đại học quốc gia hà nội
Khoa luật
Bùi văn sơn
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện
pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu
công nghiệp
LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC
Hà NộI - 2008
đại học quốc gia hà nội
Khoa luật
Bùi văn sơn
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành
chính, hình sự và kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu công nghiệp
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30
LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Khánh
Hà NộI - 2008
MụC LụC
1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.3
1.2
1.3
1.3.1
1.3.2
1.3.3
1.4
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Mở đầu
Ch-ơng 1: khái quát chung về bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp BằNG BIệN PHáP HàNH CHíNH, HìNH
Sự, KIểM SOáT HàNG HóA XUấT KHẩU, NHậP KHẩU
LIÊN QUAN ĐếN Sở HữU CÔNG NGHIệP
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Các đối t-ợng sở hữu công nghiệp
Khái niệm bảo vệ quyền sở h-ũ công nghiệp bằng biện pháp hành
chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan
đến sở hữu công nghiệp
Biện pháp hành chính
Biện pháp hình sự
Biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở
hữu công nghiệp
Vai trò, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu,
Trang
1
5
5
5
7
8
9
15
16
19
20
22
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Ch-ơng 2: quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu
công nghiệp BằNG BIệN PHáP HàNH CHíNH, HìNH
Sự, KIểM SOáT HàNG HóA XUấT KHẩU, NHậP KHẩU
LIÊN QUAN ĐếN Sở HữU CÔNG NGHIệP
Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
bằng biện pháp hành chính
Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý bằng biện
pháp hành chính
Nguyên tắc xử phạt hành vi vi phạm hành chính
Hình thức, thẩm quyền và thủ tục xử phạt hành chính
Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
bằng biện pháp hình sự
Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp
bằng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên
quan đến sở hữu công nghiệp
Kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp
Tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
Ch-ơng 3: thực trạng BảO Vệ quyền sở hữu công nghiệp
bằng biện PHáP HàNH CHíNH, HìNH Sự, KIểM SOáT
HàNG HóA XUấT KHẩU, NHậP KHẩU LIÊN QUAN ĐếN
Sở HữU CÔNG NGHIệP và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về vấn đề này
27
27
28
40
42
58
74
74
75
84
3.1
3.2
3.2.1
3.2.2
3.2.3
3.2.4
3.3
3.3.1
3.3.2
3.3.3
3.3.4
Thực trạng xâm phạm quyền SHCN hiện nay
Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện
pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành
chính
Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hình sự
Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp kiểm soát
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp và các
tổ chức khác
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền
sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp hành chính
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp hình sự
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở
hữu công nghiệp
Hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp
Kết luận
Danh mục các tài liệu tham khảo
84
94
94
98
102
105
110
110
114
117
120
127
130
danh mục các từ viết tắt
Tên viết tắt
Tên tiếng Anh
Tên tiếng Việt
BLHS
Bộ luật Hình sự
KDCN
Kiểu dáng công nghiệp
NHHH
Nhãn hiệu hàng hóa
SHCN
Sở hữu công nghiệp
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TRIPS
Trade Related Aspects of
Intellectual Property
Rights
Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến th-ơng mại của quyền sở
hữu trí tuệ
XPVPHC
Xử phạt vi phạm hành chính
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
WTO
World Trade
Organization
Tổ chức Th-ơng mại Thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn nghiên cứu đề tài:
Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Bảo vệ quyền sở công nghiệp (SHCN) là vấn đề đã từng được đề cập đến
nhưng cùng với sự thay đổi phát triển của xã hội thì pháp luật về sở hữu trí tuệ
(SHTT) nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng cũng đã có nhiều sửa đổi, bổ
sung, mặt khác trong thực tế còn nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh
chưa ý thức được vai trò và tầm quan trọng của quyền SHCN, chưa có sự đầu tư
đúng mức cho việc duy trì, phát triển và bảo vệ quyền của mình dẫn đến những
vi phạm về quyền SHCN trong thời gian qua diễn ra phức tạp và chưa có sự giải
quyết triệt để. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến việc
ban hành và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền SHCN còn chậm và chưa đồng
bộ, sự am hiểu của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực này còn hạn chế.
Đây là một vấn đề không mới nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự.
