tạo của sáng chế
43
2.1.4
Khả năng áp dụng công nghiệp
47
2.1.5
Các trường hợp ngoại lệ
50

2.2
Quy trình xét nghiệm, đánh giá khả năng bảo hộ của giải
pháp kỹ thuật theo các điều kiện bảo hộ sáng chế
54
2.2.1
Thẩm định giải pháp kỹ thuật yêu cầu bảo hộ sáng chế trong
giai đoạn xét nghiệm hình thức
54
2.2.2
Thẩm định khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ sáng chế
của giải pháp kỹ thuật trong giai đoạn xét nghiệm nội dung
57
2.2.2.1
Đánh giá tính mới của giải pháp kỹ thuật
57
2.2.2.2
Đánh giá khả năng đáp ứng trình độ sáng tạo của giải pháp kỹ
thuật
59
2.2.2.3
Đánh giá khả năng áp dụng công nghiệp của giải pháp kỹ thuật
đăng ký bảo hộ sáng chế
62
Chương III
Thực tiễn áp dụng và một số phương hướng và giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều
kiện bảo hộ sáng chế
64
3.1
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về

các điều kiện bảo hộ sáng chế hiện nay
64
3.1.1
Tổng quan chung về thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật
Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế
64
3.1.2
Thẩm định các đơn sáng chế nước ngoài có yêu cầu hưởng
quyền ưu tiên
67
3.1.3
Thẩm định các giải pháp kỹ thuật nộp đơn đăng ký bảo hộ sáng
chế theo trình tự nộp đơn đầu tiên tại Việt Nam
70
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


3
3.2
Một số kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện
72
3.2.1
Bảo hộ sáng chế đối với cây trồng biến đổi gen
73
3.2.2
Bảo hộ sáng chế đối với chương trình máy tính
74
3.2.3
Xây dựng yêu cầu về tính hữu ích của giải pháp kỹ thuật trở
thành một điều kiện bảo hộ sáng chế

75
3.2.4
Cụ thể hoá tiêu chuẩn đánh giá giải pháp kỹ thuật thông qua
các văn bản hướng dẫn và giải thích luật nhằm tăng cường khả
năng thực thi các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng
chế
77

Kết luận
80

Phụ lục
82

Danh mục các tài liệu tham khảo
86

Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


4
MỞ ĐẦU


Lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự sáng tạo. Con người dựa trên những
nền tảng tri thức đã có để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Khởi đầu
từ những dạng chữ viết xa xưa ở vùng Lưỡng Hà, bàn tính của người Trung Quốc
cổ đại, dụng cụ đo độ cao thiên thể ở Sy-ri, đài quan sát cổ ở Ấn Độ, máy in của
Gutenberg, động cơ đốt trong, các loại thảo dược và cách chữa bệnh của phương
Đông, công nghệ nanô bán dẫn chính những hoạt động sáng tạo đã tạo ra khả

năng cho loài người đạt đến trình độ tiến bộ công nghệ ngày nay. Nếu như trước
đây, các tài sản hữu hình như đất đai, lao động và tiền vốn được coi là tiêu chuẩn
để so sánh tình trạng kinh tế của các quốc gia với nhau, thì gần đây điều đó không
còn đúng nữa. Con người đang ngày càng nhận thức được tầm ảnh hưởng quan
trọng của sở hữu trí tuệ đến động lực phát triển kinh tế của quốc gia nói riêng và
thế giới nói chung. Nền kinh tế được xây dựng bằng gạch và vữa đang dần được
thay thế bằng nền kinh tế của những ý tưởng. Trong nền kinh tế mới, sự thịnh
vượng được tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo và nắm những giá trị của tri thức.

Hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, khi mà hiện nay sở hữu trí tuệ đã và
đang được coi là vấn đề quan trọng thiết yếu cần phải được xem xét trong việc
thiết lập các mối quan hệ quốc tế song phương và đa phương giữa các quốc gia với
nhau trên thế giới. Rõ ràng, việc ý thức được những giá trị tiềm ẩn của sở hữu trí
tuệ đã và đang thôi thúc mạnh mẽ các quốc gia buộc phải xây dựng các chính sách
hợp lý nhằm để bảo vệ các giá trị tri thức và kiềm chế việc đánh cắp tài sản sở hữu
trí tuệ. Đặc biệt đối các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thì bảo hộ sở
hữu trí tuệ được coi là một biện pháp hệ trọng, cần thiết, một mặt nhằm để tận
dụng triệt để tiềm năng sáng tạo của đất nước và mặt khác là để hòa nhập vào xu
thế toàn cầu hóa nói chung.
Trong thế kỷ 20, chúng ta đã chứng kiến hàng loạt các bước tiến công nghệ
mang tính chất đột phá. Hoàn toàn có lý khi nói rằng chúng ta đang ở giữa cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ ba nhờ vào sự phát triển nhanh chóng và sự tương
tác giữa sáu công nghệ then chốt là vi điện tử, máy tính, viễn thông, vật liệu mới,
rô-bốt và công nghệ sinh học Tại các quốc gia, những lý thuyết tăng trưởng kinh
tế dựa trên nền tảng tư bản và các tài nguyên thiên nhiên đang dần dần trở nên lạc
hậu và thay vào đó là sự thống nhất chung rằng công nghệ đóng một vai trò quan
trọng quyết định trong tăng trưởng kinh tế ngày nay. Bởi vậy, trong các lĩnh vực
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam



5
của sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và các quyền liên quan, nhãn hiệu hàng
hoá, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp chính sách bảo hộ sáng chế luôn luôn
giành được sự quan tâm hàng đầu.
Ý nghĩa căn bản nhất của hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế là nó tạo ra
động lực kích thích phát triển kinh tế, công nghệ và thúc đẩy cạnh tranh thông qua
việc tác động đến động lực tài chính của hoạt động sáng tạo. Hay nói một cách
khác, thông qua lợi ích về tài chính dành cho nhà sáng chế, quy trình sáng tạo
được đầu tư và lặp lại, kéo theo những thay đổi khác theo hướng tích cực trong
quy trình phát triển kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, độc quyền sáng chế không
được trao dựa trên cơ sở tích cực lao động hay chi phí sáng tạo lớn mà được cấp
trên cơ sở những điều kiện hết sức nghiêm ngặt về tính mới, tính sáng tạo và khả
năng áp dụng. Do vậy, việc xây dựng một hệ thống điều kiện bảo hộ sáng chế hợp
lý trong pháp luật của quốc gia có thể coi là chiếc chìa khóa để khởi động quy
trình sáng tạo và thông qua đó khởi động sự phát triển kinh tế.

So với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, lịch sử hình thành
và xây dựng pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ độc quyền
sáng chế nói riêng ở nước ta còn tương đối non trẻ. Khởi đầu từ Nghị định số
31/CP ngày 23 tháng 01 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
ban hành Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế
đến Luật Sở hữu trí tuệ năm 2006, các quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế ở
nước ta đã và đang từng bước được hoàn thiện. Cho đến nay, sau hơn hai mươi
năm không ngừng bổ sung và phát triển, về cơ bản các quy định liên quan đến bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế trong pháp luật Việt Nam đã khá
đầy đủ và toàn diện. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn không ít các quy định không
hợp lý, có phần phức tạp đã và đang gây ra những khó khăn trong quá trình áp
dụng và thực thi trên thực tế.

