Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng theo pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.88 KB, 113 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ KIM THOA





BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM











LUẬN VĂN THẠC SĨ












Hà Nội - 2009
1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


NGUYỄN THỊ KIM THOA


2
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU 3
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG 8
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về người tiêu dùng và quyền của người tiêu
dùng 8
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng 20
CHƢƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI
TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 34
2.1. Các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng 34
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng 56
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG 73
3.1. Những vấn đề tồn tại trong pháp luật dân sự Việt Nam về bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng 73
3.2. Các đề xuất hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam về bồi thường thiệt hại
do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng 86
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhiều phương thức
kinh doanh hiện đại đã ra đời, phát triển và du nhập vào Việt Nam. Điều đó đã
tạo cho người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn với sự tiện lợi ngày càng tăng.
Tuy nhiên, mặt trái của các phương thức này là tạo cho các doanh nghiệp làm ăn
không chân chính những phương tiện tinh vi hơn để thực hiện các hành vi buôn
bán gian dối, không trung thực. Những hành vi như vậy không chỉ gây thiệt hại
cho người tiêu dùng mà còn có thể gây ảnh hưởng xấu đối với xã hội nói chung.
Những hiện tượng sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả; sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường, nguy
hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần phong mỹ tục; thông
tin, quảng cáo sai sự thật; các vi phạm, thủ đoạn tinh vi nhằm lừa dối người tiêu
dùng … đã và đang xảy ra ngày càng phổ biến trong đời sống kinh doanh nói
riêng và trong phạm vi toàn xã hội nói chung với tính chất và mức độ ngày càng
nghiêm trọng.
Để có thể phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững thì bên cạnh các
chính sách, mục tiêu khác, chúng ta cần phải thực hiện được mục tiêu bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng - một tác nhân kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Để
làm được điều này, thực tiễn đặt ra một số vấn đề. Thứ nhất, người tiêu dùng
phải được trang bị đầy đủ các kiến thức có liên quan để có thể bảo vệ quyền lợi
của mình một cách tốt nhất. Thứ hai, cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật
chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Thứ
ba, các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng phải thực thi có
hiệu quả các công cụ cần thiết để bảo đảm lợi ích chính đáng của tác nhân kinh
tế này. Thứ tư, do tính đa dạng và phức tạp của mình nên công tác bảo vệ người
tiêu dùng yêu cầu phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng có
liên quan và toàn xã hội.
4
Trong khi đó, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta còn nhiều bất

cập cả về phương diện quy định và công tác tổ chức thực thi. Trong pháp luật
Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng được bảo vệ bằng
nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Pháp
lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999, Bộ luật Dân sự năm 2005,
Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007, Pháp lệnh về quảng cáo … và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, những quy định này nói chung, quy
định về việc bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng nói
riêng, vẫn còn chung chung, các chính sách cũng không thật rõ, nên vẫn chưa
tạo lập được cơ chế thực sự hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm
bồi thường thiệt hại - một trong những chế tài được áp dụng với các tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng cả dưới góc độ lý luận
và thực tiễn sẽ góp phần phân tích và làm rõ các quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trên cơ sở đánh giá và
so sánh với hệ thống pháp luật của các quốc gia phát triển, thông qua đó có
những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật dân
sự Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện góp phần thúc
đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một nội dung rất quan trọng trong
pháp luật dân sự Việt Nam và các nước trên thế giới. Nó tạo ra khả năng bảo
đảm bồi thường cho người bị thiệt hại một cách kịp thời và đầy đủ nhất. Đây là
một vấn đề rất khó về lý luận và phức tạp trong thực tiễn áp dụng. Chế định này
cũng chỉ được đề cập thông qua các giáo trình và các đề tài về trách nhiệm dân
sự nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng nói riêng. Ở Việt Nam, nghiên cứu về vấn đề này cũng chỉ giới hạn ở
giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội và một số công trình đăng trong các
tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành.
5
Trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay chỉ có một số công trình gần