- Tính cấp thiết của đề tài:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong những năm qua
trong đó có sự đóng góp rất lớn của các nhà sản xuất, kinh doanh họ đã đưa đến
cho người tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt nhất nhưng họ
cũng phải đối mặt với nạn hàng giả cũng như các hành vi khác xâm phạm quyền
SHCN, tình trạng này đang diễn ra ngày càng phổ biến với mức độ ngày càng
tinh vi phức tạp làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường kinh doanh lành
mạnh và quyền lợi hợp pháp của chủ SHCN cũng như lợi ích của người tiêu
dùng. Các quy định về SHCN đã được pháp điển hóa trong Bộ luật dân sự năm
1995 và tiếp tục được hoàn thiện quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, và
với sự ra đời của Luật SHTT năm 2005, lần đầu tiên được quy định trong một
đạo luật riêng, hơn thế nữa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải
hoàn thiện hệ thống luật pháp trong đó có pháp luật về SHTT. Trong Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như trong các phiên đàm phán về việc Việt
2
Nam xin gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), các đối tác yêu cầu
chúng ta phải xây dựng và thực thi nghiêm chỉnh pháp luật trong đó có vấn đề
về SHTT và các biện pháp bảo vệ quyền SHTT trong đó có vấn đề SHCN.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế tri thức ngày càng đóng vai trò
quan trọng, vấn đề bức thiết của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam là vấn đề bảo vệ quyền SHTT nói chung và bảo vệ quyền SHCN nói riêng
bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
có liên quan đến sở hữu công nghiệp nói riêng.
Đề tài được nghiên cứu trong bối cảnh trên, trong đó cập nhật những quy
định mới về xác lập và bảo hộ quyền SHCN, đồng thời đưa ra những ý kiến
nhằm hoàn thiện hơn các quy định về bảo vệ quyền SHCN.
Quyền SHTT, trong đó có SHCN, đóng vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng, thể hiện ở chỗ
nó có thể mang lại những lợi thế và lợi ích kinh tế cho người sở hữu, người sử
dụng. Với tầm quan trọng như vậy SHCN trở thành một tài sản quan trọng và rất
có giá trị của doanh nghiệp như thực tế đã cho thấy ví dụ những thương hiệu
Coca Cola, Pepsi được các chuyên gia đánh giá lên đến nhiều tỷ đô la. Chính
vì có giá trị như vậy mà nhiều khi quyền này bị người khác xâm phạm dưới
nhiều hình thức như chiếm đoạt, sử dụng trái phép, sản xuất, buôn bán hàng
giả So với thời kỳ trước khi đổi mới, pháp luật về bảo vệ quyền SHCN bằng
biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu có
liên quan đến sở hữu công nghiệp đã có sự phát triển vượt bậc về cả số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên, dù đã có những thành công nhất định cho việc tạo dựng
cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ quyền SHCN, pháp luật về bảo vệ quyền
SHCN bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu có liên quan đến SHCN vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn luôn
biến động. Thực tế cho thấy, để hoạt động bảo vệ quyền SHCN, pháp luật về
bảo vệ quyền SHCN bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp được tiến hành có hiệu
quả, không thể không tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Trong khi
3
đó, mặc dù chúng ta đã có một số công trình nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền SHCN bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp, nhưng cho
đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và đầy đủ. Chính vì
vậy, vấn đề tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với các nhà lý luận và thực tiễn, mà còn đối với cả
những người sản xuất, kinh doanh chân chính - chủ sở hữu, người sử dụng hợp
pháp các đối tượng SHCN, nhằm làm trong sạch và lành mạnh hoá thị trường;
và đây cũng là đòi hỏi tất yếu của xã hội trong quá trình phát triển và hội nhập
kinh tế thế giới. Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền sở
hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp” nhằm góp
thêm một lời bàn về vấn đề này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sẽ góp phần làm rõ những vấn đề:
- Nêu ra những điểm mới về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp
hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến
sở hữu công nghiệp theo quy định hiện hành;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế
về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp hành chính, hình sự, kiểm soát hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp;
- Phân tích, đánh giá và đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định
pháp luật về bảo vệ quyền SHCN bằng các biện pháp nêu trên.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Căn cứ vào thực tiễn về bảo vệ quyền SHCN trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường Việt Nam và phân tích, đánh giá các quy định pháp luật
trong nước và quốc tế về các biện pháp bảo vệ quyền SHCN đối với các đối
4
tượng SHCN (như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, NHHH,
chỉ dẫn địa lý, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn) bằng các biện pháp hành
chính, hình sự và kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp thống kê
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng
biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên
quan đến sở hữu công nghiệp
Chương 2: Các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp bằng biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp
Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp
hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến
sở hữu công nghiệp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH, HÌNH SỰ, KIỂM SOÁT HÀNG HÓA
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU LIÊN QUAN ĐẾN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp
Sở hữu công nghiệp được các nước công nghiệp công nhận, sử dụng từ
lâu và ngày càng được nhiều nước đang phát triển sử dụng như một phương tiện
quan trọng cho việc phát triển công nghệ và kinh tế. Ở nước ta, cho đến đầu
những năm 80, các vấn đề liên quan đến SHCN mới được quy định cụ thể trong
các văn bản pháp luật. Trong đó, các văn bản pháp luật quan trọng phải kể đến
là: Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 về nhãn hiệu hàng hoá, Nghị định
85/HĐBT ngày 13/5/1985 về kiểu dáng công nghiệp.
Năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiến hành Đổi Mới toàn
diện nền kinh tế và đã đạt được những kết quả nổi bật đưa đất nước dần dần
thoát khỏi khủng hoảng và từng bước ổn định và được đánh giá là một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, đời sống kinh tế - xã hội có
nhiều đổi thay. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hệ thống pháp luật cũng
được củng cố và một loạt các văn bản luật quan trọng ra đời làm cơ sở pháp lý
cho các hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có các văn bản về SHCN. Ngày 10
tháng 5 năm 1988 Chỉ thị 140/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về đẩy
mạnh các hoạt động sáng kiến, sáng chế và SHCN được ban hành, ngày 20
tháng 1 năm 1989 Pháp lệnh về bảo hộ quyền SHCN đã được Hội đồng nhà
nước thông qua đánh dấu một bước phát triển về pháp luật SHCN. Pháp lệnh đặt
nền tảng cho xác lập và bảo hộ các đối tượng SHCN như sáng chế, giải pháp
hưũ ích, kiểu dáng công nghiệp (KDCN), nhãn hiệu hàng hoá (NHHH). Các văn
bản nêu trên mặc dù còn nhiều hạn chế, chủ yếu mang nặng tính hành chính,
6
nhưng đã tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của pháp luật SHTT nói chung và
SHCN nói riêng.
Một cột mốc khác đánh dấu sự phát triển của pháp luật SHTT đó là sự ra
đời Bộ luật Dân sự 1995 pháp điển hoá các vấn đề về dân sự, đặt nền tảng pháp
lý cho các quyền dân sự và quyền sở hữu trong đó có quyền SHCN đánh dấu
một sự thay đổi mới tích cực của hệ thống bảo hộ và bảo vệ quyền SHCN với
mục tiêu đáp ứng ngày càng tốt xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Trong giai đoạn
này đã có hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng điều chỉnh các
quan hệ về SHTT nói chung và SHCN nói riêng, Nghị định 63/CP ngày 24
tháng 10 năm 1996 và được sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 06/2001/NĐ-CP
ngày 1 tháng 2 năm 2001 quy định chi tiết về SHCN; Nghị định 45/1008/NĐ-CP
này 1 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ; Nghị định
54/2000/NĐ-CP ngày 3 tháng 10 năm 2000 Về bảo hộ quyền SHCN đối với bí
mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh
tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN; Nghị định 42/2003/NĐ-CP ngày 2
tháng 5 năm 2003 của Chính phủ về bảo hộ quyền SHCN đối với thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn; Thông tư 3055/TT-SHCN ngày 31 tháng 12 năm 1996
của Bộ KHCN và MT hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền
SHCN và một số thủ tục khác trong Nghị định 63/CP; Thông tư 29/2003/TT-
BKHCN ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Bộ KHCN hướng thủ tục xác lập quyền
SHCN đối với KDCN; Và không thể không kể đến các các bộ luật và các văn
bản hướng dẫn thi hành quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vi phạm
trong lĩnh vực SHTT như: BLHS 1999 (BLHS) với các điều 156, 157, 158, 168,
170 và 171; Bộ luật Tố tụng hình sự 2004; Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số
điều Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998 và các lần sửa
đổi; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007
và 2008; Nghị định 57/CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng hàng hoá; Nghị định 12/1999/NĐ-
CP ngày 6 tháng 3 năm 1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
SHCN; Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3 tháng 5 năm 2000 hướng
7
dẫn thi hành Nghị định 12/1999/NĐ-CP; Luật Hải quan năm 2001 sửa đổi, bổ
sung năm 2005 tại Mục 5 Chương III quy định nguyên tắc tạm dừng làm thủ tục
hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền SHTT và
Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005 quy định cho tiết thi
hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám
sát hải quan; Quyết định 127/QĐ-TTg ngày 27 tháng 8 năm 2001 về thành lập
Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại; Chỉ thị
31/1999/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 1999 về đấu tranh chống sản xuất và
buôn bán hàng giả; Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-
BKHCNMT ngày 27 tháng 4 năm 2000 hướng dẫn thi hành Chỉ thị 31.
