Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam trong pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.84 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THÚY





HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ TÀU BIỂN VIỆT NAM
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THÚY





HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ TÀU BIỂN VIỆT NAM
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên






HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan



Nguyễn Thị Thúy


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn đến PGS.TS Hà Thị Mai Hiên - cô đã tận
tình hướng dẫn tôi, các thầy, cô giáo, các chuyên gia pháp lý, các cán bộ tại
Cục Hàng hải Việt Nam, Tạp chí Hàng hải, Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt,
Công ty Bảo hiểm PJICO và các thành viên webbaohiem, đồng nghiệp, bạn
bè và gia đình đã giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn thạc sỹ này.


MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN


Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục


Lời nói đầu 1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam
9
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam
9
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự 9
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ tàu biển Việt Nam
20
1.2 Vai trò của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu
biển Việt Nam
28
1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam.
30
1.4 Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ tàu biển Việt Nam
35

Chương 2: Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện

hành về Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu
biển Việt Nam
39
2.1 Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu
biển Việt Nam
39
2.1.1 Bên bảo hiểm 39
2.1.2 Bên tham gia bảo hiểm

42
2.2 Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
tàu biển Việt Nam
44
2.3 Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
tàu biển Việt Nam
46
2.4 Sự kiện bảo hiểm 55
2.5 Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và các trường hợp loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm
57
2.5.1 Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm 57
2.5.2 Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm 58
2.6 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam
60
2.6.1 Quyền và nghĩa vụ của bên tham gia bảo hiểm 60
2.6.2 Quyền và nghĩa vụ của bên bảo hiểm 77
2.7 Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu
biển Việt Nam
87

2.7.1 Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng 87
2.7.2 Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng 89

Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam và một
số kiến nghị về các giải pháp hoàn thiện pháp luật
93
3.1 Thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam
93
3.1.1 Những kết quả đạt được 93
3.1.2 Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật 94
3.2 Một số kiến nghị về các giải pháp hoàn thiện pháp luật 111

Kết luận
118

Danh mục tài liệu tham khảo
122
1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam nằm trên báo đảo Đông Nam Á, bên bờ Thái Bình Dương, có
vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế biển rộng trên 1 triệu km
2
, bờ biển dài trên
3.260 km tiệm cận với các tuyến hàng hải quốc tế xuyên Á-Âu và khu vực.
Với những lợi thế do tự nhiên ban tặng đó, từ lâu Nhà nước Việt Nam đã quan

tâm đến hoạt động vận tải bằng đường biển, vì vậy, ở nước ta vận tải bằng
đường biển tương đối phát triển. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, giao thông vận tải chiếm một vị trí rất
quan trọng, bởi đó là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng, tạo động lực thúc đẩy
sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, bản thân kinh tế vận tải biển cũng mang
lại lợi nhuận to lớn. Vì vậy, số lượng tàu biển của nước ta không ngừng tăng
nhanh, Nhà nước đầu tư không ít ngân sách để xây dựng các cảng biển, cảng
trung chuyển bốc xếp, vận chuyển hàng…các vùng kinh tế biển theo đó cũng
phát triển, từng bước đáp ứng được nhu cầu vận tải biển trong và ngoài nước,
nhu cầu đi lại của nhân dân, tham quan du lịch.
Giao thông vận tải nói chung và giao thông vận tải đường biển nói
riêng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. So với các hình thức vận
tải khác, giao thông vận tải đường biển có một lợi thế rất to lớn là có thể vận
tải với số lượng lớn, hàng siêu trường, siêu trọng, thời gian vận chuyển
nhanh, chi phí rẻ Bên cạnh những lợi ích to lớn đó, trong quá trình vận tải,
tàu biển đã gặp không ít các tai nạn, xảy ra các thiệt hại nghiêm trọng về tính
mạng, sức khoẻ của con người, của cải vật chất, hàng hoá và bản thân con tàu;
nguy hiểm từ con tàu và thiệt hại do tàu gây ra còn nghiêm trọng hơn một số
phương tiện giao thông khác do trọng lượng và giá trị của tàu biển là rất lớn.
2