với vấn đề này được công bố. Ví dụ, Luận văn Thạc sĩ luật học của Lê Mai Anh
về đề tài “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự”; Luận văn Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hiền
về đề tài “Những nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam”;
Luận văn Thạc sĩ luật học của Lê Kim Loan về đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự Việt Nam”; Luận án Tiến sĩ luật
học của Phạm Kim Anh về đề tài: “Trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt
hại trong pháp luật dân sự Việt Nam”. Những công trình trên đây, trong một số
nội dung cụ thể có thể đề cập một cách gián tiếp đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Liên quan đến nhiều vấn đề được nghiên cứu trong luận văn là các bài
viết của nhiều tác giả khác nhau được đăng trong các tạp chí khoa học pháp lý
chuyên ngành mà điển hình: bài viết của Nguyễn Văn Cương – Chu Thị Hoa
“Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
4/2004); bài viết của Nguyễn Đức Giao “Mối quan hệ giữa trách nhiệm hợp
đồng và trách nhiệm ngoài hợp đồng” (Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 7/1991); bài
viết của Nguyễn Văn Mạnh “Pháp luật bảo vệ sức khỏe cộng đồng và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng” (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số
105/2007); bài viết của Phùng Trung Tập “Cần hoàn thiện chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi” (Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Số 4/2005); bài viết của Phạm Thái “Vấn đề bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng” (Tập san Tòa án nhân dân, Số 3/1972), và “Một số trường
hợp cụ thể về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (Tập san Tòa án nhân dân,
Số 4/1972 ), và “Tính toán thiệt hại và ấn định mức bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng” (Tập san Tòa án nhân dân, Số 5/1972); bài viết của Quách Thành
Vinh “Về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm” (Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 10/1998)…
6
Các bài viết trên đây cũng chỉ đề cập đến từng khía cạnh của vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên thực tế chưa có công trình nào nghiên cứu một

cách đầy đủ và toàn diện về vấn đề này.
Chính vì những lý do trên nên đề tài “Bồi thường thịêt hại do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng theo Pháp luật Dân sự Việt Nam” là công trình
khoa học đầu tiên trong khoa học pháp lý của Việt Nam. Đề tài nhằm giải quyết
một cách tương đối có hệ thống những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, góp phần hoàn thiện
pháp luật dân sự của nước ta, đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, nhu
cầu hội nhập quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng quy định của
pháp luật về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Từ đó, đưa ra các kiến nghị,
đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật dân sự trong vấn đề này, bảo
đảm việc nhận thức và áp dụng chúng một cách thống nhất trong thực tiễn.
Trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam
là một đề tài có phạm vi rất rộng và phức tạp, vì vậy luận văn này chỉ đi sâu
nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Luận văn sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề có liên quan đến bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng, tìm hiểu một số quy định có liên quan đến
vấn đề này theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, đi sâu tìm hiểu và phân tích các quy định về bồi thường thiệt hại
do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam, nghiên cứu thực trạng
các quy định pháp luật dân sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật dân sự về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng, từ
7
đó chỉ ra những tồn tại trong các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về vấn
đề này.
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các

quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng, luận văn đề xuất một số kiến nghị, phương hướng và giải pháp cụ thể
nhằm xây dựng các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam đáp ứng các đòi hỏi
của thực tiễn.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn là
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nư-
ớc pháp quyền.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với tính chất và yêu cầu
của đề tài như: Phương pháp phân tích, diễn giải, bình luận, lịch sử, so sánh luật
học, lôgic, hệ thống, xã hội học, kết hợp lý luận với thực tiễn để đưa ra những
kết luận, đánh giá nhằm giải quyết những vấn đề được đặt ra.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở lý luận có
hệ thống về trách nhiệm bồi thường thiệt hại; tạo cơ sở khoa học thống nhất để
nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các cơ sở đào tạo
luật, các nhà nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý cũng như các nhà hoạt
động thực tiễn trong các cơ quan pháp luật.
Các kết luận và ý kiến trình bày trong luận văn có thể giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền một số giải pháp trong việc xây dựng và hoàn thiện Pháp
luật Dân sự Việt Nam.
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về ngƣời tiêu dùng và quyền của
ngƣời tiêu dùng

1.1.1. Khái niệm Người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch dân sự, thương mại, kinh tế
diễn ra khá nhộn nhịp và đa dạng với nhiều chủ thể tham gia vào các quan hệ
này (cá nhân, tổ chức, hộ gia đình …) dưới nhiều hình thức khác nhau (hợp
đồng viết tay, thoả thuận miệng, thông qua giao dịch điện tử …). Song không
phải mọi chủ thể tham gia vào các quan hệ mua bán, dịch vụ nêu trên đều được
coi là người tiêu dùng được bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là những ngưòi mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức. Từ tiếng Anh chỉ
người tiêu dùng là consumer, hoặc có nơi gọi là “end consumer” (người tiêu
dùng cuối cùng) để phân biệt với người mua, khách hàng nói chung (tiếng Anh
là customer). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ người
mua hàng hoá, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu cho sản
xuất, kinh doanh [8]. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục
đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảp vệ
người tiêu dùng. Khái niệm người tiêu dùng hiểu theo nghĩa hẹp là người mua,
sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia
đình, tổ chức. Hiểu theo nghĩa rộng, người tiêu dùng ngoài mục đích mua bán
hàng hoá, sử dụng dịch vụ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt có thể còn phục vụ cho
nhu cầu tái sản xuất kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy rằng người tiêu dùng là tất cả mọi người, không
phân biệt tuổi tác, thành phần, dân tộc, giới tính, địa vị xã hội. Hơn nữa, người
9
tiêu dùng có mặt ở khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
hải đảo…
Trong một nền kinh tế, sức mua của người tiêu dùng chính là đòn bẩy, là
động lực thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển. Chính
bởi vậy, yêu cầu về việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan, cần có sự kết hợp của nhiều

