Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.27 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HOÀNG THỦY



BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG,
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Hoàng Thủy







MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài 4
4. Phạm vi nghiên cứu 4

5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của đề tài 5
7. Kết cấu của đề tài 5
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU
DÙNG VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG 6
1.1 Khái quát chung về người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng 6
1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng 6
1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam 12
1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng 18
1.2 Khái niệm và đặc điểm của bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng 26
1.2.1 Khái niệm 26
1.2.2 Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng 28
1.2.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng 44
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG 47

2.1 Cơ sở pháp lý về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng 47
2.2 Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật Việt Nam về bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng 51
2.2.1 Sơ lược lịch sử chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng 51
2.2.2 Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và nguyên nhân 54
2.2.3 Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm

quyền lợi người tiêu dùng 67
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG 86
3.1 Quan điểm hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng 86
3.1.1 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với người tiêu dùng 86
3.1.2 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng điều chỉnh đối với tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh 87
3.1.3 Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tác động đến sự phát triển kinh
tế - xã hội 89
3.2 Phương hướng cơ bản hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng 90
3.3 Các giải pháp hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng 93
3.3.1 Hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật về bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi người tiêu dùng 93
3.3.2 Các giải pháp để tăng hiệu quả việc thực thi pháp luật 96
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nền kinh tế Việt Nam những năm
gần đây ngày càng phát triển và đạt được những kết quả quan trọng. Việc hòa
nhập vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng
thời cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức

Thương mại thế giới WTO, là thành viên của ASEAN, APEC. Điều đó đồng
nghĩa với việc hàng hóa, sản phẩm nước ngoài sẽ tràn vào thị trường Việt
Nam và tất yếu là cạnh tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Tính hai mặt của vấn đề
này ngày càng được thể hiện rõ nét. Xét về mặt tích cực, người tiêu dùng sẽ
được lợi khi có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn sản phẩm chất lượng tốt và phù
hợp với túi tiền của mình nhưng ngược lại mặt trái của vấn đề cũng là ở chỗ
đó. Một khi người tiêu dùng đứng trước các sản phẩm hàng hóa vô cùng
phong phú, đa dạng, nhà sản xuất nào cũng tung ra các chiêu thức quảng cáo
sản phẩm mình là tốt nhất thì người tiêu dùng có thực sự dễ dàng khi lựa chọn
được sản phẩm chất lượng như ý?
Có một thực tế mà chúng ta dễ dàng nhận ra là chưa khi nào vấn đề
người tiêu dùng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Đặc biệt trong thời
gian gần đây, trên thị trường xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh mới
như bán hàng qua mạng, qua điện thoại… giao dịch điện tử để để đặt mua
hàng hóa, dịch vụ từ một nước khác cũng đang phát triển. Những phương tiện
giao dịch hiện đại tạo sự thuận tiện cho các bên nhưng bên cạnh những tiện
ích thì đây cũng là môi trường làm phát sinh những hành vi vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng ngày một tinh vi và phức tạp hơn.
Người tiêu dùng là một tác nhân kinh tế quan trọng và chiếm số lượng
đông đảo trong xã hội nhưng lại bị vi phạm quyền lợi nhiều nhất. Gần đây,
2
trên thực tế đã xảy ra các vụ vi phạm của các nhà sản xuất, kinh doanh mà
người tiêu dùng là đối tượng bị xâm phạm quyền lợi. Đã có nhiều vụ vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng liên quan đến thực phẩm bị nhiễm độc; buôn bán
hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng v.v… Cụ thể hàng
loạt các vụ vi phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng được
phát hiện như vụ xăng pha aceton, vụ nước tương nhiễm chất 3-MCPD, vụ
gian lận xăng dầu hay gần đây nhất là việc phát hiện hàng loạt các cơ sở kinh
doanh mỡ động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ, vụ sữa melamine trẻ em, vụ
mũ bảo hiểm không bảo đảm chất lượng… Những vụ việc này đã gây thiệt

hại không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí là tính
mạng của người tiêu dùng.
Thực tế trên đã cho thấy tình trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
ngày càng trở nên phổ biến. Vậy thực sự thì điều mà người tiêu dùng cần nhất
ở đây là gì? Đó là một cơ chế bảo vệ quyền lợi cho họ và hơn nữa là bồi
thường khi có thiệt hại xảy ra. Khi người tiêu dùng tham gia vào giao lưu dân
sự họ sẽ không nghĩ đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của mình ra sao nếu sản
phẩm mà họ được cung ứng không có vấn đề gì nhưng khi có sự vi phạm từ
phía nhà sản xuất họ mới nghĩ đến quyền lợi của mình và yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Chính vì lẽ đó giải quyết được vấn đề bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng sẽ giúp bảo vệ người tiêu dùng một cách thiết thực nhất, thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh và phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Có
nhiều công cụ để thực hiện nhưng hiện nay pháp luật được coi là công cụ hữu
hiệu nhất để từ đó có thể kết hợp hiệu quả với các biện pháp, công cụ khác.
Tuy nhiên, pháp luật trong lĩnh vực này còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất
cập cần phải được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” cho đề tài
luận văn thạc sỹ Luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là vấn đề
được rất nhiều đối tượng quan tâm và đang là vấn đề còn nhiều tranh luận.
Luật “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” số 59/2010/QH12 của Quốc Hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực ngày 1/7/2011 đã góp
phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, trên
thực tế việc áp dụng các biện pháp chế tài nói chung, biện pháp bồi thường
thiệt hại nói riêng cho người tiêu dùng khi họ bị xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp vẫn còn nhiều bất cập. Liên quan đến vấn đề này đã có nhiều công
trình nghiên cứu và nhiều bài viết như “Những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng

Việt Nam” của Đoàn Văn Trường, NXB Khoa học và kỹ thuật hay “Tìm hiểu
luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Việt
Nam” của Viện Nhà nước và pháp luật, NXB Lao động 1999; “Khách hàng là
thượng đế” của tác giả Phạm Côn Sơn, NXB Phương Đông năm 2006; “Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng và trách nhiệm của chúng ta” của tác giả Lê
Văn Thiệu (Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam); “Người
tiêu dùng trước xu thế hội nhập thị trường khu vực AFTA” của TS. Nguyễn
Mộng Hùng… Vấn đề này cũng được đề cập ở các báo và tạp chí như “Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của tác giả Ngô
Vĩnh Bạch Dương, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2000; TS. Nguyễn
Văn Vân với “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng”, Đặc san khoa học pháp lý… “Đặc điểm văn hóa tiêu dùng Việt Nam
mới” của Viện Nghiên Cứu Tư Vấn Phát Triển Xã Hội - Trường ĐH Quốc
Gia TP.HCM (2009) được đăng trên , ngày 10/05; “Vì
sao người tiêu dùng vẫn chưa "mặn mà" với Vinastas” của tác giả Y Nhung
(2010) đăng trên http://vneconomy, ngày 14/10… Tuy nhiên, các công trình
và các bài viết nêu trên chỉ tiếp cận ở góc độ khái quát về khoa học pháp lý
4
đối với bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng hoặc
nghiên cứu nó trong từng lĩnh vực, dưới những góc độ khác nhau hay là
những vấn đề cụ thể mang tính thời sự. Chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể và chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng.
Yêu cầu có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện về vấn đề
này để rút ra được những cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng từ đó tìm ra nguyên nhân và
giải pháp hoàn thiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng vì thế thật sự cần thiết đối với mọi người nói chung, người
tiêu dùng nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài

Với đề tài này, tác giả nhằm làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn xung quanh việc bồi thường thiệt hại khi có sự xâm phạm quyền lợi
người tiêu dùng. Từ đó, đưa ra những giải pháp thiết thực để góp phần giải
quyết những bất cập, tồn tại của những quy định pháp luật, hướng đến đảm
bảo một cách tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và quyền được
bồi thường thiệt hại nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn, tác giả không có tham vọng nghiên cứu
và trình bày tất cả những vấn đề liên quan đến người tiêu dùng mà chỉ nghiên
cứu ở khía cạnh bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
với tính chất là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong luật dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ được nội dung cần nghiên cứu một cách tốt nhất, tác giả
đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá
5
trình nghiên cứu, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng
hợp kết hợp so sánh với pháp luật một số nước cũng có những quy định về
vấn đề này. Bên cạnh đó, tác giả nêu và bình luận một số quan điểm khoa học,
pháp lý liên quan đến đề tài. Cụ thể:
Ở Chương 1, tác giả đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phân
tích, tổng hợp so sánh, ở Chương 2 sử dụng phương pháp thống kê, phân tích,
bình luận, liên hệ các vụ việc thực tế và ở Chương 3 sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng, phân tích.
6. Đóng góp của đề tài
- Tác giả thực hiện đề tài với ý nghĩa mang đến cho người đọc cái nhìn
toàn diện và sâu sắc hơn về khía cạnh pháp lý bồi thường thiệt hại khi có sự
xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, thu hút sự quan tâm của các cơ quan
chức năng đến vấn đề đang mang tính thời sự này để từ đây có những hướng
nghiên cứu, sáng tạo hoàn thiện pháp luật và nâng cao tính khả thi của pháp

luật, đồng thời nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, của toàn xã hội và
trách nhiệm của cộng đồng trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người
tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường nói riêng.
- Đề tài có thể là tài liệu tham khảo thêm của những người quan tâm.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng và bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện chế định bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.

6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
VÀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG

1.1 Khái quát chung về ngƣời tiêu dùng và quyền lợi của ngƣời tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng
Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trong đó mọi cá nhân, tổ chức đều được tự do sản xuất, kinh
doanh thu lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật. Xã hội có người bán, người
mua và quan hệ mua – bán được điều tiết theo quy luật cung cầu của thị
trường. Lúc này, một trong những vấn đề được xã hội quan tâm hàng đầu là
vấn đề người tiêu dùng.
Tuy nhiên, chúng ta hãy quay ngược thời gian nhìn lại quá khứ, khi mà
nền kinh tế mới chỉ là “tự cung tự cấp”. Lúc đó xã hội có sản xuất và có tiêu
thụ nhưng sản phẩm làm ra là để phục vụ ngay cho cuộc sống của người sản