Sau đó, những quy định về quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói
riêng tiếp tục được hoàn thiện trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật SHTT
năm 2005. Sự ra đời của Luật SHTT thể hiện nỗ lực và thành công của Việt
Nam trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT cũng như pháp luật
về SHCN.
Bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia về SHTT nói chung và SHCN nói
riêng, Việt Nam cũng đã tham gia các công ước quốc tế về SHTT, SHCN và dựa
vào đó xây dựng các quy phạm pháp luật quốc gia về SHCN phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Chúng ta đã là thành viên của Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công
nghiệp và Thoả ước Madrid về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ năm 1949; Công
ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới năm 1976; và Hiệp ước Hợp tác
bằng sáng chế từ tháng 3/1993; Công ước Geneva từ ngày 6/7/2005, Công
ước Brussels từ ngày 12/1/2006 và Nghị định thư liên quan đến Thoả ước
Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu từ ngày 11/7/2006. Việt Nam cũng đã ký
kết các hiệp định song phương về bảo hộ sở hữu trí tuệ với Hoa Kỳ và Thuỵ Sĩ.
Chúng ta cũng đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) cũng đồng nghĩa với việc tham gia Hiệp định về các khía cạnh liên
quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPS
).
Như vậy có thể nói rằng đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các công
ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực SHTT và xây dựng hệ thống pháp luật
quốc gia về SHCN cũng khá là đầy đủ, điều này là xu hướng tất yếu trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
8
chức, cá nhân đối với các đối tượng SHCN đây cũng là sự thể hiện cam kết của
Việt Nam khi gia nhập WTO.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo hai nghĩa như sau:
- Theo nghĩa nghĩa rộng: Quyền SHCN là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập và áp dụng
các đối tượng SHCN.
- Theo nghĩa hẹp: Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, NHHH, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
(Điều 4 Luật SHTT 2005).
1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp và quyền tác giả là hai lĩnh vực cơ bản của
quyền SHTT, quyền SHCN khác với quyền tác giả ở đối tượng bảo hộ, thời hạn
bảo hộ, điều kiện bảo hộ, thủ tục bảo hộ cụ thể như sau:
- Đối với đối tượng bảo hộ: Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học. Trong khi đó, đối tượng của quyền SHCN là sáng
chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thương
mại, bí mật kinh doanh.
- Đối với thời hạn bảo hộ: Quyền tác giả có thể được bảo hộ vô hạn đối
với quyền nhân thân (trừ quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác
công bố) và có thời hạn đối với quyền tài sản. Còn quyền SHCN về nguyên tắc
được bảo hộ có thời hạn. Ví dụ: thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm kể từ ngày
nộp đơn; thời hạn bảo hộ KDCN là 05 năm kể từ ngày nộp đơn, được gia hạn
hai lần, mỗi lần 05 năm; chỉ dẫn địa lý được bảo hộ vô thời hạn.