biện pháp. Trong đó, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật giữ một vai trò
quan trọng.
Trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PL-
UBTVQH10 ngày 24/07/1999, Điều 1 của Chương F quy định: “Người tiêu
dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt
của cá nhân, gia đình và tổ chức”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì người tiêu dùng được
hiểu là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức thực hiện việc mua, sử dụng hàng hoá,
dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt và nhu cầu công việc của tổ
chức, cá nhân, gia đình. Cụ thể là:
1. Người mua là người sử dụng hàng hoá, dịch vụ đã mua cho chính bản
thân mình;
2. Người mua hàng hoá, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc tổ
chức sử dụng;
3. Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hoá, dịch vụ do người khác
mua hoặc do được cho, tặng.
Người tiêu dùng Việt Nam, có nghĩa là tổng dân số Việt Nam theo số liệu
tổng điều tra dân số năm 2008, số dân nước ta tại thời điểm đó là 86.210,8 nghìn
người. Trong số đó, có 50,84% là phụ nữ (43.826,3 nghìn người) và 49,16% là
nam giới (42.384,5 nghìn người). Số người tiêu dùng ở nông thôn chiếm
71,89%, tức là gần 61.977,5 nghìn người. Số người tiêu dùng sống ở thành thị
chiếm 28,11%, tức là gần 24.233,3 nghìn người [29].

10
Người tiêu dùng ở thành thị chiếm tỷ trọng không lớn về số lượng (chiếm
28,11%) nhưng giữ vai trò rất quan trọng trong lối sống tiêu dùng, trong mức chi
cho tiêu dùng cũng như trong định hướng tiêu dùng. Thành thị là nơi diễn ra
cuộc sống tiêu dùng hết sức đa dạng, phong phú và phức tạp, nhất là ở những
thành phố lớn. Đó là nơi tập trung đông dân cư, có nhiều hoạt động văn hoá,
công nghiệp, thương nghiệp, có nhiều nhà máy, cửa hàng, trường học, bệnh

viện, khu giải trí, vui chơi … Người tiêu dùng ở thành thị cũng rất đa dạng như
công nhân, thương nhân, trí thức, người lao động, nhà lãnh đạo kinh tế, nhà khoa
học, nhà quản lý, nhà chính trị, nhà báo, … Những năm đổi mới đã mang lại cho
các thành phố, thị xã một bộ mặt mới đầy màu sắc hấp dẫn, đáp ứng được tốt
hơn những nhu cầu thiết yếu của người tiêu dùng. Hàng hoá ngày một đa dạng
hơn, phong phú hơn, chất lượng nhiều mặt hàng được cải tiến hơn trước. Xuất
hiện nhiều hình thức dịch vụ, nhiều dạng khuyến mại mà trước đây không có.
Những biến đổi theo chiều hướng tích cực này ở những mức độ khác nhau
đã đáp ứng được những yêu cầu khác nhau của người tiêu dùng thành thị từ mức
thấp, bình thường đến mức cao, kể cả những đòi hỏi khắt khe của một số thị hiếu
đặc biệt. Tuy nhiên, tình hình diễn biến trong thời gian qua cũng đặt ra nhiều
vấn đề phức tạp trong tiêu dùng ở thành thị đòi hỏi phải được giải quyết. Từ chỗ
mọi chi dùng thiết yếu cho cuộc sống đều được kế hoạch hoá theo hệ thống định
mức và tem phiếu với một danh mục mặt hàng hạn chế, ngày nay người tiêu
dùng đã đứng trước một thị trường đầy ắp các loại hàng hoá khác nhau: hàng tốt
lẫn hàng xấu, hàng rẻ tiền lẫn với hàng cực đắt tiền, hàng nội lẫn hàng ngoại,
hàng thật lẫn hàng giả - mà hàng giả vẫn càng ngày càng có xu hướng phát triển.
Người tiêu dùng ở thành thị có trình độ kiến thức tiêu dùng cao hơn ở nông
thôn, nhưng cũng rất lúng túng khi lựa chọn để mua hàng vì thiếu những thông
tin đáng tin cậy, mà trên thị trường thì lại thừa những quảng cáo dễ gây mơ hồ
và những thông tin sai lệch.
Người tiêu dùng là phụ nữ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số tiêu dùng
ở nước ta (50,84% tổng dân số). Đây là nhóm người tiêu dùng đông đảo và quan
11
trọng nhất, có mối quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với cuộc sống tiêu dùng ở nước
ta. Phụ nữ Việt Nam thường là người giữ vai trò chủ chốt trong sinh hoạt của gia
đình, do đó, trong lĩnh vực tiêu dùng họ không chỉ lo cho bản thân mình mà còn
lo cho chồng, con và mọi người trong gia đình. Trong lĩnh vực tiêu dùng, người
phụ nữ có nhiều kinh nghiệm hơn nam giới. Thường xuyên phải đi chợ, tới các
cửa hàng để mua sắm nên người phụ nữ có nhiều hiểu biết về lựa chọn hàng