Thời gian vừa qua, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp

luật về Sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng
chế nói riêng ở nước ta đã và đang giành được sự quan tâm hết sức đáng kể từ phía
các cấp, các ngành. Cùng với Chương trình hành động về sở hữu trí tuệ được phát
động từ ngày 01 tháng 01 năm 2000 với mục tiêu tổng quát là làm cho hệ thống sở
hữu trí tuệ của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS, đáp ứng các
yêu cầu cơ bản của tiến trình hội nhập quốc tế, trực tiếp và chủ yếu là gia nhập tổ
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


6
chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm tới, chúng ta cũng đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến quy định pháp luật về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Một số nghiên cứu về các vấn đề chung của việc bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ như vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ; lịch sử phát triển
của pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ; tìm hiểu về hai lĩnh vực của sở hữu trí tuệ là
quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Một số công trình nghiên cứu đi vào
phân tích các khía cạnh riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ như vấn đề bảo hộ
quyền tác giả và các quyền liên quan khi Việt Nam gia nhập Hiệp ước Bern, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công
nghiệp Trong khi đó, còn rất ít các nghiên cứu tập trung khai thác về các khía
cạnh lý luận và thực tiễn của cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế, nếu không muốn nói là gần như còn đang bị bỏ ngỏ.

Theo các báo cáo hàng năm của Cục sở hữu trí tuệ, cơ quan nhà nước quản
lý trực tiếp về việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế ở
nước ta, số lượng các đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế nộp tại Việt Nam
đang ngày càng có dấu hiệu tăng lên đáng kể. Nếu như năm 1990, chỉ có 79 đơn
đăng ký bảo hộ sáng chế thì đến năm 1996, ngay sau khi Bộ luật Dân sự năm 1995
có hiệu lực, con số này đã lên đến 1008 đơn. Đến năm 2005, số lượng đơn yêu cầu
cấp bằng độc quyền sáng chế nộp tại Việt Nam là 1947 đơn, và được dự đoán sẽ

tiếp tục tăng mạnh vào năm 2006. Theo quy định của pháp luật, thời gian xét
nghiệm nội dung cho một giải pháp kỹ thuật kể từ khi có yêu cầu xét nghiệm nội
dung là 12 tháng. Trong khi đó, thực tế xét nghiệm nội dung sáng chế còn nhiều
bất cập. Nhiều báo cáo tra cứu sáng chế và báo cáo xét nghiệm sáng chế còn phụ
thuộc vào các kết luận của các cơ quan sáng chế nước ngoài. Quan điểm tiếp cận
khả năng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế của giải pháp kỹ thuật còn nhiều
điểm tranh cãi, chưa thống nhất dẫn đến tình trạng việc xét nghiệm nội dung của
nhiều giải pháp kỹ thuật đăng ký bảo hộ sáng chế bị kéo dài trong nhiều năm, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người nộp đơn. Nguyên nhân chính và chủ
yếu dẫn đến tình trạng nói trên, một phần là do chúng ta chưa xây dựng được một
nền tảng lý luận và thực tiễn vững chắc cho việc xây dựng các quy định pháp luật
về điều kiện bảo hộ sáng chế, và mặt khác, chúng ta chưa có một quan điểm tiếp
cận điều kiện bảo hộ sáng chế một cách thống nhất và có hiệu quả.

Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


7
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
điều kiện bảo hộ sáng chế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế và việc xét nghiệm sáng chế
theo điều kiện tiểu chí bảo hộ sáng chế.

Từ mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
như sau:

- Làm rõ bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế, đánh giá vai trò của
nó trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sáng chế cũng như ý
nghĩa của nó đối với việc thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật ở
nước ta.


- Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều
kiện bảo hộ sáng chế và quy trình xét nghiệm các giải pháp kỹ thuật theo
các điều kiện bảo hộ sáng chế để chỉ ra các ưu điểm cũng như những bất
cập và hạn chế của nó.

- Dựa trên sự phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đó, luận văn đề xuất
các giải pháp nhằm hướng tới việc hoàn thiện các quy định pháp luật về
điều kiện bảo hộ sáng chế và xét nghiệm các giải pháp kỹ thuật theo điều
kiện bảo hộ sáng chế.

Kết cấu của Luận văn bao gồm ba chương, cụ thể như sau:
Chương I, với tiêu đề Khái quát chung về bảo hộ sáng chế và điều kiện
bảo hộ sáng chế, tác giả xin trình bày nội dung lý luận cơ bản về bảo hộ sáng chế
và điều kiện bảo hộ sáng chế. Trong Chương này, trên cở sở nêu và phân tích một
cách khái quát các vấn đề khoa học về sáng chế và bảo hộ sáng chế, tác giả làm rõ
khái niệm, nội dung, bản chất pháp lý của điều kiện bảo hộ sáng chế cũng như vị
trí và vai trò của nó trong các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với sáng chế nói chung.
Chương II có tiêu đề: Quy định của pháp luật Việt Nam về các điều kiện
bảo hộ sáng chế. Trong nội dung Chương này, tác giả trình bày, phân tích và đánh
giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về các điều kiện bảo hộ sáng
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


8
chế cũng như các thủ tục xét nghiệm, đánh giá các giải pháp kỹ thuật đăng ký bảo
hộ sáng chế dựa trên các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế.
Chương III có tiêu đề: Thực tiễn áp dụng và một số phương hướng và giải
pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ

sáng chế. Trong Chương này, tác giả đi sâu vào phân tích thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng chế. Đồng thời, dựa
trên cơ sở khoa học pháp lý và tham khảo các kinh nghiệm của các nước tiên tiến
trong việc xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế cũng như thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật Việt Nam, tác giả trình bày một số đề xuất của mình nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ sáng
chế.
Do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm của tác giả chủ yếu
tập trung trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn, đồng thời, đây cũng là công trình
nghiên cứu khoa học đầu tay, vậy nên, luận văn không thể tránh khỏi những sai sót
nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ từ phía các
Quý thầy cô và bạn bè, đồng nghiệp.
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


9
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ VÀ ĐIỀU
KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ

1.1. TỔNG QUAN VỀ SÁNG CHẾ VÀ BẢO HỘ SÁNG CHẾ
1.1.1. Khái niệm sáng chế
1.1.1.1. Định nghĩa sáng chế
Nhà bác học vĩ đại người Đức Anbert Einstein đã từng phát biểu: “Trí
tưởng tượng cao hơn mọi tri thức”. Mặc dù hoàn toàn không hề coi nhẹ tri thức,
nhưng qua câu nói này, nhà bác học Einstein đã chuyển tới một thông điệp về việc
dựa trên chính những nền tảng hiện có của tri thức đã tích luỹ được, việc nhìn xa
hơn ra ngoài giới hạn tiếp theo của của sự khám phá luôn là nguồn gốc của sự tiến
bộ cá nhân, văn hoá và kinh tế. Từ những chữ viết xa xưa ở vùng Lưỡng Hà, bàn
tính Trung Quốc, máy hơi nước ở Anh vào thế kỷ thứ XVIII, động cơ đốt trong,
penexillin, công nghệ nano bán dẫn, dược phẩm DNA tái tổ hợp, và vô số những

sáng chế, đổi mới khác, chính trí tưởng tượng của các nhà sáng tạo trên thế giới đã
tạo ra khả năng cho loài người đạt đến trình độ tiến bộ ngày nay. Thực vậy, hoạt
động sáng tạo và sáng chế là một trong những đặc tính cơ bản nhất tạo nên sự khác
biệt giữa loài người với mọi loài vật khác trong quá trình tiến hóa. Chính khả năng
vận dụng đặc tính sáng tạo trong hoạt động lao động sản xuất đã tạo nên những
bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người. Điều này đã được
lịch sử chứng minh qua việc các cuộc cách mạng về công nghệ luôn luôn là một
tiền đề khởi đầu cho các cuộc cách mạng khác của xã hội. Hoàn toàn không phải
là một sự cường điệu khi có không ít người đã khẳng định rằng, chính những sáng
chế của nhân loại từ xưa tới nay đã và đang định hình cuộc sống của chúng ta.
Thực tế là hiện nay trình độ phát triển về khoa học kỹ thuật là một trong những
thước đo quan trọng nhất để xác định trình độ phát triển về kinh tế xã hội của quốc
gia nói chung.
“Sáng chế” là một khái niệm nhằm dùng để chỉ những giải pháp kỹ thuật
mới do con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cần thiết trong hoạt
động lao động sản xuất của con người. Giải pháp kỹ thuật được hiểu là một
phương thức để giải quyết một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật. Nói một cách
khác, giải pháp kỹ thuật hướng đến mục tiêu làm chủ thiên nhiên của con người.
Một đối tượng sẽ được coi là giải pháp kỹ thuật nếu nó tạo điều kiện cho con
người khai thác thế gới tự nhiên và thông qua đó thoả mãn những nhu cầu vật chất
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