- Đối với điều kiện bảo hộ: Các tác phẩm, văn học, nghệ thuật được bảo
hộ khi mang tính nguyên gốc và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất
9
định. Trong khi đó, về nguyên tắc, đối tượng SHCN được bảo hộ khi có tính
mới,
tính sáng tạo, tính khác biệt, tính ứng dụng. Tuy nhiên, những điều kiện bảo hộ
này khác nhau đối với từng đối tượng SHCN. Ví dụ, giải pháp kỹ thuật chỉ được
bảo hộ là sáng chế khi có tính mới, tính sáng tạo và tính ứng dụng; nhưng nhãn
hiệu được bảo hộ khi có tính khác biệt.
- Đối với thủ tục bảo hộ: Đối với hầu hết các đối tượng SHCN, việc bảo
hộ chỉ đặt ra khi chủ thể quyền đã thực hiện thủ tục bảo hộ đối tượng SHCN tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, yêu cầu này không mang tính
bắt buộc đối với các đối tượng thuộc quyền tác giả.
1.2. CÁC ĐỐI TƯỢNG SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.2.1. Sáng chế
Theo khoản 12 Điều 4 Luật SHTT thì: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật có
tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Được bảo hộ
dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích hoặc bằng độc quyền sáng
chế cho những giải pháp kỹ thuật thoả mãn 3 điều kiện: tính mới, tính sáng tạo
và tính ứng dụng (khoản 1 Điều 58 Luật SHTT).
- Tính mới: Sáng chế được coi là có tính mới nếu chưa bị bộc lộ công khai
dưới bất kỳ hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào
khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng ký sáng chế hoặc
trước ngày ưu tiên trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền
ưu tiên. Sáng chế được coi là chưa bị bộc lộ công khai nếu chỉ có một số người
có hạn được biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về sáng chế đó (khoản 1,2 Điều 60).
- Tính sáng tạo: Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào
các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả
bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước
ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế
10
trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó
là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người
có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng (Điều 61).
- Tính ứng dụng: Sáng chế được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp
nếu có thể thực hiện được việc chế tạo, sản xuất hàng loạt sản phẩm hoặc áp
dụng lặp đi lặp lại quy trình là nội dung của sáng chế và thu đựơc kết quả ổn
định (Điều 62).
1.2.2. Giải pháp hữu ích
Sáng chế có thể được bảo hộ dưới hình thức bằng độc quyền giải pháp
hữu ích, giải pháp hữu ích là giải pháp kỹ thuật không phải là hiểu biết thông
thường, có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp. Có thể nói giải pháp
hữu ích là mức độ thấp của sáng chế, giải pháp hữu ích không có tính sáng tạo
như sáng chế.
Trong các văn bản pháp luật được ban hành trước năm 1995 và trong Bộ
luật Dân sự năm 1995, giải pháp kỹ thuật có tính mới và tính ứng dụng được gọi
là giải pháp hữu ích. Tuy nhiên, trong Luật SHTT, loại giải pháp kỹ thuật này
được gọi tên mới là “Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền
giải pháp hữu ích” (khoản 2 Điều 58). Tên gọi mới này không phù hợp, mà nên
gọi là giải pháp hữu ích. Bởi lẽ trong một số công ước về quyền SHTT và pháp
luật của nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang sử dụng thuật ngữ giải pháp hữu
ích để chỉ những giải pháp kỹ thuật có tính mới và tính ứng dụng, hơn nữa
những quy định trong Điều 58 Luật SHTT không logic. Khoản 1 quy định sáng
chế được bảo hộ nếu đáp ứng ba điều kiện: có tính mới, có trình độ sáng tạo và
có khả năng áp dụng công nghiệp, vậy tại sao theo khoản 2 một giải pháp kỹ
thuật chỉ thoả mãn 2 điều kiện: có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp
cũng được gọi tên là sáng chế?
11
1.2.3. Kiểu dáng công nghiệp
Khoản 13 Điều 4 Luật SHTT quy định KDCN là hình dáng bên ngoài của
sản phẩm có tính mới, tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.
KDCN được bảo hộ nếu đáp ứng được 03 điều kiện dưới đây
- Tính mới: KDCN được coi là có tính mới nếu KDCN đó khác biệt đáng
kể với những, KDCN đã bị bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước
ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký KDCN được hưởng
quyền ưu tiên (khoản 1 Điều 65).