Chủ tàu biển trong quá trình vận hành và khai thác tàu biển đã chịu không ít
thiệt hại do tai nạn tàu biển gây ra, về cả chi phí sửa chữa tàu và bồi thường
trách nhiệm cho bên thứ ba do tàu biển gây ra. Để giảm thiểu thiệt hại và chia
sẻ rủi ro đó, đồng thời với việc hạn chế xảy ra rủi ro, chủ tàu biển tiến hành
mua bảo hiểm cho tàu biển và trách nhiệm dân sự của mình đối với tàu biển.
Vì vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế vận tải biển trong nước, hoạt động
bảo hiểm tàu biển cũng theo đó ngày càng phát triển. Hoạt động hàng hải có
lịch sử lâu đời trên thế giới, bên cạnh việc gia tăng số lượng tàu, thúc đẩy phát

triển thương mại hàng hải, các nước đều quan tâm đến việc xây dựng và hoàn
chỉnh các quy định về bảo đảm an toàn hàng hải nói chung và pháp luật về
bảo hiểm thân tàu, trách nhiệm nói riêng.
Tàu biển cũng là một tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam, tại Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005. Hơn nữa, tàu biển là một tài sản có
giá trị lớn, hoạt động đăng ký, mua bán, chuyển nhượng, đóng mới tuân theo
quy định rất chặt chẽ của Nhà nước, yêu cầu tuân thủ về độ tuổi, các quy định
về đảm bảo an toàn trong hoạt động hàng hải và môi trường. Vì vậy, trong
qúa trình hoạt động và khai thác tàu biển, chủ sở hữu tàu biển có trách nhiệm
rất nặng nề đối với bản thân hoạt động của con tàu và trách nhiệm dân sự đối
với hoạt động của con tàu gây ra. Theo thống kê, hàng năm ở nước ta có
khoảng 110-130 tàu biển gặp phải tai nạn do nguy cơ tiềm ẩn từ thiên nhiên,
các rủi ro tiềm ẩn, xảy ra cháy nổ, tàu bị đắm, mất tích…
Hiện nay, mặc dù đã có quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản
hướng dẫn thực hiện Bộ luật Dân sự, các văn bản liên quan nhưng với tính
chất là một tài sản có giá trị và quan trọng như vậy, nhưng trong hoạt động
bảo hiểm tàu biển, có thể nói là chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy
định chi tiết về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt
Nam đối với tàu biển hoạt động trong vùng biển Việt Nam, mà chỉ quy định
3

chung về hợp đồng bảo hiểm và một số loại hợp đồng bảo hiểm cụ thể khác.
Vấn đề thiếu văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Bộ luật Dân sự về hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam, thiếu hệ thống
dẫn tới trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm còn gặp nhiều
khó khăn, trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm, bồi thường
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, trong một số trường hợp xảy ra tình trạng không
minh bạch, lừa dối trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhằm gian
lận bảo hiểm.
Từ những phân tích trên cho thấy việc nghiên cứu và hoàn thiện các

quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ tàu biển Việt Nam nhằm tạo nên một khung pháp lý an toàn, giải
quyết tốt nhất vấn đề ý thức trách nhiệm của chủ tàu biển Việt Nam, người
bảo hiểm; nâng cao năng lực canh tranh của các công ty bảo hiểm Việt Nam
trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế là rất cần thiết. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề
tài “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam theo
pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm pháp lý là một vấn đề tối quan trọng của người tham gia
quan hệ hợp đồng cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói riêng và những giao
dịch dân sự nói chung. Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định hợp đồng bảo
hiểm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được nhiều nhà
khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dưới nhiều cấp độ
khác nhau.
Ở Việt Nam, đến nay đã có luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Thị
Nhung về đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự”, khoá luận tốt
nghiệp cử nhân luật của Trần Thị Hồi về đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện”, luận án tiến sỹ luật học của
4

Lê Mai Anh về đề tài: “Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự”; luận án tiến sỹ luật học của Đinh
Hồng Ngân về đề tài: “Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng”; và một số
nghiên cứu của các tác giả khác: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, vài nét về thực tiễn xét xử và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Nguyễn
Thanh Bình, Tạp chí Kiểm sát số 5, 2003; “ Về sự tương đồng và khác biệt
giữa nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự” của tác giả Phạm Văn Tuyết,
Tạp chí Luật học số 10, 2006…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đã chỉ nghiên cứu ở mức độ
chung về hợp đồng bảo hiểm, trách nhiệm dân sự hoặc chỉ nghiên cứu ở phạm

vi hẹp trong nội dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, như: hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện cơ giới, hợp đồng bảo hiểm tài
sản… mà chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống, đánh giá một
cách toàn diện về thực trạng xây dựng, áp dụng phát luật và phát hiện những
vấn đề liên quan đến một trường hợp cụ thể của loại hợp đồng này - hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam, một đề tài đang
được cần làm rõ về mặt lý luận và cấp bách về mặt thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích:
Luận văn có mục đích làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam. Theo đó, luận
văn có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ tàu biển Việt Nam.
- Phân tích thực trạng pháp luật dân sự về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
5