hoá, dịch vụ, về sử dụng các hàng tiêu dùng thông thường, biết phân biệt tốt -
xấu, thật - giả, đắt - rẻ… Tiếp xúc thường xuyên với thị trường, người phụ nữ
phải hứng chịu nhiều tác động của cơ chế thị trường, đặc biệt là nạn hàng giả,
hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo an toàn vệ sinh, hành vi lừa đảo, cân,
đong, đo, đếm không trung thực … gây thiệt hại cho bản thân mình và cho gia
đình mình.
Khoản 1 Điều 3 Dự thảo 4 Luật bảo vệ người tiêu dùng quy định: “Người
tiêu dùng là cá nhân, tổ chức mua hoặc sử dụng hợp pháp hang hóa, dịch vụ
không nhằm mục đích kinh doanh”. Quy định này đã giúp ta có một cách hiểu
toàn diện hơn về khái niệm người tiêu dung. Theo đó “người tiêu dùng” không
chỉ bao gồm các cá nhân, cá thể mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích
sinh hoạt mà còn bao gồm cả các tổ chức, pháp nhân có hành vi mua, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ mà không nhằm mục đích kinh doanh.
Như vậy, thuật ngữ “người tiêu dùng” theo quy định của pháp luật Việt
Nam phải được hiểu là những cá nhân, tổ chức mua hoặc sử dụng hợp pháp
hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh. Cá thể hoá khái niệm trên
giúp từng người tiêu dùng cụ thể ý thức được chính đáng họ đang có các quyền
mà pháp luật quy định. Mỗi người đều có khả năng sử dụng các công cụ pháp lý
để tự vệ khi có sự vi phạm, cho dù sự vi phạm chỉ là cá biệt, không phổ biến và
giá trị thiệt hại không đáng kể.
1.1.2. Đặc điểm của Người tiêu dùng Việt Nam
Nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam trong suốt thời kỳ bao cấp nói
chung là rất nghèo nàn và trì trệ. Nền kinh tế phát triển chậm với các ngành sản
12
xuất hàng hoá tiêu dùng đơn điệu, hạn chế về số lượng, chế độ phân phối theo
tem phiếu, cùng với việc “ngăn sông cấm chợ” đã làm đơn giản hoá nhu cầu vật
chất của người dân. Trong bối cảnh đó, việc thoả mãn nhu cầu vật chất của con
người về thực chất rất đúng với ý nghĩa thuần tuý nhất của việc phục hồi lại sức
lực mà con người đã tiêu hao trong lao động ở mức thấp nhất. Sự phát triển các
nhu cầu tinh thần cũng không có gì phong phú hơn, một đặc điểm nổi rõ là tính

tập thể hoá trong thoả mãn nhu cầu tinh thần khá cao. Một số hình thức hoạt
động nhìn bề ngoài có vẻ đáp ứng được những nhu cầu tinh thần của từng cá
nhân riêng lẻ như phim ảnh, văn công, sách báo, các buổi phát thanh trên đài …
nhưng thực chất sự đơn điệu trong nội dung của các hoạt động đó đã vô tình tạo
ra và duy trì sự phi cá tính trong cách thức thoả mãn nhu cầu cũng như trong sự
phát triển nhu cầu của con người. Điều này có ý nghĩa lịch sử khi nhìn nhận theo
mục đích của cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Nhưng nếu
xét theo góc độ phát triển xã hội nói chung thì đó là một hiện tượng tiêu cực.
Trình độ phát triển nhu cầu và trình độ tiêu dùng thấp không thể thúc đẩy nền
sản xuất xã hội phát triển.
Từ khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các điều kiện kinh tế – xã hội đã
nhanh chóng thay đổi. Có 4 yếu tố cơ bản tác động mạnh đến đặc điểm phát
triển hệ thống nhu cầu của người dân [29], bao gồm:
a) Phương thức quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường và các chính
sách khuyến khích sản xuất của các thành phần kinh tế đã căn bản làm thay đổi
thị trường hàng hoá tiêu dùng trong nước. Thời gian bao cấp trước kia chưa bao
giờ có được một thị trường các loại sản phẩm có thể thoả mãn các nhu cầu khác
của người dân một cách đa dạng và phong phú như hiện nay.
b) Những thay đổi trong quản lý kinh tế nói trên không chỉ làm cho các
sản phẩm tiêu dùng trở nên đa dạng mà còn tạo ra nhiều cơ hội để mỗi người
dân có thể tăng thêm thu nhập, có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu hiện có.
13
c) Chính sách mở cửa, tăng cường giao lưu không chỉ về mặt kinh tế mà
cả về văn hoá với các nước đã tạo điều kiện cho lối sống của người nước ngoài
du nhập vào Việt Nam, làm cho người dân Việt Nam tiếp cận được với phong
cách sống, mức sống cao hơn của họ. Đó chính là một trong những yếu tố có
khả năng kích thích, làm này sinh những nhu cầu mới của người dân trong nước,
đặc biệt là cư dân đô thị.
d) Cùng với những thay đổi trong môi trường sống là những thay đổi