- Tính sáng tạo: KDCN được coi là có tính sáng tạo nếu căn cứ vào các
KDCN đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản
hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp
đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký KDCN trong trường hợp đơn được
hưởng quyền ưu tiên, KDCN đó không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với
người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực tương ứng (Điều 66).
- Tính ứng dụng: KDCN được coi là có khả năng áp dụng công nghiệp
nếu có thể dùng làm mẫu để chế tạo hàng loạt sản phẩm có hình dáng bên ngoaì
là KDCN đó bằng phương pháp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp (Điều 67).
1.2.4. Thiết kế bố trí
Khoản 15 Điều 4 Luật SHTT Thiết kế bố trí là cấu trúc không gian của
các phân tử mạch và các mối liên kết các phân tử đó trong mạch tích hợp bán
dẫn. Thiết kế bố trí được bảo hộ nếu có tính nguyên gốc và tính mới thương
mại.
- Tính nguyên gốc: Thiết kế bố trí được coi là có tính nguyên gốc nếu
thoả mãn hai điều kiện: Là kết quả hoạt động sáng tạo của chính tác giả; Chưa
được những người sáng tạo thiết kế bố trí và những nhà sản xuất mạch tích hợp
bán dẫn biết đến một cách rộng rãi tại thời điểm tạo ra thiết kế bố trí đó (khoản 1
Điều 70).
12
- Tính mới thương mại: Thiết kế bố trí được coi là có tính thương mại nếu
chưa được khai thác thương mại tại bất kỳ nơi nào trên thế giới trước ngày nộp
đơn đăng ký (khoản 1 Điều 71).
1.2.5. Nhãn hiệu hàng hóa
Khoản 16 Điều 4 Luật SHTT quy định: Nhãn hiệu là những dấu hiệu nhìn
thấy được và có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu
với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu thỏa mãn 02
điều kiện sau đây:
- Dấu hiệu nhìn thấy được thể hiện dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình ảnh,
hình vẽ, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp của các yếu tố kể trên, được thể
hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc (khoản 1 Điều 72).
- Khả năng phân biệt, nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu
được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều
yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ (khoản 2 Điều 72) và
không thuộc các trường hợp sau đây theo quy định tại khoản 2 Điều 74:
+ Hình, hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ
không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa
nhận rộng rãi với danh nghĩa là một nhãn hiệu;
+ Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của
hàng hoá, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thuờng
xuyên, nhiều người biết đến;
+ Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số
lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính
khác mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được
khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng
ký nhãn hiệu;
+ Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh
doanh;
13
+ Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp
dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn
hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng
nhận;
+ Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc
tuơng tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn
trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký
nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng
hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn
được hưởng quyền ưu tiên;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký
nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực
bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu
được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc
tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng
hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh
hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn
hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng
của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người
tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
14
+ Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu
việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn
gốc địa lý của hàng hoá;
+ Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được
dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu
mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không
có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
+ Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với KDCN của người
khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký KDCN có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu
tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.
1.2.6. Tên thương mại
Tại khoản 21 Điều 4 Luật SHTT quy định: Tên thương mại là những dấu
hiệu được sử dụng để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với
chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Điều 78 luật này quy định khả năng phân biệt của tên thương mại được
công nhận nếu thoả mãn 03 điều kiện sau:
+ Chứa thành phần tên riêng, trừ trường hợp đã được biết đến rộng rãi do
sử dụng;
+ Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại
mà người khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh;
+ Không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của
người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó
được sử dụng.
1.2.7. Chỉ dẫn địa lý
Chỉ dẫn địa lý là tên địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc
nước dùng để chỉ xuất xứ của sản phẩm từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ
hoặc nước đó với điều kiện sản phẩm có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính
15
chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước
tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.
Điều 79 Luật SHTT quy định chỉ dẫn địa lý được bảo hộ khi thoả mãn 02
điều kiện:
- Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;
- Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính
chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước
tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.
Danh tiếng của sản phẩm được xác định bằng sự tín nhiệm của người tiêu
dùng đối với sản phẩm; số lượng người tiêu dùng biết đến sản phẩm.