xuất, cho chính nhu cầu sinh hoạt của họ, có chăng cũng chỉ là sự trao đổi vật
phẩm ở mức độ sơ khởi nhất. Mặc dù vậy đây cũng là những hình thái ban
đầu của sự tiêu dùng, thời kì này chưa có khái niệm người tiêu dùng với đầy
đủ ý nghĩa và đặc điểm như hiện nay chúng ta đang sử dụng.
Bước sang nền kinh tế quản lý hành chính, bao cấp, việc cung ứng
hàng hóa hay tiêu thụ sản phẩm đều nằm dưới sự quản lý của Nhà nước và
được điều chỉnh, phân phối thông qua chế độ tem phiếu. Người sản xuất
hàng hóa, cung ứng dịch vụ là Nhà nước còn người mua và sử dụng là
người dân. Tuy nhiên, người dân hoàn toàn thụ động, không hề có sự chọn
lựa. Thậm chí có những mặt hàng được Nhà nước phân phối không đúng
với nhu cầu của họ nhưng vì nhà nước “cho” nên họ vẫn nhận. Mặt khác,
7
hầu hết người dân cũng không đủ khả năng kinh tế để mua sản phẩm ngoài
phân phối hay những mặt hàng do tư nhân cung cấp. Mặc dù xã hội đã có
sự phân chia “người sản xuất” và “người tiêu dùng” nhưng lúc này vấn đề
người tiêu dùng vẫn chưa được đặt ra.
Với nền kinh tế thị trường, chúng ta dễ dàng nhận ra những ưu điểm
vượt trội của nó so với những nền kinh tế trước đây. Đặc biệt, “Nhà nước
thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”
[14.Điều 15]. “Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất,
kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm; cùng phát triển
lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật” [14.Điều 16]. Nhà
nước đã chấm dứt sự độc quyền, mở ra cơ hội phát triển cho các doanh
nghiệp, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Đây là một tất yếu của sự phát triển
và cũng từ đó mà vấn đề người tiêu dùng chính thức được đề cập đến ở
phương diện mới mẻ. Khái niệm người tiêu dùng được hiểu ở nhiều góc cạnh
khác nhau nhưng hầu hết đều phản ánh được đầy đủ bản chất, đặc điểm và vị

trí của chủ thể này trong các mối quan hệ của nền kinh tế, đặc biệt là mối
quan hệ cung - cầu.
Ở Việt Nam, vấn đề người tiêu dùng mới xuất hiện một số năm gần
đây. Nhiều nước trên thế giới đã đi trước chúng ta vài chục năm và việc bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có nhiều bước phát triển lớn. Đã có nhiều
định nghĩa khác nhau về người tiêu dùng:
“IOCU” (International Organization of Consumer Unions) - Tổ chức
Quốc tế người tiêu dùng được thành lập vào 01/04/1960 do 5 nước Mỹ, Anh,
Hà Lan, Bỉ, Úc ký quyết định trong “Hội nghị quốc tế khuyến khích và thử
8
nghiệm, người tiêu dùng” tại La Hay; đến năm 1985 đổi tên thành “CI”
(Consumer International). Theo Luật mẫu bảo vệ người tiêu dùng của tổ chức
này thì “người tiêu dùng có nghĩa là người yêu cầu hay sử dụng hàng hóa hay
dịch vụ cho những mục đích cá nhân, trong gia đình hay nội trợ”. [7]
Trong lời phát biểu tại Thượng viện Mỹ ngày 15/03/1962 tổng thống
Mỹ John Kenedy đã nói một câu nổi tiếng: “người tiêu dùng theo định
nghĩa, bao gồm toàn thể chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có ảnh
hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của
Nhà nước hay tư nhân”.
Theo Bộ luật Dân sự của Cộng hòa liên bang Đức: “Người tiêu dùng
là bất kỳ một thể nhân nào khi ký kết một giao dịch pháp lý không nhằm
mục đích kinh doanh và cũng không phục vụ hoạt động hành nghề độc lập
của mình”. [6] Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan: “Người tiêu dùng là
những người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì
mục đích tiêu dùng.” [6]
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia 1999: “người tiêu dùng là người
mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân
hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc mua hoặc sử dụng hàng hóa vì
mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ
khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác.” [6]

Trong Từ điển cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Consumer – người tiêu dùng: “Bất cứ đơn vị kinh tế nào có nhu cầu
tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng. Thông thường, người tiêu dùng
được coi là một cá nhân nhưng trên thực tế, người tiêu dùng có thể là các cơ
quan, các cá nhân và các nhóm cá nhân. Trong trường hợp cuối cùng, điều
đáng lưu ý là để có các quyết định, đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình chứ không
phải của cá nhân. Điều này có ý nghĩa vì cho tới nay, các hộ có thể chấp nhận
9
các quyết định “nhóm” dựa trên sự kết hợp các mong muốn của cá nhân trong
gia đình, hoặc thậm chí có khả năng dựa trên phán quyết mang tính gia trưởng
trong gia đình. Vì vậy, cầu của người tiêu dùng có thể được xem xét một phần
trong bối cảnh quyết định nhóm phản ánh hàm phúc lợi xã hội bao quát mọi
thành viên trong hộ gia đình.”[28]. Hay là: Consumer – người tiêu dùng là
“đơn vị tiêu dùng, đơn vị cầu cơ bản trong lý thuyết kinh tế. Trong lý thuyết
kinh tế, một đơn vị tiêu dùng có thể hoặc là một cá nhân hoặc là một hộ gia
đình hoặc là một Chính phủ có mua một sản vật hay dịch vụ để sử dụng cho
nhu cầu nào đó, miễn là không phải để đem bán lại.” [27]
Nhiều cách định nghĩa khác nhau chứng tỏ một điều là trên thế giới,
trong khoa học chưa có sự thống nhất khái niệm người tiêu dùng. Tuy vậy,
cho dù đây là một khái niệm có nội hàm rộng nhưng không phải là quá trừu
tượng. Để hiểu đúng và hiểu chính xác vấn đề không đơn giản nhưng hầu như
ai cũng có thể hiểu một cách căn bản bởi trong số chúng ta ai cũng sẽ có lúc
đóng vai trò là người tiêu dùng trong xã hội. Hầu hết các định nghĩa đều
hướng đến hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt (không nhằm mục đích kinh doanh hay bán lại kiếm lời).
Việt Nam sau Đại hộ Đảng lần thứ VI bước vào thời kỳ đổi mới đã có
những chính sách bước đầu thể hiện sự quan tâm đến vấn đề người tiêu dùng.
Tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới, năm 2011, Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực.
Trong đó định nghĩa về người tiêu dùng như sau: “người tiêu dùng là người

mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá
nhân, gia đình, tổ chức.” [23.Khoản 1, Điều 3]. Cách định nghĩa như trên khá
gọn, súc tích, nêu bật và đi thẳng vào vấn đề, nêu lên bản chất của người tiêu
dùng. Theo đó, ta có thể hiểu người tiêu dùng theo nghĩa rộng bao gồm cả cá
nhân, tổ chức nhưng khái niệm cũng được giới hạn bởi “mục đích”. Người
10
tiêu dùng có thể là người mua đồng thời là người sử dụng; cũng có thể mua để
tặng, cho; mua để phục vụ chung cho nhu cầu của toàn gia đình hay cho tổ
chức nhưng mục đích ở đây đều là “tiêu dùng sinh hoạt”, nói chung là các yếu
tố đầu vào để tổ chức phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình (có thể là thỏa
mãn tiêu dùng gia đình, tiêu dùng trong Hội, Đoàn…). Như vậy, Luật đã loại
bỏ các chủ thể mua sắm hàng hóa hay sử dụng dịch vụ vào mục đích kinh
doanh (đây cũng là cách hiểu phổ biến hiện nay về khái niệm người tiêu
dùng). Tương tự như vậy, ta có thể phân biệt khái niệm người tiêu dùng
(consumer) hoặc người tiêu dùng cuối cùng (end consumer) với khái niệm
khách hàng (customer). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng
để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm
nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Bên cạnh khái niệm “người tiêu dùng”, một khái niệm nữa chúng ta cần
làm rõ đó là khái niệm “quyền lợi người tiêu dùng”. Quyền lợi của người tiêu
dùng là một trong những quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và
pháp luật của nhiều nước trên thế giới và được xã hội tôn trọng. Tuy nhiên,
trong khoa học nói chung cũng như trong khoa học pháp lý và thậm chí trong
Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng cũng chỉ nêu ra
những quyền cơ bản của người tiêu dùng mà không có khái niệm quyền lợi
của người tiêu dùng. Khi được hỏi, các nhà khoa học thường chỉ đưa ra những
quan điểm, những lập luận chung nhất. Hiện nay chưa có một khái niệm chính
thống nào giải thích về quyền lợi của người tiêu dùng.

Theo Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật: “Lợi ích của người tiêu
dùng ở đây được hiểu là những điều có lợi, có ích (trong đó có lợi ích kinh tế)
cho người tiêu dùng thông qua việc thực hiện được những quyền của người
11
tiêu dùng”[37]. Định nghĩa như vậy vẫn khá chung chung và “luẩn quẩn”
chưa nêu bật được những điều căn bản để mọi người dân đều có thể hiểu thế
nào là quyền của người tiêu dùng.
Trong Từ điển Kinh tế có định nghĩa:
“Consumer sovereignty (quyền quyết định của người tiêu dùng; chủ
quyền của người tiêu dùng): những người tiêu dùng là những người sau cùng
mua các mặt hàng và dịch vụ, do đó có quyền quyết định đòi phải sản xuất
những gì. Điều đó hàm nghĩa rằng nếu những người tiêu dùng có nhu cầu lớn
hơn thì sản vật phải được cung ứng nhiều hơn và rằng trong nền kinh tế thị
trường tự do các nhà sản xuất chỉ là “những tác nhân thụ động” chỉ đáp ứng
lại cái mà những người tiêu dùng muốn có. Tuy nhiên, trong một số loại thị
trường khác (cụ thể là trong thị trường có vài công ty độc quyền hay trong thị
trường có một công ty độc quyền) các nhà sản xuất lại có quyền lực mạnh mẽ
đối với những người tiêu dùng đến mức chính họ là người thực sự quy định
phạm vi lựa chọn của người tiêu dùng” [27]. Việc định nghĩa như trên khá
trừu tượng lại thiên về bản chất kinh tế của vấn đề và cũng chưa giúp người
đọc có thể hiểu rõ về quyền của người tiêu dùng.
Dựa trên những kiến thức lý luận cơ bản và những đúc kết khoa học ta
có thể đưa ra một định nghĩa như sau về quyền lợi của người tiêu dùng:
Quyền lợi của người tiêu dùng đó là khả năng của người tiêu dùng
được Nhà nước cho phép và ghi nhận trong pháp luật cũng như những lợi ích
vật chất và tinh thần mà người tiêu dùng được hưởng từ việc được Nhà nước
bảo hộ những khả năng trên.
Khi đã hiểu một cách khái quát nhất về quyền lợi của người tiêu dùng,
ta có thể tiếp cận đến những quyền cụ thể của người tiêu dùng và phân tích ở
những góc độ chính xác và đúng đắn nhất.