10
và tinh thần của mình. Quá trình này có thể được diễn ra bằng cách tận dụng các
nguồn lực hoặc các quy luật của tự nhiên cũng như bằng cách tác động trực tiếp
vào thiên nhiên.
Cùng với những tiến bộ và sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
thuật của thế giới, khái niệm sáng chế cũng đang được liên tục mở rộng. Sáng chế
không đơn giản chỉ bao hàm các công cụ, máy móc hữu hình mà còn là cả các quy

trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật của tự
nhiên. Thậm chí, ở một số quốc gia, khái niệm sáng chế đã được mở rộng ra đến
mức vượt ra khỏi quan điểm truyền thống về “bản chất kỹ thuật” của sáng chế vốn
đã được biết đến rộng rãi ở các nước. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, phương pháp kinh doanh
được coi là sáng chế và được bảo hộ độc quyền. Theo kết quả tổng kết của Cơ
quan sáng chế Hoa Kỳ (USPTO), số các giải pháp kinh doanh được cấp bằng sáng
chế tại Hoa Kỳ năm 1996 là 700. Đến năm 2000, con số này đã lên tới 2600. Kể từ
ngày 1 tháng 8 năm 2000, Hàn Quốc cũng đã chính thức thừa nhận phương pháp
kinh doanh như là một đối tượng có khả năng được bảo hộ sáng chế.v.v
1.1.1.2 Hình thức của sáng chế
Xét trên một khía cạnh nào đó, có thể nói rằng, cuộc sống của chúng ta, nền
kinh tế của chúng ta đang được định hình bởi những sáng chế mà con người đã và
đang tạo ra. Từ những vật dụng nhỏ nhất như những đồ dùng cá nhân hàng ngày
cho đến những phương tiện sản xuất chủ yếu của xã hội, ít nhiều đều có liên quan
đến hoạt động sáng chế. Theo kết quả thống kê của Bộ Thương mại Hoa Kỳ vào
năm 1998 về mức độ tác tác động của bằng độc quyền sáng chế đối với nền kinh tế
quốc dân đã cho thấy rằng, sáng chế xuất hiện phổ biến ở hầu khắp các lĩnh vực
trọng yếu thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia này. Trong ngành vật
liệu tiên tiến, sáng chế liên quan đến vật liệu sinh học, chất siêu dẫn nhiệt độ cao,
sứ tiên tiến, hợp kim, côm-pô-sit, phim mỏng kim cương, màng và polime lựa
chọn. Trong ngành y tế, sáng chế liên quan đến dược phẩm, thuốc chữa bệnh và
công nghệ sinh học. Trong ngành chế tạo ô tô, sáng chế liên quan đến động cơ,
truyền động, phanh hãm, bánh điều khiển và lốp, thân và khung xe, tiện nghi và an
toàn hành khách, kiểm soát ô nhiễm và công nghệ chế tạo ô tô.
Thống kê nói trên phần nào đã cho chúng ta thấy được sự đa dạng và
phong phú của các sáng chế trong thực tiễn cuộc sống. Đó có thể là những giải
pháp tác động của con người vào thế giới vô sinh như các giải pháp trong lĩnh vực
vật lý, hoá học hoặc các thiết kế máy móc, công cụ mới, việc chế tạo ra các vật
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam



11
liệu nhân tạo từ những chất sẵn có trong thiên nhiên. Đó cũng có thể là sự tác động
của con người vào thế giới thực vật như khai thác các lực sinh học của thực vật;
phương pháp vi sinh để chế tạo ra các sản phẩm, .v.v Dưới đây, tác giả xin được
liệt kê năm hình thức sáng chế chủ yếu được phần lớn các quốc gia trên thế giới
thừa nhận và bảo hộ:
- Cơ cấu: Tập hợp các chi tiết có chức năng giống nhau hoặc khác
nhau, liên kết với nhau để thực hiện một chức năng nhất định, như dụng cụ,
máy móc, thiết bị, chi tiết máy, cụm chi tiết máy hoặc các sản phẩm khác,
.v.v
- Chất: Tập hợp các phần tử có quan hệ tương hỗ với nhau, được đặc
trưng bởi sự hiện diện, tỷ lệ và trạng thái của các phần tử tạo thành và có
chức năng nhất định. Chất có thể là hợp chất hoá học, hỗn hợp chất như vật
liệu, chất liệu, dược phẩm, v.v
- Phương pháp: Quy trình thực hiện các công đoạn hoặc hàng loạt các
công đoạn xảy ra cùng một lúc hoặc liên tiếp theo thời gian, trong điều kiện
kỹ thuật xác định nhờ sử dụng phương tiện xác định như phương pháp hoặc
quy trình sản xuất, xử lý, khai thác, đo đạc, thăm dò, v.v
- Vật liệu sinh học: Vật liệu có chứa các thông tin di truyền, có khả
năng tự tái tạo hoặc được tái tạo trong hệ thống sinh học như tế bào, gen,
cây chuyển gen, v.v
- Sử dụng cơ cấu, chất, phương pháp hoặc vật liệu sinh học đã biết
theo chức năng mới như là sử dụng chúng với chức năng khác với chức
năng đã biết, như sử dụng hợp phần ARN ở động vật có vú để xác định
tung tích của người bị mất tích, v.v
1.1.1.3:Phân biệt sáng chế với một số đối tượng khác
Trước hết, cần phải nhấn mạnh rằng, nội hàm của khái niệm “sáng chế”
hoàn toàn không trùng lặp với khái niệm “phát minh”. “Phát minh” được dùng để
chỉ những hiểu biết mới, có tính quy luật về tồn tại khách quan mà trước đó con

người chưa có khả năng nhận thức được. Trong khi đó, “sáng chế’ lại hướng đến
việc giải quyết một nhu cầu cụ thể trong cuộc sống thực tiễn theo một cách thức
mang tính sáng tạo. Giải thích về sự khác nhau giữa “sáng chế” và “phát minh”,
một chuyên gia sáng chế người Anh Buckley J. đã nêu rõ: “Phát minh là một nhận
thức mới được bổ sung vào kho kiến thức đã có của loài người, nhưng thực sự đó
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


12
đơn thuần chỉ là một sự khám phá. Sáng chế cũng là một nhận thức mới, nhưng nó
không đơn thuần chỉ là một sự khám phá. Sáng chế hướng tới việc đề xuất giải
pháp để tạo ra một sản phẩm mới, một kết quả mới, một quy trình mới hoặc là một
sự kết hợp mới để tạo ra một sản phẩm cũ hoặc một kết quả cũ theo một phương
thức mới” [23, trang 16]. Chính vì vậy, “phát minh” không được coi là một giải
pháp kỹ thuật có khả năng được bảo hộ như là một sáng chế. Tuy nhiên, những
kiến thức có được từ những “phát minh” chính là một trong những tiền đề cần
thiết cho hoạt động “sáng chế”. Con người lợi dụng từ những kiến thức đã tích lũy
được từ hoạt động lao động sản xuất cùng với những hiểu biết mới đã được khám
phá tiến hành áp dụng vào thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể được đặt
ra trong quá trình làm chủ tự nhiên. Chẳng hạn, Benjamin Franklin là nhà khoa
học đầu tiên trên thế giới đã khám phá ra sự tồn tại của dòng điện trong các tia sét.
Đây là một “phát minh”, hay là sự hiểu biết mới của con người về những hiện
tượng đã tồn tại có sẵn trong tự nhiên mà trước đó chưa hề nhận thức được. Và
cũng chính Benjamin Franklin từ phát minh nói trên đã sáng tạo ra cột thu lôi vào
năm 1752, có tác dụng truyền dẫn dòng điện phóng ra từ các tia sét xuống lòng
đất. Vào thời điểm này, cột thu lôi chính là một sáng chế, một giải pháp kỹ thuật
có tác dụng ngăn chặn và hạn chế những thiệt hại về con người và tài sản do hiện
tượng “sét đánh” gây nên.
Khái niệm sáng chế cũng không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm bí mật
kinh doanh. Bí mật kinh doanh là những thông tin thu được từ các hoạt động đầu