Chất lượng, đặc tính của sản phẩm được xác định bằng những chỉ tiêu
nhất định có thể kiểm tra được bằng phương tiện kỹ thuật hoặc chuyên gia với
phương pháp kiểm tra phù hợp.
Các điều kiện địa lý là những yếu tố tự nhiên, yếu tố con người quyết định
danh tiếng, chất lượng, đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Trong đó,
yếu tố tự nhiên gồm: khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái; Yếu tố
con người gồm: kỹ năng, kỹ xảo của người sản xuất, quy trình sản xuất truyền
thống của địa phương.
Khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý phải có ranh giới được xác định chính
xác bằng từ ngữ và bản đồ.
1.2.8. Bí mật kinh doanh
Điều 84 Luật SHTT quy định: Bí mật kinh doanh là những thông tin mà
không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; khi được sử
dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so
với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; và được
chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không
bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
16
Bí mật kinh doanh chỉ được bảo hộ nếu thoả mãn 03 điều kiện sau:
- Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
- Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật
kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh
doanh đó;
- Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh
doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
1.3. KHÁI NIỆM BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP BẰNG BIỆN
PHÁP HÀNH CHÍNH, HÌNH SỰ, KIỂM SOÁT HÀNG HÓA XUẤT KHẨU, NHẬP
KHẨU LIÊN QUAN ĐẾN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Đối tượng của bảo vệ quyền SHCN bao gồm quyền sở hữu của cá nhân,
tổ chức đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, KDCN, nhãn hiệu, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, tên thương mại và quyền sử dụng đối
với chỉ dẫn địa lý.
Người nào sử dụng các đối tượng SHCN của người khác đang trong thời
gian bảo hộ mà không xin phép chủ sở hữu các đối tượng này thì bị coi là xâm
phạm quyền SHCN (trừ các trường hợp có quy định riêng) và tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Bảo vệ quyền SHCN được hiểu là nhà nước và chủ văn bằng SHCN sử
dụng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu các đối tượng SHCN của
mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối
tượng này.
Quyền SHCN có thể được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, hình sự,
kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới liên quan đến sở hữu công
nghiệp. Trong đó chủ SHCN có thể tự bảo vệ hoặc bằng hoạt động của cơ quan
nhà nước thông qua việc khởi kiện tại Toà án, hoặc tố cáo với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác như Thanh tra Khoa học và Công nghệ, Cảnh sát điều
17
tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Hải quan, Quản lý thị trường,
Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 199 Luật SHTT).
Bảo vệ quyền SHCN cũng chính là góp phần tăng cường pháp chế, là bảo
đảm sự chấp hành các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực SHCN của các chủ thể. Hoạt động bảo vệ quyền SHCN nhằm đảm bảo
cho các nội dung của quy phạm pháp luật về SHCN được thi hành nghiêm
chỉnh, có hiệu lực, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của xã
hội, của chủ sở hữu văn bằng bảo hộ và quyền lợi của người tiêu dùng.
Các đối tượng SHCN đang được bảo hộ là tài sản của các chủ thể quyền
SHCN đó là doanh nghiệp, cá nhân được pháp luật thừa nhận. Bảo vệ quyền
SHCN cũng là thực hiện quyền và nghĩa vụ quốc tế mà Việt Nam đã cam kết
trong các công ước quốc tế về SHTT và nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương. Việt Nam đã là thành viên của WTO, nội dung của các văn
bản này, đặc biệt của Hiệp định TRIPS đều quy định trách nhiệm của các bên
tham gia trong việc thực thi các điều khoản đã cam kết, trong đó đảm bảo việc
bảo vệ quyền SHCN của các tổ chức, cá nhân là chủ văn bằng đang được bảo
hộ.