12
1.1.2 Đặc điểm của người tiêu dùng Việt Nam
Để khái quát được đặc điểm của người tiêu dùng không phải là điều dễ
dàng bởi vì trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội với những điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử, kinh tế khác nhau thì Nhà nước có các chính sách, chế độ
khác nhau và nhận thức của người tiêu dùng cũng khác. Bên cạnh đó là sự
khác biệt về trình độ dân trí giữa các vùng, miền, giữa nông thôn với thành
thị, miền núi với đồng bằng… Bởi vậy, không thể xét đặc điểm của bộ phận
để khái quát nên toàn bộ, cũng không thể nhìn phiến diện ở một mặt nào đó
mà ta phải có cái nhìn bao quát, tổng thể đồng thời phân tích vấn đề ở từng
giai đoạn khác nhau.
Theo kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30/185 nền kinh tế có thị
trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới vừa được tập đoàn tư vấn AT Kearney
công bố, “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007” (GRDI) của Việt Nam
đạt 74 điểm, xếp thứ 4 sau Ấn Độ và Nga, Trung Quốc. Năm 2008, thị trường
bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc
để chiếm thứ hai trong “làng bán lẻ” thế giới. Năm 2009, đạt 55 điểm, tuy có
giảm trong bảng xếp hạng, nhưng nếu ổn định được tình hình vĩ mô và khôi
phục được sự hấp dẫn, thì tương lai phát triển của thị trường bán lẻ nước ta sẽ
rất sáng trở lại[31]. Điều này cho thấy trong những năm gần đây, người Việt
Nam đầu tư khá nhiều cho tiêu dùng. Cùng với việc mở cửa cũng như hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường thu
hút các nhà đầu tư. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trong nước cũng ý thức
được điều này nên sẵn sàng đầu tư công nghệ, cải tiến dây chuyền sản xuất để
có thể cung cấp những mặt hàng tốt nhất, đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng
thời nâng cao năng lực cạnh tranh. Vì vậy, người tiêu dùng Việt Nam cũng có
nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình. Theo kết quả
khảo sát của AC Nielsen thực hiện tại 47 nước trên thế giới về mức độ niềm
13
tin người tiêu dùng những tháng đầu năm 2007, 50% người tiêu dùng Việt

Nam cho biết sẽ chi tiêu cho việc mua sắm hàng điện máy công nghệ mới.
Đây là tỉ lệ cao nhất trong số các nước được khảo sát về khoản chi tiêu cho
loại hàng này, kế đến là Đức (45%), Nga (44%), cuối bảng là Thổ Nhĩ Kỳ
(36%). Nhóm hàng được ưa thích thứ hai mà người tiêu dùng Việt Nam chi
mạnh tay là áo quần. Một lĩnh vực đầu tư mới của người tiêu dùng Việt Nam
là chứng khoán. Việt Nam đứng thứ chín trong nhóm mười nước và lãnh thổ
có người dân đầu tư nhiều nhất vào chứng khoán với 26%. Đứng đầu vẫn là
Hong Kong (58%). (Cuộc khảo sát được thực hiện trên mạng từ 16/4 đến
1/5/2007 bằng cách phỏng vấn 26.485 người sử dụng Internet trên 47 quốc
gia). Hàng hóa có thương hiệu nổi tiếng qua nhiều năm thường được đánh giá
cao và thường được lựa chọn nhiều hơn vì họ cho rằng mặc dù giá cao hơn
nhưng sẽ được đảm bảo về chất lượng cũng như an toàn hơn trong khâu sử
dụng. Điều này tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng. Mặt khác, tuy chất
lượng sản phẩm là một điều quan trọng nhưng hiện nay những yếu tố về thẩm
mỹ, về mẫu mã, cung cách, thái độ phục vụ cũng được người tiêu dùng chú
trọng và đôi khi đó lại là điều quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng. Một
khi mức sống được nâng lên, người dân có khả năng kinh tế thì tâm lý “ăn
chắc mặc bền” cũng dần mất đi. Ý thức của người tiêu dùng về quyền và
nghĩa vụ của mình cũng được nâng cao, kiến thức về tiêu dùng được cập nhật
qua nhiều kênh thông tin. Trong tiêu dùng, người tiêu dùng Việt Nam đã có
sự quan tâm đến tiêu dùng xanh, tiêu dùng bền vững. Đó là một sự thể hiện ý
thức trách nhiệm đối với cộng đồng của người tiêu dùng Việt Nam.
“Thực tế của xã hội nước ta trong những năm đổi mới gần đây đã
chứng minh là tính năng động của xã hội – bắt nguồn từ tính năng động của
mỗi cá nhân đã được nâng cao rõ rệt. Sự tăng tiến này có nguồn gốc từ sự mở
rộng phạm vi hoạt động của sản xuất và gắn liền với nó là tăng cường thỏa
14
mãn chất lượng của nhu cầu”[33]. Thực tế có một lớp người tiêu dùng có
trình độ cao, họ am hiểu về kỹ thuật và tính năng của sản phẩm bởi vậy họ
cũng đòi hỏi ở nhà sản xuất những mặt hàng tốt nhất và đương nhiên những