- Đề xuất giải pháp góp phần làm đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả của luận văn đưa ra và
nghiên cứu các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Phân tích khái niệm và làm rõ đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam ở Việt Nam
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định hợp đồng bảo
hiểm, trách nhiệm dân sự nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ tàu biển Việt Nam nói riêng trong lịch sử lập pháp Việt Nam; làm rõ
nội dung cụ thể của chế định này, đồng thời so sánh với quy định của một số
nước về vấn đề này.

- Nghiên cứu, tìm hiểu những quan điểm khoa học xung quanh vấn đề
bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói chung, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ tàu biển nói riêng để xác định về khái niệm hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự, từ đó đi sâu nghiên cứu và làm rõ khái niệm hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam.
- Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam trong những năm qua gắn với lý
luận, căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn
thực hiện Bộ luật Dân sự, các văn bản pháp luật liên quan; đưa ra các kiến
nghị dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiêm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam, căn cứ
pháp lý của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển và thực
tiễn áp dụng pháp luật, trong giao kết và thực hiện hợp đồng này, cụ thể là các
6

khái niệm, hình thức, nội dung giao kết, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,
trách nhiệm của các bên tham gia, căn cứ pháp lý, thực tiễn áp dụng pháp luật
và vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Phạm vi nghiên cứu
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam là
một loại hợp đồng bảo hiểm, là một vấn đề phức tạp không những về mặt lý
luận mà còn cả về mặt thực tiễn. Vì vậy, luận văn này chỉ nghiên cứu một số
vấn đề cơ bản về quy định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam dưới góc
độ hợp đồng dân sự, các điều kiện, trình tự giao kết hợp đồng, kết cấu của hợp
đồng, đối tượng, hiệu lực của hợp đồng; các nguyên tắc cơ bản, đặc điểm và
cơ sở pháp lý của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển
Việt Nam đối với tàu biển hoạt động trong vùng biển Việt Nam. Trên cơ sở

đó kiến nghị một số giải pháp về cả mặt lý luận và thực tiễn dưới góc độ của
pháp luật dân sự.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ra về nhà nước và
pháp luật, về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, những thành tựu của các khoa học: triết học,
logic học, luật học… Luận văn được trình bày trên cơ sở nghiên cứu các văn
bản pháp luật Dân sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật dân sự, Luật
Hàng hải, Luật Kinh doanh bảo hiểm, các quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ tàu biển, các tài liệu pháp lý khác… trên cơ sở có đối chiếu so
sánh với luật pháp về hàng hải quốc tế, điều lệ và quy tắc hoạt động của các
hiệp hội bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển quốc tế… những quy
7

tắc mang tính chuẩn mực cho hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
tàu biển mà thế giới hiện nay đang áp dụng.
Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, các phương pháp nghiên cứu tác giả chọn là đi từ cái
chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng phương
pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp với đối chiếu so sánh, thống kê, hệ
thống.
5. Ý nghĩa và những đóng góp mới của luận văn
- Là luận văn khái quát một cách có hệ thống cơ sở lý luận về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự, từ đó nghiên cứu một loại hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cụ thể - hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
tàu biển Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm, luận văn làm rõ về mặt

lý luận, cơ sở pháp lý, quy định của pháp luật thực định của hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam, làm sáng tỏ những khái
niệm, hình thức, kết cấu và quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp
đồng bảo hiểm này, quá trình thực hiện và những vướng mắc thường gặp.
- Xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn gắn với việc hoàn chỉnh về mặt lý
luận, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Bộ luật dân sự và các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan, luận văn còn đưa ra các kiến nghị và giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nói chung và pháp luật
về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam nói
riêng, kiến nghị về đảm bảo áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trong
bối cảnh cạnh tranh quốc tế hiện nay.
8

Xác định mối quan hệ giữa trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt
Nam và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam,
mối quan hệ giữa hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển
Việt Nam với các hợp đồng bảo hiểm khác.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ tàu biển Việt Nam.
Chương 2: Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam và một số kiến nghị về các giải pháp
hoàn thiện pháp luật.