tư tài chính, trí tuệ chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Bởi vậy, khái niệm bí mật kinh doanh có phạm vi bao quát rộng lớn hơn rất nhiều
so với nội dung của khái niệm sáng chế. Đó có thể là thông tin về danh sách khách
hàng, thông tin về cơ hội đầu tư, và cũng có thể là một giải pháp, một đề án kinh
doanh trong tương lai… Xét trên một phương diện nào đó, sáng chế khi đang là
một giải pháp kỹ thuật chưa được bộc lộ là một dạng cụ thể của bí mật kinh doanh,
và được pháp luật bảo hộ một cách tự động. Ví dụ, công thức pha chế đồ uống có
ga của hãng Coca Cola là một dạng giải pháp kỹ thuật, hay nói đúng hơn, là một
sáng chế được bảo hộ dưới hình thức bí mật kinh doanh.
So sánh với đối tượng là các tác phẩm văn học, nghệ thuật bao gồm các tác
phẩm văn chương, tác phẩm múa, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm hội hoạ… sáng
chế thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt. Nếu như các tác phẩm văn học
nghệ thuật thể hiện các giá trị tinh thần của đời sống con người, biểu hiện thông
qua ngôn từ, động tác hình thể, đường nét, màu sắc thì sáng chế lại là những biện
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


13
pháp mang tính chất kỹ thuật mà con người dùng để tác động vào thế giới tự
nhiên nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Nếu yếu tố chủ yếu tạo nên khả năng
phân biệt giữa các tác phẩm nghệ thuật là sự biểu hiện ra bên ngoài của các ý
tưởng thông qua sự liên kết của các ký tự, màu sắc và hình khối thì yếu tố này ở
sáng chế lại là bản thân nội dung của các ý tưởng đó.
1.1.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
Con đường đi từ những khám phá, từ những hiểu biết thông thường đến
hoạt động sáng chế thực sự không hề đơn giản, đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ về
mặt tài chính cũng như công sức lao động của con người. Trong khi đó, lợi ích mà
xã hội có thể có được từ việc khai thác các giải pháp kỹ thuật là sáng chế thì vô
cùng to lớn. Trước thực tế nói trên, pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với sáng chế đã được thiết lập nhằm hướng tới việc thúc đẩy hoạt động sáng

tạo, sáng chế trong xã hội, đồng thời nhằm để ngăn chặn những vi phạm tiềm tàng,
xâm hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của các nhà sáng chế.
1.1.2.1. Nội dung bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
Là một thành tố thuộc các quy định pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nằm trong hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ sáng chế được hiểu
là một cơ chế cấp độc quyền có thời hạn cho chủ sở hữu sáng chế trên cơ sở đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, chủ sở hữu sáng chế được độc
quyền hưởng những lợi ích về mặt kinh tế và thương mại từ việc khai thác, sử
dụng sáng chế trong một giới hạn nhất định về thời gian và không gian được bảo
hộ. Giải pháp kỹ thuật được cấp bằng độc quyền sáng chế sẽ không thể bị người
khác khai thác, sử dụng cho mục đích thương mại trong phạm vi quốc gia bảo hộ
ngoài chủ sở hữu sáng chế đó. Chủ sở hữu sáng chế có quyền khởi kiện chống lại
bất kỳ người nào có hành vi khai thác sáng chế được bảo hộ độc quyền trong phạm
vi quốc gia đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế.
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, khả năng “độc quyền” mà chủ sở hữu
sáng chế được hưởng không phải là một sự “độc quyền” mang tính chất tuyệt đối.
Nó bị giới hạn về mặt không gian lãnh thổ của quốc gia bảo hộ. Trong tất cả phần
còn lại của thế giới, ở tất cả các quốc gia nơi sáng chế đó không được bảo hộ theo
bằng độc quyền sáng chế thì sáng chế đó được sử dụng tự do. Bên cạnh đó, cơ chế
bảo hộ độc quyền sáng chế chỉ duy trì hiệu lực của bằng độc quyền sáng chế trong
một thời hạn xác định, thông thường là 20 năm. Hơn nữa, cơ chế bảo hộ độc
quyền sáng chế không được tự động thực thi. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


14
quốc gia nơi sáng chế được bảo hộ thường chỉ áp dụng cơ chế bảo hộ khi được chủ
sở hữu sáng chế yêu cầu.
Trên một phương diện nào đó, có thể thấy rằng, bản chất của cơ chế bảo hộ
độc quyền sáng chế không gì khác là một loại “hợp đồng xã hội”. Trong đó, mục

đích cơ bản của “hợp đồng xã hội” này là “đổi lại việc bộc lộ những ý tưởng kỹ
thuật có giá trị tiềm năng được mô tả trong bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu
bằng độc quyền sáng chế bằng việc thực hiện quyền cấm người khác khai thác ý
tưởng được mô tả, có thể đảm bảo cho mình độc quyền khai thác ý tưởng của
mình” [21, trang 2]. Quan hệ trao đổi này nhằm khuyến khích việc bộc lộ công
nghệ có giá trị, nhờ đó, thúc đẩy tiến bộ công nghệ và hi vọng là các tiến bộ xã
hội.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng
chế
Thực tế đã chứng minh rằng, sự tồn tại của hệ thống bảo hộ độc quyền sáng
chế, với khả năng nhận được độc quyền khai thác sáng chế trong một thời gian có
hạn, đã tạo ra sự khích lệ quan trọng cho hoạt động sáng chế và cải tiến. Trong
thời hạn mà chủ sáng chế được độc quyền sử dụng sáng chế đã tạo ra một môi
trường thuận lợi cho việc phát triển và khai thác một cách có hiệu quả giải pháp kỹ
thuật đã được cấp bằng độc quyền sáng chế. Bằng cách hạn chế một cách tối đa sự
cạnh tranh không được kiểm soát từ những người không chịu rủi ro tài chính ban
đầu, hệ thống độc quyền sáng chế mang lại cho chủ sở hữu sáng chế cơ hội để có
thu nhập nhằm bù đắp những chi phí phải gánh chịu trong quá trình phát triển sáng
chế như vốn, thời gian, trang thiết bị, lao động. Đồng thời, độc quyền khai thác
sáng chế cũng tạo cho chủ sở hữu sáng chế khả năng thu được lợi nhuận từ việc
bán sản phẩm mang sáng chế và từ việc lixăng, chuyển nhượng bằng độc quyền
sáng chế cho người khác. Phần thưởng cho chủ sở hữu sáng chế là lợi ích về tài
chính và nhà sáng chế được thúc đẩy để lặp lại quy trình sáng tạo và sáng chế, đầu
tư một phần thu nhập của mình cho hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo ra
sáng chế mới.
Đứng về mặt lợi ích chung của xã hội, ngay cả khi cơ chế bảo hộ độc quyền
sáng chế tạo ra khả năng thúc đẩy sự chia sẻ và phân phối những lợi ích có được
từ sáng chế thông qua hoạt động cấp li-xăng cho người khác sử dụng trên các
phạm vi khu vực địa lí khác nhau của thế giới. Quan trọng hơn, hệ thống bảo hộ
độc quyền sáng chế tạo ra một hệ thống lưu trữ thông tin công nghệ dồi dào nhất

Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


15
tồn tại trên thế giới hiện đại. Theo quy định, để được cấp bằng độc quyền sáng
chế, tác giả sáng chế phải tiết lộ thông tin sáng chế cụ thể đến mức người có trình
độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng có thể hiểu và thực hiện được giải
pháp kỹ thuật được đề cập đến trong sáng chế và phải được công bố công khai.
Các thông tin này có thể được phục vụ rất hữu hiệu không chỉ cho hoạt động
nghiên cứu và thực nghiệm khoa học mà còn cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp trong suốt thời gian sáng chế được bảo hộ. Dựa vào nguồn thông tin
sáng chế, có thể xác định được xu hướng phát triển của công nghệ, biết được sự
thai nghén hoặc suy tàn của một kỹ thuật nhất định, có thể cho phép xác định được
đối thủ cạnh tranh có tiềm lực hay không? Theo số liệu thống kê của Tổ chức Sở
hữu trí tuệ thế giới (WIPO), hiện nay, trên thế giới đã có trên 50 triệu sáng chế
được công bố. Đây là nguồn thông tin đầy đủ, kịp thời về toàn bộ các lĩnh vực kỹ
thuật của thế giới (80% thông tin kỹ thuật của thế giới chứa đựng trong nguồn
thông tin này, rất nhiều thông tin trong số đó không thể tìm thấy được ở các nguồn
thông tin khác). Bằng cách đó, hệ thống bảo hộ độc quyền sáng chế đã đóng góp
rất to lớn vào quá trình phát triển nền khoa học kỹ thuật của quốc gia.
1.1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế
Như đã phân tích ở trên, sự tồn tại của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế
đem lại những lợi ích thực sự to lớn về mặt kinh tế, xã hội của quốc gia, tạo ra
những động lực hiệu quả cho các nhà sáng chế bộc lộ những ý tưởng của mình và
khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào việc thương mại hoá các ý tưởng đó.
Thực tế là ý tưởng đó đã được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài ngày
từ thế kỷ XV.
1.1.3.1. Sự hình thành và phát triển pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với sáng chế trên thế giới

Italia được coi là nơi xuất xứ đầu tiên của cơ chế bảo hộ độc quyền sáng
chế. Vào năm 1474, đạo luật Venice đã được ban hành, theo đó chính quyền thành
phố Venice sẽ tiến hành cấp bằng cho các thiết bị mới và mang tính chất sáng tạo.
Đạo luật này ghi nhận: “Trong xã hội chúng ta có những nhà thông thái có khả
năng sáng tạo và khám phá ra những cỗ máy thông minh; và tương lai thành phố
chúng ta sẽ còn xuất hiện nhiều nhà thông thái như vậy. Nếu có một đạo luật
nhằm ngăn chặn những kẻ khác đánh cắp các sản phẩm mới đó từ các nhà thông
thái, sẽ còn có càng nhiều nhà thông thái phát hiện ra những cỗ máy mới cho lợi
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


16
ích cho xã hội chúng ta. Bởi vậy, đạo luật này được ban hành, theo đó, bất kỳ
người nào sáng tạo ra những cỗ máy mới trong thành phố, chưa từng được biết
đến trong xã hội chúng ta, khi hoàn thiện xong và có thể đem ra sử dụng trên thực
tế thì có thể trình diện lên Hội đồng thành phố. Trong thời hạn 10 năm, không một
người bất kỳ nào khác trong thành phố và các vùng lân cận được quyền chế tạo ra
loại cỗ máy giống hoặc tương tự, nếu không được sự cho phép của nhà sáng chế”.
Như vậy, ngay từ đạo luật đầu tiên về bảo hộ sáng chế trên thế giới, các điều kiện
bảo hộ sáng chế đã được thiết lập dựa trên hai tiêu chuẩn chính: Tiêu chuẩn về
tính mới và tiêu chuẩn về khả năng áp dụng của giải pháp kỹ thuật. Cho đến nay,
mặc dù đã trải qua hàng thế kỷ phát triển, hệ thống các điều kiện bảo hộ sáng chế
trong pháp luật hiện đại của hầu hết các quốc gia trên thế giới vẫn còn giữ nguyên
những tinh thần pháp lý cơ bản đã được đặt ra trong đạo luật Venice 1474.
Hai thế kỷ sau đó, mô hình này sau đó đã bắt đầu lan rộng ra các quốc gia
khác như Anh, Áo, Pháp. Trong đó, nổi bật nhất và phát triển nhất là cơ chế bảo
hộ độc quyền sáng chế của Vương quốc Anh. Thực ra, trước đó, ở Anh đã xuất
hiện những hình thái đầu tiên của việc bảo hộ độc quyền sáng chế như việc cấp
giấy độc quyền. Ban đầu, giấy độc quyền được cấp dưới thời của vua Henry VI
vào năm 1449 cho ngài John xứ Utynam do công đã chế tạo ra loại kính có bề mặt

nhẵn với giá trị hiệu lực là 20 năm. Sau đó, mô hình này đã bị lạm dụng phục vụ
riêng cho quyền lợi của Hoàng gia Anh, và giấy độc quyền không nhất thiết phải
áp dụng để khai thác một quy trình mới hay một sản phẩm mới. Trên thực tế,
nhiều giấy độc quyền đã được cấp cho những hàng hoá thông thường như muối,
dấm hay sắt. Phải tới những năm của thế kỷ XVII, khi nhận thức được tầm quan
trọng của việc bảo vệ quyền lợi của các nhà sáng chế và nhằm thúc đẩy sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, dưới thời Nữ hoàng Elizabeth I, Francis Bacon đã
kiến nghị với Nữ hoàng chỉ cấp giấy độc quyền cho những sáng chế có tính hữu
ích đối với quyền lợi của quốc gia. Năm 1624, với nỗ lực nhằm hạn chế sự lạm
dụng quyền lực của Hoàng gia, Nghị viện Anh đã thông qua một đạo luật quan
trọng về bảo hộ độc quyền sáng chế. Theo đó, Hoàng gia Anh sẽ chỉ tiến hành cấp
giấy độc quyền cho những sáng chế mới với điều kiện các sáng chế đó sẽ không
làm phương hại đến hoạt động thương mại của quốc gia. Thời hạn hiệu lực của
giấy độc quyền sau đó được giới hạn trong vòng 14 năm. Đến thời đại của nữ
hoàng Anne, quy định về việc cấp giấy độc quyền lại được thay đổi một lần nữa,
theo đó để được cấp giấy độc quyền, nhà sáng chế cần phải mô tả sáng chế bằng
văn bản. Điều 6 của đạo luật này lần đầu tiên đã quy định như thế nào thì được coi
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


17
là sáng chế mới. Các quy định này vào thời bấy giờ đã được coi như là một khuôn
mẫu để tiến hành xây dựng cơ chế bảo hộ độc quyền sáng chế ở Hoa Kỳ và các
quốc gia châu Âu khác.
Tuy nhiên, phải đến những năm của thế kỷ 18, khi nhân loại đã đạt được
những bước tiến đáng kể trong việc phát triển khoa học công nghệ, các quy định
pháp luật về bảo hộ độc quyền sáng chế mới bước đầu được hình thành một cách
khá hệ thống. Điều 1, Luật sáng chế của Pháp năm 1791 ghi nhận: “Tất cả các
khám phá mới đều thuộc về quyền sở hữu của tác giả; để đảm bảo quyền lợi cho
tác giả trong khai thác các phát kiến của mình, Nhà nước sẽ cấp cho tác giả bằng