người như vậy cũng không thụ động ngồi chờ maketings của nhân viên cũng
như họ sẵn sàng khiếu nại khi hàng hóa, dịch vụ có vấn đề… số lượng những
người tiêu dùng như vậy dần tăng lên nhất là tại các thành phố, đô thị lớn.
Tóm lại, nền văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới sẽ gồm 03 đặc điểm căn
bản sau: Tiêu dùng dựa trên giá trị; tiêu dùng thông minh và tiêu dùng có
trách nhiệm [39]. Những đặc điểm này được hiểu như sau:
* Thứ nhất, tiêu dùng dựa trên giá trị
Trong nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam mới, người tiêu dùng sẽ không
còn bị động chờ đợi, tìm kiếm những giá trị trong hàng hóa – dịch vụ, mà
người tiêu dùng trở nên chủ động “đặt hàng” với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh những sản phẩm phù hợp những chuẩn mực về giá trị mà mình yêu cầu.
Để chứng minh giá trị một thương hiệu hàng hóa đó, doanh nghiệp phải làm rõ
đồng thời 03 nội dung mà cộng đồng tiêu dùng có thể chấp nhận và nhận diện
được: Chất lượng sản phẩm – Trách nhiệm xã hội - Văn hóa kinh doanh.
Tiêu dùng dựa trên giá trị là hành vi lựa chọn những sản phẩm - dịch vụ
tốt, bền, giá cả phù hợp, thỏa mãn cao nhất nhu cầu cá nhân của người tiêu
dùng. Tức tiêu dùng là hoạt động sử dụng giá trị của sản phẩm hay dịch vụ
nào đó để thỏa mãn nhu cầu nhất định của mình. Là lực lượng chủ động, có
quyền lực thực sự, giúp nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp, thể hiện tinh
thần trách nhiệm với sự phát triển xã hội - quốc gia.
Khi người tiêu dùng chọn mua giá trị trong hàng hóa cũng đồng nghĩa
họ thúc đẩy doanh nghiệp tạo ra các giá trị khác. Như vậy, chọn mua sản
phẩm tức là chọn mua doanh nghiệp, người tiêu dùng cần tìm hiểu doanh
nghiệp trước khi chọn mua sản phẩm. Một nền Văn hóa tiêu dùng Việt Nam
15
mới theo chủ nghĩa giá trị không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người tiêu
dùng, mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng sáng
tạo ra giá trị phục vụ cộng đồng. Nói cách khác, tiêu dùng có thể tác động
đến doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa phù hợp với yêu cầu về giá
trị mà tiêu dùng đặt ra.

Đồng thời, thông qua các nội dung cốt lõi của văn hóa tiêu dùng doanh
nghiệp tìm thấy con đường để định hướng doanh nghiệp phát triển phù hợp kỳ
vọng và lợi ích cộng đồng.
Triết lý “Tiêu dùng tạo ra giá trị” cũng đặt ra vấn đề rất mới về mối
tương quan giữa tiêu dùng và sản xuất kinh doanh: mỗi hành vi tiêu dùng
thông qua doanh nghiệp đều gián tiếp đóng góp giá trị cá nhân vào hệ thống
giá trị chung của xã hội.
* Thứ hai, tiêu dùng thông minh
Tiêu dùng thông minh là hành vi tiêu dùng dựa trên tư duy nhận thức,
tiêu dùng những gì mình biết, mình hiểu rõ, tập hợp những thông tin đầy đủ
của sản phẩm, của doanh nghiệp để đưa ra quyết định đúng đắn, không bị tác
động của các tiêu dùng khác để bảo vệ lợi ích bản thân, cộng đồng và xã hội.
* Thứ ba, tiêu dùng có trách nhiệm
Tiêu dùng có trách nhiệm là hành vi tiêu dùng mang tính xã hội cao.
Người tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là biết tiêu dùng những hàng hóa -
dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đời sống cá nhân, biết lựa chọn những hàng hóa
trong nước sản xuất mà còn biết lựa chọn hàng hóa của những doanh nghiệp
có trách nhiệm với xã hội, đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc
nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và xã hội. Bên cạnh đó còn biết
thể hiện quyền lực tối thượng của mình đối với những doanh nghiệp có hành
vi xâm phạm đến quyền lợi tiêu dùng, vi phạm pháp luật.
Tiêu dùng có trách nhiệm không chỉ là hưởng thụ. Việc tiêu dùng có
16
trách nhiệm là một phần không thể tách rời của kinh doanh có trách nhiệm.
Chính khách hàng là nhân tố thúc đẩy các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ
thay đổi quan niệm về thương mại. Chính người tiêu dùng là động lực ủng hộ,
định hướng sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường. Cộng đồng tiêu
dùng sẽ cổ súy tinh thần và phong trào sử dụng sản phẩm sinh thái, thân thiện
môi trường sống của doanh nghiệp và sẽ liên kết lại, chia sẻ thông tin và trừng
phạt những doanh nghiệp làm ăn gian dối, thiếu đạo đức.

Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có mặt trái, văn hóa tiêu dùng
của người Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề đáng quan tâm.
Việc tiêu dùng một cách lãng phí, xa hoa… không phải là không tồn tại
trong xã hội Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hơn 20 năm sau đổi mới, số
không nhỏ người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa làm quen với văn hóa tiêu
dùng hiện đại. Cách đây một vài năm người tiêu dùng chỉ quen mua sắm tại
chợ, đặc biệt là các chợ cóc, chợ tạm mọc lên ở khắp mọi nơi. Đi đâu ta cũng
có thể thấy cảnh mua bán, ngã giá ngay dưới lòng đường hay trên vỉa hè vừa
mất mỹ quan, vừa gây mất trật tự an toàn giao thông. Lực lượng trật tự đô thị
giải quyết không xuể. Tình hình chỉ tạm lắng khi Chính phủ ban hành bởi
Nghị định số 14/2003/NĐ-CP ngày 19/02/2003 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Giao thông đường bộ, trong đó có những quy định hướng
dẫn về việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn
giao thông đô thị.
Cuộc sống hiện đại ngày nay cũng làm thay đổi thói quen người tiêu
dùng, thay vì mua hàng tại chợ họ đến siêu thị. Có thể chỉ để tham khảo giá cả
nhưng hầu hết là để mua khối lượng hàng lớn cho nhiều ngày. Tuy nhiên, đó
chỉ là mặt tích cực nhưng nếu chúng ta chịu để ý quan sát thì sẽ không mấy khó
khăn để nhận ra cảnh không đẹp mắt. Người ta lựa hàng hóa tại các quầy khác
nhau nhưng khi không mua nữa họ không xếp lại quầy cũ mà bỏ lại ở những
17
quầy khác hoặc để lại xe đẩy. Có người lại xé vỏ bao, thử sản phẩm ngay trong
siêu thị. Tình trạng gian lận trong siêu thị cũng xảy ra rất nhiều. Những cảnh
chướng mắt như vậy không hiếm nhưng chính điều này khiến chúng ta phải
suy ngẫm. Nếu cứ giữ nét tính cách này liệu người tiêu dùng có thể hội nhập
với thị trường thế giới đang vô cùng sôi động, và như vậy là họ đang dần hủy
hoại những quyền thiêng liêng mà xã hội đang tích cực bảo vệ họ.
Nhìn ra những nước phát triển ta có thể thấy sự khác biệt lớn nhất giữa
họ và người tiêu dùng Việt Nam là ở trình độ nhận thức. Họ hiểu biết rất rõ về
quyền lợi và trách nhiệm của mình hơn nữa họ lại được giáo dục một cách khá