1.3.1 Biện pháp hành chính
Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ đầu năm 1995 và ngày 7 tháng 11
năm 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, vào
trước thời gian đó, hệ thống bảo hộ quyền SHTT vận hành chủ yếu trên cơ sở
các văn bản dưới luật như Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN (1989) và Pháp lệnh
bảo hộ quyền tác giả (1994) do Hội đồng Nhà nước ban hành và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Theo các văn bản này các đối tượng được bảo hộ là sáng
chế, giải pháp hữu ích, KDCN, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá và
các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, biện pháp xử lý các hành vi xâm
phạm quyền SHTT chủ yếu là biện pháp hành chính.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
ban hành năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008 thì “Vi phạm hành
18
chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm
phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Do đó, các hành vi xâm
phạm trật tự quản lý hành chính nói chung, hành vi xâm phạm quyền SHCN nói
riêng đều là những hành vi trái pháp luật (có thể là hành động hoặc không hành
động) của cá nhân, tổ chức xâm phạm quy tắc, trật tự quản lý nhà nước, do các
chủ thể có năng lực pháp luật, năng lực hành vi thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm ở mức thấp mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Biện
pháp này thể hiện sự không cân bằng với một bên có quyền là cơ quan nhà nước
nhân danh nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình lên đối tượng bị quản lý
- người có nghĩa vụ phục tùng. Đây là công cụ quản lý hữu hiệu nhằm bảo vệ
trật tự quản lý hành chính nhà nước, trật tự xã hội.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN là biện pháp do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
(XPVPHC) đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN chưa đến mức truy cứu
trách nhiệm hình sự và theo đề nghị của chủ sở hữu đối tượng SHCN hoặc trong
trường hợp chính các cơ quan này phát hiện vi phạm và xử lý theo thẩm quyền.
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm
quyền SHCN thuộc các trường hợp chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và cho xã hội; Không chấm dứt hành vi xâm phạm khi đã được
chủ thể quyền thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó; Sản xuất,
nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về SHTT; Sản xuất, nhập
khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ
hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này.
Trước khi có Luật SHTT việc xác định các hành vi xâm phạm quyền
SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng ở mức độ bị xử lý bằng biện pháp
hành chính không được quy định thống nhất mà tản mát trong nhiều văn bản
pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau, giá trị pháp lý khác nhau và do nhiều
19
cơ quan ban hành với hiệu lực pháp lý khác nhau như Luật, Nghị định, Thông
tư, Chỉ thị Với sự ra đời của Luật SHTT và Nghị định số 106/2006/NĐ-CP
ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định XPVPHC về SHCN (“Nghị
định 106”) đã quy định các hành vi vi phạm quyền SHCN bị xử lý vi phạm hành
chính cũng như thẩm quyền xử phạt, bao gồm Uỷ ban nhân dân các cấp, cơ quan
Công an, lực lượng Quản lý thị trường, cơ quan Hải quan, Thanh tra chuyên
ngành về SHTT. Với sự quy định rõ ràng như vậy sẽ tạo điều kiện cho các cơ
quan chức năng xử lý vi phạm kịp thời, nhanh chóng, chính xác.
Hiện nay tình hình xâm phạm quyền SHCN đang diễn ra rất phức tạp và
khi có thiệt hại xảy ra thì vấn đề bồi thường theo thủ tục dân sự là cách để giải
quyết thỏa đáng quyền lợi của chủ thể quyền SHCN, tuy nhiên hiệu quả hoạt
động của cơ quan tư pháp trong lĩnh vực bảo vệ quyền SHCN còn nhiều hạn
chế, trong khi đó với biện pháp hành chính được tiến hành đơn giản, ít tốn thời
gian, tiền bạc giúp ngăn chặn kịp thời hành vi xâm phạm, chính vì vậy bảo vệ
quyền SHCN bằng biện pháp hành chính được sử dụng chủ yếu hiện nay. Xử lý
vi phạm quyền SHCN bằng biện pháp hành chính không chỉ nhằm trừng phạt,
răn đe những hành vi xâm phạm quyền với các chế tài được quy định trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính, tịch thu và xử lý hàng hóa xâm phạm quyền
SHCN…mà còn góp phần hạn chế, ngăn ngừa tái phạm và trong nhiều trường
hợp đây là một trong căn cứ để xử lý hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
SHCN.
1.3.2. Biện pháp hình sự
Có thể nói bảo vệ quyền SHCN bằng biện pháp hình sự là việc cơ quan có
thẩm quyền buộc người có năng lực trách nhiệm hình sự mà thực hiện hành vi
xâm phạm đến quyền SHCN của tổ chức, cá nhân khác một cách cố ý hoặc vô ý
và được quy định trong BLHS phải chịu hình phạt theo quy định của BLHS.