trong nhận thức của người dân và trong dư luận xã hội. Con người ngày nay
được tự do phát triển mọi mặt của cuộc sống từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
đến hưởng thụ, thoả mãn các nhu cầu chính đáng của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chủ yếu do tiêu dùng điều tiết.
Người tiêu dùng có ảnh hưởng to lớn đến những quyết sách về kinh tế, dù là của
khu vực nhà nước hay của khu vực tư nhân. Người tiêu dùng cũng là đối tượng
chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các quyết định về kinh tế. Bảo vệ người tiêu
dùng cũng là một trong những hoạt động nhằm thực hiện một xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đông thời cũng là duy trì và bồi dưỡng cho một động lực
kinh tế quan trọng. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển thì vấn đề người
tiêu dùng và bảo vệ người tiêu dùng càng cần đề ra và thực hiện một cách
nghiêm túc. Với chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, sản phẩm
của nhiều công ty nước ngoài cũng đã xâm nhập và tìm chỗ đứng trên thị trường
Việt Nam. Đa số các công ty sang đầu tư vào Việt Nam đều mang theo dây
chuyền công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Tuy nhiên, cũng có
hiện tượng một số công ty dùng Việt Nam làm nơi giải quyết hàng tồn kho, lắp
ráp các dây chuyền công nghệ đã lạc hậu cho nhà máy ở Việt Nam hoặc tiến
hành các chiêu thức tiếp thị gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Một số công ty
lẽ ra nên đầu tư vốn vào sản xuất để bảo đảm chất lượng sản phẩm, dịch vụ thì
lại giành những khoản chi khổng lồ cho các chiến dịch quảng cáo, tiếp thị. Kết
quả là trong nhiều trường hợp chính người tiêu dùng là nạn nhân của các chiến
dịch quảng cáo rầm rộ nhưng thiếu chính xác và có lúc sai lệch này.
14
Tóm lại, trong những năm đổi mới kinh tế, người tiêu dùng Việt Nam đã
xuất hiện trên thị trường nước ta với những đặc điểm chủ yếu sau:
(i) Người tiêu dùng bước vào ngưỡng cửa của nền kinh tế mới sau những
năm phục hồi và phát triển một nền kinh tế còn mang nặng tính bao cấp với
những hậu quả của nhiều thập niên chiến tranh, cung và cầu mất cân đối nghiêm
trọng, hàng hoá thiếu thốn, nhà nước chỉ lo được những nhu cầu thiết yếu tối
thiểu cho dân thông qua phương thức phân phối bằng tem phiếu ở một thời kỳ