9

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ TÀU BIỂN VIỆT NAM

1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
* Khái niệm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Trong cuộc sống của con người luôn tồn tại nhiều rủi ro. Những rủi ro
cuộc sống hàng ngày gắn liền đời sống sinh hoạt của con người, bắt nguồn từ
nhiều nguyên nhân: do thiên tai, môi trường sống của con người, thậm chí là
từ chính hành vi của con người gây nên. Dù từ nguyên nhân nào, những rủi ro
này đều ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, các tổn thất về tài chính,
thậm chí là môi trường sống của con người, quốc gia. Để khắc phục những
hậu quả do rủi ro mang đến, con người phải có biện pháp phòng ngừa và khắc
phục, bảo hiểm là một trong những biện pháp đó.
Pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức

và cá nhân, Nhà nước bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.
Mỗi tổ chức, cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi
của mình. Khi tổ chức, cá nhân nào có hành vi gây thiệt hại cho người khác
thì phải có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên,
không phải tổ chức, cá nhân nào cũng có đủ khả năng tài chính để bồi thường
những thiệt hại do họ gây ra cho người khác, trong một số trường hợp việc
bồi thường vượt quá khả năng của họ, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của họ
và chính người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời từ đó, đây là
cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại, khắc phục kịp thời những thiệt
hại về tài chính đối với người gây thiệt hại cũng như người bị thiệt hại. Tuy
10

nhiên, không phải tất cả các loại trách nhiệm dân sự đều là đối tượng của bảo
hiểm. Vậy, trách nhiệm dân sự là gì? Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là gì và
loại trách nhiệm dân sự nào là đối tượng của bảo hiểm?
Trách nhiệm dân sự được hiểu rất rộng, bao gồm: Trách nhiệm công
khai xin lỗi, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, đăng bài cải chính và bồi thường
thiệt hại đối với người đã bị họ bằng hành vi của mình xâm phạm tới uy tín,
danh dự, nhân phẩm, tài sản, sức khoẻ, tính mạng Mỗi chủ thể khi thực hiện
các hành vi phải tuân theo các quy tắc chung của ngành luật dân sự, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Vì vậy, khi xử sự của một
chủ thể làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác thì
xử sự đó bị coi là trái pháp luật dân sự. Người có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi trách nhiệm dân sự được áp
dụng thì người có xử sự trái với quy định của pháp luật dân sự phải gánh chịu
một hoặc một số hậu quả pháp lý nhất định. Tuy vậy, xét về mặt pháp lý, hiện
nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm thế nào là trách
nhiệm dân sự. Bộ luật Dân sự 2005 cũng chỉ quy định chung chung tại Khoản
1 Điều 302: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền” [16].
Như vậy, có thể hiểu rằng trách nhiệm dân sự là một loại nghĩa vụ dân sự.
Trách nhiệm dân sự còn có thể hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý mà chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật có nguy cơ phải gánh chịu những hậu quả
bất lợi về hành vi của mình gây ra, là sự bắt buộc của Nhà nước nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trách nhiệm dân sự nói chung được hiểu là sự quy định của pháp luật
dân sự về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
buộc người có hành vi vi phạm quy tắc xử sự phải gánh chịu những hậu quả
11

pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên có quyền dân
sự bị xâm phạm. Song, trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại. Trong chế
độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì trách nhiệm dân sự được hiểu là nghĩa vụ
dân sự của người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm mà nghĩa vụ dân sự
đó phát sinh.
Có nhiều cách hiểu về bảo hiểm trách nhiệm dân sự, có quan điểm cho
rằng: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là bảo hiểm cho nghĩa vụ dân sự của
người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm mà nghĩa vụ đó phát sinh, có
quan điểm khác lại cho rằng: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là loại hình bảo
hiểm bao gồm các nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm là phần trách
nhiệm dân sự của người được bảo hiểm với người thứ ba phát sinh có nguyên
nhân từ những rủi ro khách quan. Dù với cách hiểu như thế nào, mục đích của
bảo hiểm trách nhiệm dân sự đều là nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của
người được bảo hiểm trong việc bồi thường tổn thất cho người khác do hành
vi của người đó gây ra, phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời những
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại.
Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất bảo hiểm trách nhiệm dân sự là
một loại quan hệ pháp luật về bảo hiểm mà theo đó doanh nghiệp bảo hiểm

cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo hiểm
theo thoả thuận trong hợp đồng khi có sự kiện bảo hiểm phát sinh, còn bên
tham gia bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo phòng ngừa, hạn
chế và khắc phục kịp thời những tổn thất do bên mua bảo hiểm gây ra cho bên
thứ ba. Vì vậy, dù không khắc phục được hoàn toàn tổn thất xảy ra, bảo hiểm
trách nhiệm dân sự góp phần bình ổn tài chính cho cả bên được bảo hiểm và
bên thứ ba khi người tham gia bảo hiểm gây ra thiệt hại. Bảo hiểm trách
12

nhiệm dân sự chính là bảo hiểm cho những khoản tài chính cần thiết để khắc
phục tổn thất cho người bị thiệt hại. Việc bồi thường của doanh nghiệp bảo
hiểm không phải là toàn bộ thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khoẻ, tài sản
của người mua bảo hiểm mà là những thiệt hại về tài chính mà người đó phải
bồi thường cho người thứ ba cứ vào những tổn thất về tài chính, sức khoẻ,
tính mạng mà họ gây ra cho người thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường
trên cơ sở thoả thuận của các bên trong hợp đồng hoặc theo quy định của
pháp luật nhưng không vượt quá thiệt hại thực hiện của người thứ ba.
Vậy, bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đặc điểm khác với các loại bảo
hiểm khác như thế nào? Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có một số đặc điểm
sau:
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có bản chất là một loại hình bảo hiểm phi
nhân thọ, bảo hiểm thiệt hại. Bảo hiểm thiệt hại có nghĩa là bảo hiểm đối với
thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba trong phạm vi
trách nhiệm bảo hiểm và theo giới hạn bảo hiểm đã được các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định. Thiệt hại mà bên mua bảo hiểm gây ra cho người thứ
ba có thể là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về sức khỏe, thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chính là bảo hiểm cho những khoản
tài chính cần thiết để khắc phục những hậu quả của tai nạn rủi ro cho người bị
thiệt hại căn cứ vào những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng mà người

mua bảo hiểm gây ra cho người thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường
trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc quy định trong hợp đồng với số tiền tối
đa bằng với thiệt hại của người thứ ba. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự thường
được thực hiện dưới hình thức bắt buộc: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bảo hiểm trách nhiệm hàng
không…
13

Đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trừu tượng, đó là
trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm với người thứ ba. Trách nhiệm
dân sự của người mua bảo hiểm ở đây là trách nhiệm bồi thường về kinh tế,
những khoản tài chính mà người mua bảo hiểm phải gánh chịu vì đã gây thiệt
hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng. Trách nhiệm này bằng các
giác quan thông thường không thể nhìn thấy được, cảm nhận được nhưng nó
tồn tại và hiện hữu, được pháp luật quy định và Nhà nước bảo đảm thực hiện
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, ràng buộc người
có hành vi gây thiệt hại có trách nhiệm thực hiện. Các loại bảo hiểm khác có
đối tượng bảo hiểm cụ thể và hữu hình. Đây là đặc điểm cơ bản mà bảo hiểm
trách nhiệm dân sự khác với các loại bảo hiểm khác.
Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, yếu tố lỗi đóng vai trò rất quan
trọng. Theo cách hiểu thông thường, lỗi là những sai sót trong xử sự của con
người, về bản chất lỗi được pháp luật quy định giống nhau ở các ngành luật.
Xét về hình thức, lỗi là thái độ tâm lí của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi
được thể hiện dưới dạng cố ý hay vô ý. Khoản 1, Điều 308 Bộ luật Dân sự
2005 quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý hay lỗi cố ý, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác” [16]. Như vậy, trong trường hợp pháp luật
không có quy định khác thì người gây ra thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm
dân sự khi họ có lỗi. Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói

chung nhưng lỗi trong trách nhiệm dân sự trong một số trường hợp là lỗi suy
đoán bởi hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện
hành vi đó bị suy đoán là có lỗi. Vì vậy, nếu người gây thiệt hại chứng minh
được thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của bên có quyền
thì họ không phải bồi thường. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, yếu tố lỗi
14