độc quyền có thời hạn hiệu lực trong 5 năm, 10 năm hoặc 15 năm”. Tương tự,
Khoản 8, Điều 1, Hiến pháp Hoa Kỳ ghi nhận: “Nghị viện Hoa Kỳ có toàn
quyền để phát triển khoa học kỹ thuật, có thể cấp độc quyền cho tác giả, nhà
sáng chế cho các công trình và phát kiến của họ” Và đúng như Abraham Lincoln
đã phát biểu: “Bằng độc quyền sáng chế đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa tài năng”,
hàng loạt đơn yêu cầu bảo hộ độc quyền sáng chế đã được cấp bằng. Chỉ tính riêng
ở Hoa Kỳ, số lượng sáng chế năm 1840 là 765. Đến năm 1867, con số này đã lên
đến 21.276.
Cũng vào thời gian này, các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ độc
quyền sáng chế cũng bắt đầu được hình thành và phát triển. Đầu thế kỷ thứ 19,
bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp cho những giải pháp kỹ thuật chưa từng
được bộc lộ tính cho đến thời điểm yêu cầu cấp bằng sáng chế. Tính mới sẽ được
xét nghiệm dựa trên tình trạng kỹ thuật chung trên toàn thế giới. Đến giữa thế kỷ
thứ 19, theo đạo luật sáng chế năm 1849 của Hoa Kỳ, bằng độc quyền sáng chế sẽ
chỉ được cấp cho những giải pháp kỹ thuật đạt được các điều kiện về tính mới, tính
hữu ích và tính không hiển nhiên. Việc lần đầu tiên đặt ra tiêu chuẩn về tính không
hiển nhiên (còn gọi là yêu cầu về trình độ sáng tạo) đối với giải pháp yêu cầu bảo
hộ đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc phát triển hoàn thiện hệ thống các điều
kiện bảo hộ sáng chế trên thế giới.
Đến những năm 1900 của thế kỷ 20, với sự ra đời của định luật Menden về
sự di truyền, các giải pháp kỹ thuật được bảo hộ sáng chế cũng bắt đầu được mở
rộng, và vượt ra khỏi khái niệm sáng chế truyền thống có từ thời kỳ Đạo luật
Venice 1474- các giải pháp kỹ thuật được bảo hộ chỉ có thể là máy móc. Với việc
bùng nổ các sáng tạo liên quan đến giống cây trồng mới, một loạt các nước như
Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Hoa Kỳ… đã bắt đầu chấp nhận bảo hộ sáng chế đối
với các giải pháp kỹ thuật có liên quan đến công nghệ sinh học như giống cây
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


18

trồng, giống động vật mới, gen… Sau Chiến tranh thế giới thứ II, đối tượng bảo hộ
sáng chế tiếp tục được mở rộng đến chương trình máy tính, và gần đây là phương
pháp kinh doanh. Dự kiến, trong một vài năm tới, cùng với sự phát triển không
ngừng của khoa học công nghệ trên thế giới, quy định pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói chung, và về điều kiện bảo hộ sáng chế
nói riêng sẽ còn nhiều thay đổi theo hướng ngày càng mở rộng hơn nữa đối tượng
được bảo hộ sáng chế.
1.1.3.2. Sự hình thành và phát triển quy định pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với sáng chế tại Việt Nam
Có thể nói, các quy định pháp luật về bảo hộ độc quyền sáng chế của thế
giới đã có một quá trình hình thành và phát triển hết sức lâu dài. Tuy nhiên, ở Việt
Nam với đặc điểm của một đất nước phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh từ thời
kỳ lập quốc, lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng giáo lý Đạo Nho - Sỹ,
Nông, Công, Thương- vốn không coi trọng phát triển về thủ công nghiệp và
thương nghiệp, mãi đến những năm cuối thế kỷ XX, các quy định pháp luật về bảo
hộ độc quyền sáng chế mới bắt đầu được hình thành.
Khởi đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX, công tác tổ chức động viên,
khuyến khích hoạt động sáng tạo khoa học kỹ thuật được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt chú ý. Phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất đã được phát động, duy trì và phát triển rộng khắp trên tất cả các ngành, địa
phương trên cả nước. Phong trào này đã có những đóng góp rất tích cực cho công
cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Tuy nhiên, phải mãi cho đến những năm 1981, với việc ban hành Nghị định
31/CP quy định về Điều lệ sáng kiến, cải tiến kỹ thuật và sáng chế, lần đầu tiên cơ
chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế nói chung và điều kiện bảo
hộ sáng chế nói riêng mới được thiết lập và triển khai áp dụng ở nước ta.
Theo văn bản này, mọi nỗ lực sáng tạo kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất mang
lại các lợi ích thiết thực cho Nhà nước, xã hội và cơ quan, đơn vị, đều được đền
đáp về tinh thần và vật chất. Trong văn bản này, lần đầu tiên Nhà nước tuyên bố
công nhận và bảo hộ quyền về tinh thần và vất chất của các tác giả sáng kiến, sáng

chế. Theo đó, giải pháp kỹ thuật nếu đạt được các yêu cầu về tính mới, trình độ
sáng tạo và có khả năng áp dụng trong nền kinh tế quốc dân, y tế, văn hóa và
mang lại lợi ích kinh tế-xã hội sẽ được Nhà nước bảo hộ độc quyền sáng chế. Vào
lúc này, với mục tiêu tận dụng mọi nguồn lực sáng tạo trong nước, nhằm phục vụ
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


19
tối đa cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước sau khi thống nhất, tiêu
chuẩn về khả năng áp dụng và tính hữu ích của sáng chế đặc biệt được coi trọng.
Điều 10, Điều lệ về Sáng kiến cải tiến kỹ thuật-Hợp lý hoá sảng xuất và sáng chế
quy định rất rõ: “Sáng chế được bảo hộ theo điều lệ này là một giải pháp kỹ thuật
mới, có trình độ sáng tạo, có khả năng áp dụng trong nền kinh tế quốc dân, y tế,
văn hoá, giáo dục hay quốc phòng và mang lại lợi ích kinh tế - xã hội”. Phạm vi
đối tượng được bảo hộ sáng chế tương đối hẹp, bao gồm cơ cấu, phương pháp hay
chất mới, cũng như việc sử dụng cơ cấu, phương pháp hay chất đã biết theo một
chức năng mới. Đặc biệt, giống cây trồng mới, giống gia súc mới và phương pháp
mới về phòng bệnh, chẩn đoán bệnh và chữa bệnh cho người, súc vật và cây trồng
cũng được bảo hộ như sáng chế.
Nhìn chung, các quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng
chế cũng như điều kiện bảo hộ sáng chế ở nước ta trong thời gian này còn nhiều
hạn chế, giá trị pháp lý không cao. Đến ngày 21 tháng 1 năm 1989, với sự ra đời
của Pháp lệnh về Bảo hộ sở hữu công nghiệp, các quy định về bảo hộ sáng chế nói
chung và điều kiện bảo hộ sáng chế nói riêng được hệ thống hoá ở một mức độ
cao hơn và đầy đủ hơn. Vào thời gian này, tính hữu ích của giải pháp kỹ thuật
cũng đặc biệt được coi trọng. Tiêu chuẩn về khả năng áp dụng công nghiệp của
sáng chế được giới hạn rất hẹp là khả năng áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế và
xã hội. Trong thời gian này, với mục đích nhằm tận dụng triệt để mọi nguồn lực
sáng tạo trong nước và thu hút chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, các giải
pháp kỹ thuật đáp ứng được tiêu chuẩn tính mới so với trình độ kỹ thuật trong

nước cũng có thể được bảo hộ như là giải pháp hữu ích. Phạm vi đối tượng được
bảo hộ sáng chế so với các quy định tại Nghị định 31/CP ngày 23 tháng 1 năm
1981 vẫn được giữ nguyên.
Đầu năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới-WTO, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vận hành dựa trên cơ sở các văn
bản dưới luật của nước ta nói chung, và cơ chế bảo hộ sáng chế nói riêng, còn rất
nhiều điểm chưa phù hợp với các yêu cầu được đặt ra trong Hiệp định về các khía
cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ-TRIPS. Đứng trước đòi hỏi
phải hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam nhằm tương
thích với các quy định của Hiệp định TRIPS, một chương trình hành động về sở
hữu trí tuệ của Việt Nam đã được thiết lập vào cuối năm 1993, đầu năm 1994.
Theo đó, các quy định pháp luật liên quan đến bảo hộ sáng chế đã được nâng cấp,
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