mà ngành thương nghiệp dường như là người ban phát và người tiêu dùng là
người được tiếp nhận sự ban phát đó mà không được lựa chọn theo ý muốn của
mình.
(ii) Trong những năm đổi mới kinh tế xã hội, nguyện vọng, mong muốn
của người tiêu dùng đã bắt đầu được các nhà sản xuất, lưu thông, những người
làm dịch vụ chú ý tìm hiểu và thực hiện với khả năng tích cực của họ. Tiếng nói
của người tiêu dùng bắt đầu được các nhà quản lý lắng nghe. Vị trí của người
tiêu dùng bắt đầu được đề cao trên thị trường. Đã xuất hiện tạp chí về người tiêu
dùng, nhiều báo đã xuất hiện chuyên mục cho người tiêu dùng và đăng nhiều bài
báo liên quan đến người tiêu dùng.
(iii) Từ khi cả nước đi vào xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước tới nay,
người tiêu dùng nước ta vẫn chưa được chuẩn bị đầy đủ kiến thức, hiểu biết, tâm
lý, thói quen tiêu dùng phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay và cho thời
gian tới. Người tiêu dùng chưa thật rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mình ra
sao cũng như phương thức để tự bảo vệ quyền lợi của mình như thế nào.
(iv) Người tiêu dùng nước ta hiện nay còn thiếu hệ thống pháp luật và
chính sách đầy đủ để bảo vệ mình. Trong thời gian qua, Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng cũng như một số Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư
… của Chính phủ và các Bộ được ban hành cũng đã có một số điều quy định có
liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng nhưng những quy định đó còn rời rạc,
15
chấp vá, không đầy đủ. Điều đó khiến người tiêu dùng thiếu tự tin, chưa thấy rõ
được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, dẫn đến thụ động trong các hoạt động.
(v) Người tiêu dùng Việt Nam cho đến nay còn chưa được hướng dẫn,
chưa được thông tin và định hướng thích hợp để có thể tự chủ trong các hoạt
động của mình. Sự thiếu hướng dẫn và thiếu thông tin cần thiết làm cho người
tiêu dùng dễ bị các quảng cáo, thông tin sai lệch làm lạc hướng trong việc lựa
chọn và mua hàng hoá bất lợi cho mình. Sự thiếu định hướng làm cho người tiêu
dùng dễ sa vào lối sống tiêu dùng không lành mạnh, lối sống tiêu dùng của bên

ngoài không thích hợp với điều kiện của đất nước và truyền thống của dân tộc.
(vi) Người tiêu dùng Việt Nam cho đến nay vẫn thường xuyên hứng chịu
những tác động tiêu cực của thị trường, đặc biệt là của nạn hàng giả, hàng kém
chất lượng, hàng không đảm bảo an toàn vệ sinh, của các phương thức dịch vụ
gian trá, của tệ cân đong, đo đếm không chính xác, của tệ nói dối, nói thách, lừa
đảo và vô số thủ đoạn, mánh khoé khác của những kẻ bất lương gây nên nhiều
thiệt hại cho người tiêu dùng về tài chính, tài sản, cuộc sống tinh thần, sức khoẻ,
thậm chí tới cả tính mạng của mình.
(vii) Nhìn lại cả mấy ngàn năm lịch sử của đất nước ta thấy nổi bật lên
một nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính tự cung tự cấp xuyên suốt gần như
toàn bộ chiều dài lịch sử, trong đó sản xuất và tiêu dùng gắn với nhau rất chặt
chẽ tới mức dường như không có sự tách bạch khái niệm “người tiêu dùng” một
cách riêng biệt và đối lập với “người sản xuất” như cách hiểu của các nước công
nghiệp hoá trong mấy thập kỷ qua. Trong tương lai, chúng ta đi vào xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này cũng có
những khác biệt với việc xây dựng nền kinh tế thị trường mà các nước tư bản
chủ nghĩa đã trải qua, trong đó có việc giải quyết các mối quan hệ giữa sản xuất
và tiêu dùng cũng như giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
1.1.3. Quyền của người tiêu dùng
Người tiêu dùng là một bộ phận quan trọng trong xã hội, chính họ là động
lực thúc đẩy việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, bởi vì nếu không có người tiêu
16
dùng thì sẽ không có sản xuất. Chính vì lẽ đó nên họ phải được đảm bảo an toàn
về tính mạng, sức khoẻ khi mua và sử dụng hàng hoá của các nhà sản xuất hay
kinh doanh, không những thế họ còn có quyền yêu cầu pháp luật bảo vệ trong
trường hợp hàng hoá được họ mua gây thiệt hại đến tài sản của họ, đến môi
trường sống xung quanh.
Hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được hình thành và phát triển
đã khá lâu, nhưng những quyền của người tiêu dùng thì chưa được xác định rõ
rệt. Ngày 15/03/1962, Tổng thống Mỹ John Kennedy, trong một cuộc họp của