của người được bảo hiểm có vai trò rất quan trọng, ngoài việc xác định xem
người gây thiệt hại có phải bồi thường hay không, người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ, một phần hay liên đới bồi thưòng thiệt hại, từ đó xác định
việc doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự bao giờ cũng có mối liên quan đến chủ
thể thứ ba. Quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm là quan hệ
hợp đồng mà ở đó người bảo hiểm phải bổi thường thay cho người được bảo
hiểm khi trách nhiệm dân sự của họ phát sinh, đó chính là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người thứ ba. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự tồn tại
hai mối quan hệ: quan hệ giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm và
quan hệ giữa người được bảo hiểm và người thứ ba. Giữa người thứ ba và
người bảo hiểm không có mối quan hệ hợp đồng mà họ là bên có quyền đối
với bên được bảo hiểm. Theo quy định của pháp luật thì doanh nghiệp bảo
hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người được bảo hiểm nhận
được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại. Trong trường hợp phát
sinh thiệt hại nhưng người thứ ba không đòi người được bảo hiểm bồi thường,
người được bảo hiểm không phải bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng
không phải chịu trách nhiệm đối với người được bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro
về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự trước pháp
luật, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm trực tiếp với người
bị hại. Nói cách khác trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm với
người thứ ba phát sinh thông qua mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm và
người được bảo hiểm và mối quan hệ giữa người được bảo hiểm với người

thứ ba, còn doanh nghiệp bảo hiểm và người thứ ba không có trách nhiệm
trực tiếp nào. Tuy vậy, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định của
pháp luật, người thứ ba có thể khiếu nại trực tiếp doanh nghiệp bảo hiểm để
đòi bồi thường thiệt hại.
15

Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, có thể giới hạn trách nhiệm bảo
hiểm hoặc không giới hạn. Giới hạn bảo hiểm là mức bồi thường tối đa mà
doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Do đặc điểm
đối tượng của trách nhiệm dân sự là trừu tượng, chưa thể xác định ngay tại
thời điểm giao kết hợp đồng, thiệt hại chưa xảy ra, có thể là nhỏ hoặc lớn,
thậm chí là rất lớn. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích kinh doanh của mình cũng như
nâng cao nâng cao trách nhiệm của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm thường đưa ra mức giới hạn trách nhiệm bảo hiểm. Khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm, mức trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm có
thể là rất lớn nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường toàn bộ
mà chỉ khống chế trong phạm vi giới hạn trách nhiệm bảo hiểm đã thỏa thuận
trước. Hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự, đều áp dụng giới
hạn trách nhiệm dân sự như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
… nhưng có một số nghiệp vụ bảo hiểm lại không giới hạn mức trách nhiệm
bảo hiểm.
* Khái niệm hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi cá nhân và tổ chức tham gia vào nhiều
mối quan hệ xã hội, để phục vụ nhu cầu đời sống của mình, họ thiết lập với
nhau những mối quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau những lợi ích vật
chất, thông qua những hành vi có ý chí của các chủ thể - quan hệ đó được gọi
là hợp đồng dân sự. Khái niệm hợp đồng dân sự được nhìn nhận dưới nhiều
phương diện khác nhau. Xét về phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự
là do các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển lợi ích vật chất giữa các

chủ thể với nhau. Còn về phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao
dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự
thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất
16

định. Bộ luật Dân sự đã định nghĩa Hợp đồng dân sự tại Điều 388 như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi và
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” [16]. Như vậy, hợp đồng dân sự
không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một
công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thỏa thuận để thay đổi hay chấm
dứt nghĩa vụ đó. Cùng với hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng mua bán nhà
ở, hợp đồng dịch vụ… hợp đồng bảo hiểm là một trong những loại hợp đồng
dân sự thông dụng.
Điều 571 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm là
sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo
hiểm còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [16]. Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định
hợp đồng bảo hiểm gồm ba loại: Hợp đồng bảo hiểm con người, hợp đồng
bảo hiểm tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Như vậy, hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một trong ba loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là hợp đồng về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm với bên tham
gia bảo hiểm , theo đó bên bảo hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với người thứ ba thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện
bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng còn bên tham gia
bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một loại hợp đồng bảo hiểm
nên nó ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo
hiểm có tính chất đền bù và là hợp đồng song vụ nó có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng là trách

nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định được giá
trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng.
17