20
được đưa vào Phần VI của Bộ luật dân sự năm 1995. Điều kiện về bảo hộ sáng chế
cũng được thiết lập lại theo hướng phù hợp hơn với các chuẩn mực chung của
pháp luật quốc tế thời kỳ hiện đại. Quy định pháp luật về phạm vi các đối tượng
được bảo hộ sáng chế, các tiêu chuẩn về tính mới, trình độ sáng tạo và khả năng áp
dụng công nghiệp đã được hoàn thiện về nhiều mặt.
Các quy định tại Phần VI của Bộ luật dân sự năm 1995, được tiếp tục sửa
đổi và hoàn thiện thông qua việc ban hành Bộ luật dân sự năm 2005 với Phần VI-
Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ- được thu gọn lại chỉ bao gồm các
quy định có tính chất “gốc” để điều chỉnh các quan hệ dân sự liên quan đến tài sản
sở hữu trí tuệ. Những quy định cụ thể, điều chỉnh việc xác lập quyền, điều kiện
bảo hộ, cơ chế bảo hộ.v.v. được đưa vào Luật sở hữu trí tuệ ban hành vào ngày 29
tháng 11 năm 2005, phát huy hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2006. Cho đến nay,
có thể nói, các quy định pháp luật của Việt Nam về bảo hộ sáng chế và điều kiện
bảo hộ sáng chế đã được hoàn thiện hơn nhằm để đáp ứng những nhu cầu điều

chỉnh mới trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
1.2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ SÁNG CHẾ
Thế kỷ 21 là thế kỷ bắt đầu của những học thuyết phát triển kinh tế mới.
Trong đó hạt nhân căn bản để tạo ra lợi nhuận không còn là các nhân tố truyền
thống như tư bản hay trang thiết bị nhà xưởng mà là những tri thức mới nhất về kỹ
thuật, công nghệ. Nền kinh tế được xây dựng bằng gạch và vữa đang dần dần được
thay thế bằng nền kinh tế của những ý tưởng, trong đó sự thịnh vượng được tạo ra
thông qua hoạt động sáng tạo và việc nắm được những giá trị của tri thức. Các
quốc gia hiện nay đang ngày càng nhận thức được rằng, bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế thực sự là chiếc chìa khoá để khởi động mọi quá trình đầu
tư. Tuy nhiên, mục tiêu đó chỉ có thể trở thành hiện thực chừng nào quốc gia đó
xây dựng được một hệ thống điều kiện bảo hộ sáng chế phù hợp.
1.2.1. Khái niệm điều kiện bảo hộ sáng chế
Một lần nữa, cần phải nhấn mạnh lại rằng, bảo hộ độc quyền sáng chế, xét
cho cùng, là một dạng hợp đồng xã hội. Trong đó, để đổi lấy việc được độc quyền
khai thác và cho phép người khác khai thác sáng chế trong một thời gian nhất
định, chủ sở hữu buộc phải công bố một cách công khai và đầy đủ những thông tin
liên quan đến giải pháp kỹ thuật mới được yêu cầu bảo hộ. Bản chất đó luôn luôn
được thể hiện một cách nhất quán trong suốt quá trình hình thành và phát triển các
quy định pháp luật về bảo hộ sáng chế trên toàn thế giới. Thực vậy, sáng chế
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


21
không được bảo hộ vì hao tổn vật chất và sức lao động đã được bỏ ra trong quá
trình nghiên cứu, chế tạo của chủ sở hữu và tác giả sáng chế. Yêu cầu của xã hội
đối với nhà sáng chế là dựa trên những nghiên cứu và trí tưởng tượng của mình
phải đưa ra được một giải pháp kỹ thuật phải hữu hiệu, có khả năng tạo ra những
bước tiến mới trong quá trình thực hiện việc làm chủ thiên nhiên của con người.
Các yêu cầu này đã được khái quát hoá và được pháp luật nâng lên trở thành

những chuẩn mực nhất định. Đó chính là điều kiện bảo hộ sáng chế.
Trong các công trình nghiên cứu trước đây về các quy định pháp luật liên
quan đến bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, điều kiện bảo hộ
sáng chế thường chỉ được xem xét dưới góc độ riêng biệt của nội dung từng điều
kiện. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa như thế nào là điều kiện bảo hộ
sáng chế. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, “điều kiện” là một thuật ngữ
dùng để chỉ những tính chất, những chuẩn mực nhằm để phê phán hoặc đánh giá
một vấn đề cụ thể nào đó.
Bởi vậy, chúng ta có thể hiểu điều kiện bảo hộ sáng chế là những chuẩn
mực về mặt kỹ thuật do pháp luật quy định để xem xét khả năng xác lập quyền sở
hữu công nghiệp đối với sáng chế. Cụ thể hơn, điều kiện bảo hộ sáng chế là những
đòi hỏi của Nhà nước đối với “chất lượng” của giải pháp kỹ thuật, hay nói một
cách khác là “giá trị” mà những thông tin được bộc lộ của sáng chế có khả năng
mang lại cho xã hội.
Thông thường, các điều kiện bảo hộ sáng chế thường đặt ra các yêu cầu đối
với giải pháp kỹ thuật dựa trên hai phương diện:
- Thứ nhất: Trình độ phát triển của giải pháp kỹ thuật. Theo đó, sáng
chế phải đạt được những bước tiến nhất định so với kiến thức chuyên môn
đã biết trong cùng lĩnh vực kỹ thuật. Đó có thể là yêu cầu về tính mới hoặc
tính sáng tạo xét trong phạm vi quốc gia bảo hộ hoặc trên phạm vi toàn thế
giới, tính cho đến thời điểm sáng chế được yêu cầu bảo hộ.
- Thứ hai: Khả năng thực hiện của giải pháp kỹ thuật trong thực tiễn.
Chính yêu cầu này đã tạo nên sự khác biệt căn bản nhất giữa bản chất của
sáng chế và phát minh. Theo đó, nội dung các ý tưởng được đề cập trong
sáng chế phải có khả năng áp dụng được vào thực tiễn cuộc sống. Đó có thể
là yêu cầu về khả năng áp dụng công nghiệp theo quy định pháp luật của đa
số các quốc gia trên thế giới hoặc cao hơn là yêu cầu về tính hữu ích của
sáng chế.
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam



22
Mức độ yêu cầu được đặt ra trong các điều kiện bảo hộ sáng chế có thể là
khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của từng quốc gia trên thế giới. Xu
hướng hiện nay của các quốc gia trên thế giới là yêu cầu được đặt ra trong các điều
kiện bảo hộ sáng chế ngày càng được quy định một cách nghiêm ngặt hơn. Phạm
vi giới hạn các đối tượng được bảo hộ sáng chế cũng được mở rộng. Bên cạnh đó,
một xu hướng khác cũng đang được định hình khá rõ nét. Đó là việc thống nhất
hoá các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế ở các quốc gia khác nhau trên thế
giới thông qua các công ước quốc tế mang tính chất khu vực hoặc toàn cầu về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế như công ước Paris, Hiệp ước về
hợp tác bảo hộ sáng chế (PCT), Hiệp định TRIPS. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các
xu hướng này đã khiến cho các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế luôn luôn
nằm trong trạng thái động một cách tương đối.
1.2.2. Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ sáng chế
Một câu hỏi được đặt ra là, điều kiện bảo hộ sáng chế được xây dựng dựa
trên những cơ sở nào? Thực vậy, cũng tương tự với các quy định pháp luật khác về
bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội,
điều kiện bảo hộ sáng chế luôn luôn chịu sự ảnh hưởng và chi phối nhất định của
các yếu tố hạ tầng cơ sở cũng như vai trò tác động của các yếu tố chính trị xã hội
khác. Ở đây, tôi xin được phân tích hai yếu tố căn bản nhất là cơ sở trực tiếp cho
việc hoạch định và xây dựng các quy định pháp luật về điều kiện bảo hộ sáng chế.
1.2.2.1. Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật của quốc gia bảo hộ và
trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới
Thực vậy, không ở bất kỳ quy định pháp luật nào mà trình độ phát triển của
khoa học kỹ thuật lại được phản ánh một cách sâu sắc và rõ nét như các quy định
về điều kiện bảo hộ sáng chế. Bởi phát triển khoa học kỹ thuật vừa là động lực vừa
là mục tiêu hướng tới cả hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng
chế nói chung và các điều kiện bảo hộ sáng chế nói riêng. Khi trình độ khoa học
kỹ thuật càng phát triển thì các yêu cầu được đặt ra đối với các giải pháp kỹ thuật

yêu cầu bảo hộ sáng chế càng cao hơn.
Trong nhiều thế kỷ trước đây, khi khoa học kỹ thuật trên thế giới nói chung
còn chưa phát triển thì mức độ yêu cầu của các điều kiện bảo hộ sáng chế cũng hết
sức đơn giản. Giải pháp kỹ thuật sẽ được bảo hộ độc quyền sáng chế nếu như nó
được coi là mới so với nền tảng phát triển kỹ thuật của chính quốc gia hoặc vùng
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