Thượng việc Mỹ đã phát biểu: “… Theo định nghĩa, người tiêu dùng là tất cả
chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có tác động và chịu tác động của
hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Thế nhưng
họ lại là nhóm người quan trọng duy nhất mà quan điểm của họ lại thường
không được lắng nghe…” [8]. Từ phát biểu của Tổng thống Mỹ những quyền
của người tiêu dùng dần đần được hình thành và phát triển. Tuyên bố Kennedy
lúc đầu chỉ đề cập bốn quyền cơ bản của người tiêu dùng, đó là: quyền được an
toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và quyền được bày tỏ quan
điểm. Bốn quyền này là cốt lõi của hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trên thế giới trong giai đoạn đó.
Qua quá trình hoạt động thực tiễn của Quốc tế người tiêu dùng và các tổ
chức người tiêu dùng các nước, bốn quyền của người tiêu dùng đã được bổ sung
thêm. Theo đề xuất của Quốc tế người tiêu dùng (CI) ngày 09/05/1985, Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 39/948 có tên gọi là “Các
nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người tiêu dùng”, trong đó công bố 08 quyền của
người tiêu dùng [8,29], bao gồm:
1. Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
2. Quyền được an toàn
3. Quyền được thông tin
4. Quyền được lựa chọn
5. Quyền được lắng nghe
17
6. Quyền được khiếu nại và bồi thường
7. Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng
8. Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Với sự phê chuẩn của Liên hợp quốc, những quyền của người tiêu dùng
đã được đưa lên vị trí hợp pháp và được quốc tế công nhận, được tất cả các quốc
gia dù là phát triển hay đang phát triển thừa nhận. Ngày nay, 08 quyền cơ bản
của người tiêu dùng đã được Liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế và các chính phủ
thừa nhận. Chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung 08 tám quyền của người tiêu

dùng vào pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Tám quyền này được
dùng làm cơ sở để các quốc gia hoạch định chính sách bảo vệ người tiêu dùng
và cũng là cơ sở cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trên thế
giới.
Ngày 09/04/1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã phê chuẩn bản
hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng, vẫn dựa trên nguyên
tắc của 08 quyền của người tiêu dùng. Bản hướng dẫn đưa ra các nguyên tắc dựa
trên 08 quyền của người tiêu dùng và vạch ra những nguyên tắc khung để tăng
cường các chính sách bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia. Lời phát biểu
của cố Tổng thống Mỹ John Kennedy ngày 15/03/1962 đã làm cho ngày đó sau
này trở thành “Ngày quyền của người tiêu dùng thế giới”, được gọi tắt theo
tiếng Anh là WCRD (World Consumer Rights Day). Năm 1983, Liên hợp quốc
đã chính thức tuyên bố ngày 15 tháng 3 là ngày quyền của người tiêu dùng thế
giới [8].
Trên cơ sở các quy định về quyền của người tiêu dùng tại Nghị quyết nêu
trên của Liên Hợp quốc và nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
tiêu dùng khi họ sử dụng các dịch vụ, hàng hoá, sản phẩm không đáp ứng các
yêu cầu về chất lượng, giá cả, mục đích sử dụng … không phù hợp với thoả
thuận của hợp đồng, Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng Việt Nam đã quy định người tiêu dùng có các nhóm quyền cơ bản sau:
18
Thứ nhất, người tiêu dùng có quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; được
cung cấp các thông tin trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng
hàng hoá, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ và môi trường
khi sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu
dùng. Quyền được mua hàng hoá, dịch vụ của người tiêu dùng được thực hiện
trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được ghi nhận tại các Điều 4, 5,
6 … của Bộ luật Dân sự 2005, như nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả
thuận, nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc thiện chí, trung thực … Cụ thể là:
- Trong quan hệ dân sự, quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác

lập quyền, nghĩa vụ được pháp luật bảo đảm, nếu các cam kết, thoả thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
- Trong giao lưu dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào
được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi cam kết, thoả
thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên.
- Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do
khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.
- Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí, trung thực trong việc xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào …
Thứ hai, người tiêu dùng có quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi
giá cả hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã
công bố hoặc hợp đồng đã giao kết.
Quyền được bồi thường còn được gọi là quyền được khiếu nại và bồi
thường của người tiêu dùng. Khi gặp những điều thiệt thòi, những điều không
vừa ý trong quan hệ với các nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng có quyền
được khiếu nại. Khi những khiếu nại là chính xác và đúng đắn, người tiêu dùng
có quyền được bồi thường. Nhà sản xuất, kinh doanh phải bồi thường cho người
tiêu dùng nếu sản phẩm dịch vụ do họ cung ứng không đúng với nội dung đã
giới thiệu, quảng cáo, giao kết hợp đồng. Các khiếu nại của người tiêu dùng có
19
thể được giải quyết bằng cách hoà giải giữa người cung ứng và người tiêu dùng
thông qua các văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng, bằng cách trực tiếp giữa
người cung ứng và người tiêu dùng hoặc thông qua các cơ quan quản lý nhà
nước liên quan, hoặc trong trường hợp không giải quyết được thì có thể thông
qua hệ thống toà án dân sự. Bồi thường thoả đáng cho những khiếu nại chính
đáng của người tiêu dùng sẽ nâng cao được tín nhiệm của doanh nghiệp, cải
thiện được hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt người tiêu dùng.
Thứ ba, người tiêu dùng có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy
định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng

hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin,
quảng cáo sai sự thật.
Thứ tư, người tiêu dùng có quyền đóng góp ý kiến trong việc xây dựng và
thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; yêu cầu tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thực hiện đúng trách
nhiệm trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ năm, người tiêu dùng có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ thuộc nhu cầu
thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và
các hàng hóa, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố.
Thứ sáu, người tiêu dùng được thành lập tổ chức để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật.
Người tiêu dùng có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Các quyền của người tiêu dùng không chỉ được
Nhà nước bảo vệ mà còn nhận được sự bảo vệ từ các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh khi họ phải thực hiện các quy định của pháp luật. Các quyền của
người tiêu dùng còn được các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá
nhân (trong đó có bản thân người tiêu dùng) đều có trách nhiệm tham gia bảo
vệ. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
20
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có trách nhiệm tuyên truyền,
giáo dục, động viên nhân dân tham gia các hoạt động bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã
hội.
1.2. Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm quyền lợi của ngƣời tiêu dùng
Việc tham gia các quan hệ mua bán, dịch vụ hàng hoá nhằm phục vụ cho
nhu cầu tiêu dùng là các quan hệ dân sự. Do vậy, mọi hoạt động mua, bán, trao
đổi, dịch vụ hàng hoá … nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng được thực hiện

trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là thuận mua, vừa bán phù hợp
với ý chí của các bên, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người thứ ba. Vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác là một hiện
tượng khách quan. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, bảo vệ mạnh mẽ hơn
người bị thiệt hại và tăng cường trách nhiệm của người gây thiệt hại, từ đó đẩy
mạnh việc phòng ngừa thiệt hại xảy ra, pháp luật buộc người thực hiện hành vi
vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Và để bảo vệ
một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm, việc bồi
thường kịp thời và đầy đủ là một trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
1.2.1. Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì tìm
hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là một việc làm cần thiết phải được coi trọng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được Bộ luật Dân sự 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái
niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách
nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi
thường…. Dưới góc độ khoa học pháp lý, mỗi người sống trong xã hội đều phải
21
tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất
lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù
đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại (BTTH). Như vậy,
có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà theo đó thì khi
một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải
bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách

nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp
dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi
cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì
trách nhiệm BTTH còn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự và
chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một
quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong Bộ luật Dân
sự ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân
sự.
- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các
điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân
sự (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng), có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại
(không phải là điều kiện bắt buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác
định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh
khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra.
22
- Về hậu quả: trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về
tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người
khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy
định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được
việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán
được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn
thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi
thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây
thiệt hại thì trách nhiệm BTTH còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác

đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám
hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh
viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…
Có nhiều căn cứ khác nhau để phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
cụ thể như sau:
* Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi
thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác
định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự
một cách đúng đắn.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự
mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại
cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình
gây ra. Như vậy, cơ sở để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng bao gồm:
23
- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một
hợp đồng có trước tức là giữa người được hưởng bồi thường và người gây ra
thiệt hại trước đó phải có một quan hệ hợp đồng.
Nếu giữa hai bên không tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có thiệt hại xảy
ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và bên gây thiệt
hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Chính
vì vậy, BTTH trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy bỏ hợp đồng và vi phạm
đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi lẽ hợp
đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa hề tồn tại.
- Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp

đồng gây ra. Nếu giữa các bên tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt
hại không phải là do vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh cũng không
phải là trách nhiệm theo hợp đồng.
- Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là các bên trong quan hệ
hợp đồng đó. Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được áp dụng khi hành vi gây
thiệt hại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng. Hành vi vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng chỉ có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia trong
hợp đồng đó. Do đó, nếu người thứ ba có lỗi để gây ra thiệt hại cho một bên
trong hợp đồng hoặc một bên trong hợp đồng gây ra thiệt hại cho người thứ ba
thì trách nhiệm dân sự phát sinh chỉ có thể là trách nhiệm ngoài hợp đồng.
Trường hợp này không áp dụng đối với hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba bởi
lẽ đây là trường hợp ngoại lệ vì người thứ ba cũng là người có quyền lợi liên
quan và được đề cập đến trong hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật
quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
24
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên
cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại
trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với
hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
của các cá nhân và tổ chức khác.
* Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách
nhiệm BTTH được phân thành trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù
đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất
thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản,

chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc giảm sút.
Trách nhiệm BTTH về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho
người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín
của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công
khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần
cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương…
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định
nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại phải
có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt
hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách
nhiệm BTTH về vật chất còn trong trường hợp BTTH về tinh thần thì rõ ràng
những tổn thất về tinh thần là những tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính
toán và không thể chứng minh được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp
luật cần quy định một mức nhất định để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp
dụng trong trường hợp một người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân
thân của người khác.

×