Điều 52 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: “Đối tượng của hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người tham gia
bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp luật” [12]. Đây là đặc
điểm cơ bản mà hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự khác với những hợp
đồng bảo hiểm khác. Các hợp đồng khác có đối tượng hữu hình và cụ thể,
như: hợp đồng bảo hiểm tài sản có đối tượng cụ thể là tài sản, hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ có đối tượng là một người nhất định. Còn đối tượng của hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự mang tính trừu tượng - là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba, đó là thiệt
hại có thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi, giới hạn trách nhiệm bảo
hiểm và thuộc trách nhiệm bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có các điều kiện:
- Có hành vi gây thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với người
thứ ba.
- Có lỗi của người gây thiệt hại.
- Có thiệt hại thực tế đối với các bên thứ ba.
- Thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi gây thiệt hại và ngược
lại hành vi là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng là trách nhiệm về
bồi thường thiệt hại, song trên thực tế không phải trách nhiệm về bồi thường
thiệt hại nào cũng là đối tượng của bảo hiểm. Ở Việt Nam hiện nay, các
doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ tiến hành các loại nghiệp vụ bảo hiểm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại. Đây chính là đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trong đó, tồn tại hai mối quan
hệ: Quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người tham gia bảo

hiểm và quan hệ nghĩa vụ giữa người tham gia bảo hiểm với người thứ ba bị
18

thiệt hại. Trong trường hợp này, người thứ ba và trách nhiệm bồi thường của
người tham gia bảo hiểm không thể xác định cụ thể tại thời điểm giao kết hợp
đồng, mà được xác định thông qua việc định trước số tiền bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Thứ hai, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự lỗi của người
tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại là căn cứ để xác định
trách nhiệm bồi thường của người tham gia bảo hiểm, đồng thời cũng là căn
cứ để xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Tại Khoản 1 Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người nào
do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
[16]. Theo đó, nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy
định khác thì người vi phạm phải bồi thường khi có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý
của người có hành vi gây thiệt hại phản ánh nhận thức của người đố đối với
hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Yếu tố lỗi chưa được quy
định trong pháp luật dân sự. Trên thực tế, lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi
suy đoán, nên người gây thiệt hại bị suy đoán là có lỗi khi thực hiện hành vi
gây thiệt hại, trừ trường hợp họ chứng minh được thiệt hại xảy ra trong trường
hợp phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, trong tình thế cấp thiết hoặc hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.
Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại
không chỉ là căn cứ để xác định doanh nghiệp bảo hiểm có phải thực hiện
nghĩa vụ bảo hiểm không, mà còn là cơ sở để xác định trách nhiệm bồi
thường. Căn cứ vào mức độ lỗi để xác định người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ, một phần hoặc liên đới bồi thường, từ đó doanh nghiệp bảo
hiểm xác định trách nhiệm bồi thường của mình.
19


Thứ ba, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm
khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự luôn có mối liên quan đến chủ
thể thứ ba. Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm là quan hệ mà
người bảo hiểm phải bồi thường thay cho người được bảo hiểm khi trách
nhiệm dân sự của họ phát sinh - đó chính là trách nhiệm bồi thường thiệt hại
khi gây thiệt hại cho người thứ ba. Tuy nhiên, không phải cứ khi nào người
được bảo hiểm gây thiệt hại thì người bảo hiểm phải bồi thường mà trách
nhiệm này chỉ phát sinh khi người thứ ba có yêu cầu bồi thường. Tại Điều 53
Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định:
1. Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh nếu
người thứ ba yêu cầu người tham gia bảo hiểm bồi thường thiệt hại do
lỗi của người đó gây ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm.
2. Người thứ ba không có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm
trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác [12] .
Như vậy có nghĩa là khi có thiệt hại phát sinh do người được bảo hiểm
gây ra nếu người thứ ba không yêu cầu bồi thường thì người được bảo hiểm
không phải bồi thường, bên bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thường cho
người thứ ba, đồng thời cũng chịu trách nhiệm đối với người được bảo hiểm.
Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi
thường của bên bảo hiểm thay cho bên được bảo hiểm khi trách nhiệm dân sự
của họ phát sinh hay chính là trách nhiệm bồi thường khi người được bảo
hiểm gây ra thiệt hại cho người thứ ba và người thứ ba yêu cầu họ bồi thường.
Khi xảy ra rủi ro về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm
dân sự trước pháp luật, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm
trực tiếp với người bị hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt theo
quy định của pháp luật, người thứ ba có thể khiếu nại trực tiếp người bảo

×