23
lãnh thổ tiến hành bảo hộ. Phạm vi các đối tượng được bảo hộ sáng chế cũng chỉ
dừng lại ở các máy móc, thiết bị và công cụ được chế tạo trong một nhà máy.v.v.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, khi mà tốc độ phát triển của khoa học
kỹ thuật và hoạt động chuyển giao công nghệ trên thế giới đang diễn ra hàng ngày
với một tốc độ chóng mặt, thì sáng chế không chỉ phải mới mà còn phải đạt được
trình độ sáng tạo so với trình độ kỹ thuật chung của cả thế giới. Phạm vi các đối
tượng được bảo hộ sáng chế cũng được mở rộng đến các lĩnh vực mới để phản ánh
sự đổi mới của công nghệ như công nghệ gen, công nghệ nanô.v.v.
Không phải ngẫu nhiên, trong các công trình điều tra nghiên cứu của Tổ
chức sở hữu trí tuệ thế giới-WIPO, khi đánh giá về mức độ thành công của hệ
thống pháp luật bảo hộ sáng chế ở các quốc gia trên thế giới, các kết luận thường
được đưa ra trên cơ sở phân tích hai dữ liệu là khả năng “nhập khẩu” các công
nghệ mới của nước ngoài và tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật trong nước.
Thực vậy, điều kiện bảo hộ sáng chế chỉ được coi là thành công một khi phản ánh
được một cách hài hoà cả hai yếu tố: trình độ khoa học công nghệ trong nước và
trình độ phát triển khoa học kỹ thuật thế giới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với
các quốc gia đang phát triển. Nếu rơi vào một trong hai thái cực nói trên, tất yếu sẽ
không thể tránh khỏi tình trạng bị lạc hậu về khoa học công nghệ.
Một trong những dẫn chứng thuyết phục nhất cho vấn đề này là hiện tượng
chia rẽ sâu sắc trong lĩnh vực kinh doanh số đang diễn ra rất phổ biến trên thế giới.
Trong khi một số nước như Hoa Kỳ, Hàn Quốc đang tiến hành cấp bằng độc

quyền sáng chế cho phương pháp kinh doanh dựa trên những ứng dụng của
internet và thương mại điện tử thì một nửa thế giới còn lại - trong đó, các quốc gia
kém phát triển và đang phát triển chiếm đa số- vẫn đang theo đuổi để bắt kịp với
những công nghệ cơ bản nhất về phần cứng máy tính. Lẽ đương nhiên, ở những
quốc gia, nơi mà khái niệm thương mại điện tử còn chưa tồn tại, hoặc chưa trở nên
phổ biến, thì việc đưa phương pháp kinh doanh dựa trên những ứng dụng công
nghệ số sẽ là một quyết định hết sức khó khăn. Bởi, xét trên một phương diện nào
đó, khi mà công nghệ kỹ thuật của quốc gia đang trong giai đoạn chập chững phát
triển, thì chính sách không bảo hộ độc quyền sáng chế ở một số lĩnh vực kỹ thuật
nhất định được coi là biện pháp cần thiết nhằm để tạo điều kiện cho quốc gia đó có
thể ứng dụng ngay được những công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới với chi phí
thấp nhất có thể. Tuy nhiên, nếu duy trì chính sách này trong một thời gian lâu dài,
tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Trước hết, đó là hiện tượng chảy máu chất
xám do những nhà khoa học có thể tìm kiếm những cơ hội phát triển năng động
Điều kiện bảo hộ sáng chế trong pháp luật Việt Nam


24
hơn ở những quốc gia có sự bảo hộ mạnh mẽ hơn đối với những sáng tạo trí tuệ.
Lâu dài hơn, đó là sự tụt hậu không tránh khỏi về trình độ phát triển khoa học kỹ
thuật của quốc gia so với mặt bằng chung của thế giới.
1.2.2.2. Chính sách kinh tế xã hội của quốc gia
Chính sách kinh tế xã hội của quốc gia bảo hộ trong mỗi thời kỳ cũng có
những ảnh hưởng hết sức to lớn đến việc thiết lập các điều kiện bảo hộ sáng chế.
Yếu tố này ít nhiều đã và đang tạo ra sự khác biệt tương đối trong điều kiện bảo hộ
sáng chế của các quốc gia trên thế giới.
Pháp luật nếu xét cho cùng là một loại công cụ của quyền lực chính trị. Bởi
vậy, các quy định về điều kiện bảo hộ sáng chế cũng phải được xây dựng phù hợp
với chính mục tiêu điều chỉnh các nhu cầu trong xã hội của lực lượng cầm quyền.
Chẳng hạn, công nghiệp chế tạo vũ khí là một trong những ngành mũi nhọn đã

đem lại lợi nhuận khổng lồ cho nền kinh tế Hoa Kỳ trong hai cuộc chiến tranh thế
giới I và chiến tranh thế giới thứ II. Chính vì lí do đó, vũ khí đã từng được coi là
một trong những đối tượng chính và chủ yếu được bảo hộ sáng chế ở Hoa Kỳ. Một
loạt các loại vũ khí quân sự đã được cấp bằng sáng chế vào thời gian này như tàu
ngầm (1902); máy bay quân sự (1906); rocket (1914); thuỷ phi cơ (1922); động cơ
phản lực (1940) Hoặc, ngày nay, nhằm hướng tới mục đích cổ vũ cho sự phát
triển mạnh mẽ của công nghiệp chế tạo phần mềm, Hoa Kỳ và Nhật Bản chính là
những quốc gia đầu tiên đã đưa phần mềm máy tính trở thành một trong những đối
tượng được bảo hộ sáng chế. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia trên thế giới, vũ khí
quân sự và phần mềm máy tính là những giải pháp kỹ thuật bị loại trừ khỏi các đối
tượng được bảo hộ sáng chế.v.v.
Thực tế là, hiện nay các quốc gia trên thế giới đã và đang nỗ lực hết sức
nhằm tìm kiếm sự cân bằng giữa những lợi ích của việc thúc đẩy sự phát triển
khoa học công nghệ và những giá trị đạo đức, tính nhân đạo cũng như lợi ích của
cộng đồng xã hội trong việc xây dựng cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với sáng chế nói. Phương hướng giải quyết vấn đề này như thế nào của các nhà
hoạch định chính sách kinh tế, xã hội trực tiếp ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến điều
kiện bảo hộ sáng chế của quốc gia đó. Việc bảo hộ sáng chế đối với các giải pháp
kỹ thuật liên quan đến công nghệ sinh học là một ví dụ.
Với những phát hiện quan trọng liên quan đến cấu trúc điều khiển bộ gen
của người và những tiến bộ trong khoa học về gen thực vật và động vật.v.v. các
bước phát triển đột phá trong công nghệ sinh học ngày nay đã mở ra những cơ hội

×