kỹ lưỡng về vấn đề tiêu dùng vì vậy họ có tri thức cao và họ sẵn sàng khiếu
kiện khi quyền lợi của mình bị vi phạm và tỷ lệ thắng kiện cũng rất lớn. Đây
cũng chính là câu hỏi đặt ra cho mỗi chúng ta và cho cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền trong công tác giáo dục người tiêu dùng và trong vấn đề lập pháp.
Có thể nói, Người tiêu dùng Việt Nam đã và đang nhanh chóng giàu
lên, đặc biệt ở các khu vực đô thị. Người tiêu dùng Việt Nam hiện nay thường
thu thập thông tin từ nhiều nguồn, cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định mua
một sản phẩm hay sử dụng dịch vụ - giống hệt như người tiêu dùng ở các
nước phát triển trên thế giới. Một thách thức quan trọng là ở Việt Nam có
nhiều thị trường chứ không phải có một thị trường với các nhóm người tiêu
dùng rất khác biệt được phân chia theo các yếu tố về nhân khẩu, trình độ học
vấn và thu nhập. Sự phong phú đa dạng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải
điều chỉnh sản phẩm, dịch vụ của mình để có thể đáp ứng nhu cầu cho nhiều
phân khúc khách hàng khác nhau. Với tâm lý sính ngoại, không ít người tiêu
dùng hiện nay đua theo những trào lưu mua sắm xa xỉ với những giá trị ảo
hào nhoáng bên ngoài chứ không phải ở chiều sâu văn hóa tiêu dùng. Và khi
Tết đến, xuân về điều này càng rõ hơn bao giờ hết Từ “ăn chắc mặc bền”
đến “lấy thương hiệu khẳng định phong cách”. Cách đây không lâu, sau khi
18
phỏng vấn 10.502 người tại 24 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á- Thái
Bình Dương, châu Phi, Trung Đông về vấn đề tiêu dùng, Tổ chức tín dụng
quốc tế MasterCard Worldwide, đã công bố kết quả khảo sát mà trong đó, về
ưu tiên cho ăn uống và giải trí, Việt Nam đứng đầu với 86%, tiếp đó là Hàn
Quốc 78%, Hồng Công (Trung Quốc) là 75%. Và Việt Nam cũng đứng đầu
về tiêu dùng không toan tính với 63%, trong khi Hàn Quốc và Ôxtrâylia cùng
là 59% [36]. Có thể nói, đã qua thời “ăn chắc mặc bền”, ngày nay, chúng ta
có nhiều lựa chọn hơn cho hàng hoá từ bình dân đến xa xỉ. Thế nên, xu hướng
tiêu dùng “lấy thương hiệu khẳng định phong cách” từ giới thu nhập cao đang
chuyển sang giới tiêu dùng trẻ, đặc biệt là ở tầng lớp trung lưu. Họ sẵn sàng
chi những khoản tiền lớn cho những mặt hàng nhằm thể hiện cá tính và sự

khác biệt trước đám đông như điện thoại di động, xe hơi, các mặt hàng công
nghệ đều phải thể hiện cho được đẳng cấp của người chủ, cho dù đôi khi công
năng sử dụng không thực sự cần thiết. Khuynh hướng bắt chước lối sống và
cách hưởng thụ của thanh niên các nước khác có xu hướng tăng, nhưng lại chỉ
bắt chước phần giá trị ảo, chứ không phải ở chiều sâu văn hóa.
1.1.3 Các quyền cơ bản của người tiêu dùng
Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng là một lĩnh vực đã sớm hình
thành và phát triển trên thế giới. Tuy vậy, những quyền của người tiêu dùng
lại không được xác định một cách đồng hành. Mãi cho đến ngày 15 tháng 03
năm 1962 với lời phát biểu của Tổng thống Mỹ John Kennedy tại Thượng
viện Mỹ những quyền của người tiêu dùng dần dần được hình thành và phát
triển. Tuyên bố của Kennedy lúc đầu chỉ đề cập đến bốn quyền cơ bản của
người tiêu dùng. Đó là:
- Quyền được an toàn;
- Quyền được thông tin;
- Quyền được lựa chọn;
19
- Quyền được bày tỏ quan điểm.
Tuy đây mới chỉ là sự ghi nhận ban đầu những quyền cơ bản của người
tiêu dùng nhưng vào thời điểm đó là một sự tiến bộ mang tiến bộ mang tính
lịch sử vì từ đây người tiêu dùng đã chính thức có cơ sở pháp lý để tự bảo vệ
cho quyền lợi của mình. Năm 1983, Liên hợp quốc đã chính thức tuyên bố
ngày 15 tháng 3 là ngày Quyền của người tiêu dùng thế giới.
Dựa vào bốn quyền trên, trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình,
Quốc tế người tiêu dùng IOCU (sau này là CI) và các tổ chức người tiêu dùng
các nước đã bổ sung thêm 4 quyền nữa, đó là:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
- Quyền được bồi thường;
- Quyền được giáo dục;
- Quyền được sống trong một môi trường lành mạnh và bền vững.

Phong trào người tiêu dùng thế giới lên mạnh, vào ngày 09 tháng 4 năm
1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn bản Hướng dẫn của liên hợp
quốc về bảo vệ người tiêu dùng. Bản hướng dẫn thể hiện các nguyên lý của 8
quyền của người tiêu dùng và cung cấp một khuôn khổ cho việc tăng cường
các chính sách bảo vệ người tiêu dùng ở các quốc gia [2]. Sau này các quyền
cơ bản này một lần nữa được quy định trong dự thảo luật mẫu bảo vệ người
tiêu dùng của IC bao gồm các quyền sau:
- Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;
- Quyền được an toàn;
- Quyền được thông tin;
- Quyền được lựa chọn;
- Quyền được lắng nghe;
- Quyền được khiếu nại và bồi thường;
- Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
20
- Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Với sự thừa nhận của Liên hợp quốc, những quyền của người tiêu dùng
đã được đưa lên vị trí hợp pháp và được cộng đồng thế giới công nhận. Chính
phủ các nước đã cụ thể hóa nội dung của tám quyền này trong pháp luật bảo
vệ người tiêu dùng của nước mình. Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó,
Nhà nước ta đã thực sự quan tâm và ghi nhận quyền của người tiêu dùng ngay
trong văn bản pháp quy có giá trị cao nhất: “Nhà nước có chính sách bảo hộ
quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng”[14. Điều 28]. Căn cứ vào
Hiến pháp, công tác nội luật hóa đã được triển khai từ năm 1990 khi Hội Tiêu
chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng gửi tờ trình đề nghị Liên hiệp Hội khoa học
kỹ thuật Việt Nam xây dựng và trình Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sau 9 năm dự thảo, Pháp lệnh ra đời là một
bước tiến mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác bảo vệ người tiêu
dùng ở nước ta. Và cho đến năm 2011, khi Luật Bảo vệ quyền lợi người có
hiệu lực thì từ đây người tiêu dùng Việt Nam cũng được sự bình đẳng như

mọi người tiêu dùng trên thế giới. Quyền cơ bản của người tiêu dùng được
quy định cụ thể và đầy đủ tại Điều 8, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
bao gồm các quyền sau:
* Thứ nhất, quyền được an toàn [23. Khoản 1, Điều 8].
Lâu nay vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường ngày càng
trở thành vấn đề cấp thiết của đời sống tiêu dùng. Đảm bảo được quyền này
cho người tiêu dùng nghĩa là bảo vệ người tiêu dùng chống lại các sản
phẩm, dịch vụ, quá trình sản xuất có hại đến sức khỏe và đời sống. Quyền
này không chỉ liên quan đến nhưng sản phẩm, hàng hóa an toàn mà còn
liên quan đến các dịch vụ và quá trình sản xuất. Các sản phẩm và dịch vụ
không được chứa đựng nguy cơ gây mất an toàn khi sử dụng thông thường.
Các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn an toàn bị cấm không được sản xuất và
21
lưu thông trên thị trường; nếu sản phẩm đã được tung ra thị trường thì phải
được thu hồi xử lý.
* Thứ hai, quyền được thông tin [23. Khoản 2, Điều 8].
Những thông tin cần thiết và trung thực là điều quan trọng đầu tiên để
người tiêu dùng biết đến và tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của nhà sản xuất, kinh
doanh. Bởi vậy khi người tiêu dùng quyết định lựa chọn một mặt hàng hay
một dịch vụ nào đó nghĩa là họ tin tưởng vào những thông tin về sản phẩm.
Để có một môi trường kinh doanh lành mạnh và một xã hội phát triển thì nhà
sản xuất phải tuyệt đối trung thực khi đưa ra những thông tin liên quan đến
sản phẩm của mình. Điều đó tạo được uy tín và tâm lý an tâm ở người tiêu
dùng. Nếu việc cung cấp thông tin là thiếu chính xác thậm chí sai lệch để cố
tình gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng là vi phạm nghiêm trọng quyền
được thông tin của người tiêu dùng. Nội dung thông tin cho người tiêu dùng
có thể được thực hiện thông qua việc ghi nhãn, các hướng dẫn sử dụng hay
qua các giới thiệu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Đây là quy định hoàn toàn mới của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng so với Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước đây. Xuất phát

từ yêu cầu chính đáng cần được bảo vệ thông tin trong khi tham gia giao dịch,
sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
đã đưa nguyên tắc bảo vệ thông tin của người tiêu dùng thành một trong những
nguyên tắc cơ bản của Luật, trong đó khẳng định: Người tiêu dùng được bảo
đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Trường hợp thu thập, sử dụng, chuyển giao thông tin của người tiêu
dùng thì tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm:
Thông báo rõ ràng, công khai trước khi thực hiện với người tiêu dùng về mục
đích hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng; Sử dụng

×