Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Hợp đồng vay tài sản theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 98 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HƢƠNG LAN





HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM




luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc







Hµ néi - 2010







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT



NGUYỄN HƢƠNG LAN




HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Tụng






Hµ néi - 2010





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HƢƠNG LAN





HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬN HỌC









HÀ NỘI – 2010








ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN HƢƠNG LAN




HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Trung Tụng





Hà Nội - 2010







1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan



Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
6
1.1.
Khái niệm
6
1.1.1.
Tài sản
6
1.1.2.
Hợp đồng
10
1.1.3.
Hợp đồng vay tài sản
11
1.2.
Đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
16
1.3.
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản
19
1.4.
Sơ lược sự hỡnh thành và phỏt triển của chế định hợp đồng

vay tài sản ở Việt Nam
21
1.4.1.
Thời kỳ phong kiến
21
1.4.2.
Thời kỳ Pháp thuộc
25
1.4.3.
Thời kỳ từ cỏch mạng thỏng Tỏm năm 1945 đến nay
26

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
30

2
2.1.
Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
30
2.2.
Đối tượng của hợp đồng vay tài sản
32
2.3.
Hình thức của hợp đồng vay tài sản
34
2.4.
Quyền và nghĩa vụ của các bên
36
2.4.1.

Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
36
2.4.2.
Quyền và nghĩa vụ của bên vay
38
2.5.
Lãi suất và lãi suất nợ quá hạn
40
2.5.1.
Lãi suất
40
2.5.2.
Lãi suất nợ quá hạn
44
2.6.
Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ trong hợp đồng vay tài sản
45
2.7.
Họ, hụi, biêu, phường
47

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
52
3.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật dân sự về hợp
đồng vay tài sản
52
3.1.1.

Về đối tượng của hợp đồng vay tài sản
52
3.1.1.1.
Đối tượng cho vay là ngoại tệ
52
3.1.1.2.
Đối tượng cho vay là vàng
56
3.1.2.
Về hình thức của hợp đồng vay tài sản
58
3.1.3.
Về lãi suất của hợp đồng vay tài sản
60

3
3.1.4.
Về hợp đồng tín dụng
64
3.1.5.
Vấn đề "hình sự hóa" các quan hệ vay tài sản
67
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
dân sự về hợp đồng vay tài sản
69
3.2.1.
Về đối tượng của hợp đồng
70
3.2.2.

Về hình thức của hợp đồng
71
3.2.3.
Về nghĩa vụ của bên cho vay
72
3.2.4.
Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay
73
3.2.5.
Về sử dụng tài sản vay
76
3.2.6.
Về lãi suất
76
3.3.
Một số vướng mắc về đường lối giải quyết tranh chấp về
hợp đồng vay tài sản
79
3.3.1.
Sự biến tướng của hợp đồng vay tài sản
80
3.3.2.
Xác định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với hợp
đồng vay tài sản
81
3.3.3.
Hợp đồng vay tài sản có bảo đảm của người thứ ba
82

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85





4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội thường tồn tại trạng thái tạm thời thừa vốn hoặc
tạm thời thiếu vốn ở các cá nhân, tổ chức. Có những bộ phận xã hội có vốn
nhàn rỗi, nhưng lại chưa cần sử dụng vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh, tiêu
dùng; có những bộ phận xã hội khác lại có nhu cầu sử dụng vốn, nhưng không
thể tự thoả mãn được. Chính vì vậy, đã phát sinh yêu cầu điều hoà các nguồn
vốn trong xã hội theo phương thức có hoàn trả.
Quan hệ chuyển giao vốn giữa các chủ thể trong xã hội theo nguyên
tắc có hoàn trả được xác lập chủ yếu thông qua hợp đồng vay tài sản. Đây là
phương tiện pháp lý giúp các chủ thể thoả mãn được nhu cầu về vốn của
mình. Đồng thời nó là công cụ giúp cho những cam kết vay tài sản được thực
hiện và tôn trọng, góp phần thúc đẩy sự lưu thông nguồn vốn trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản - một chế định được hình thành khá lâu trong
lịch sử lập pháp Việt Nam, trải qua thời gian nó ngày càng được củng cố và
phát triển. Kể từ khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời cho đến nay, cơ bản các
quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng vay tài sản đã từng bước đi vào
cuộc sống. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 là một bước tiến quan
trọng trong việc cụ thể hoá các quyền cơ bản của con người, tạo cơ sở pháp lý

vững chắc và niềm tin cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ vay. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, một số quy định của Bộ luật Dân sự năm
1995 về hợp đồng vay tài sản chưa thực sự phát huy được hiệu quả như mong
muốn. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản là một giải
pháp có tầm quan trọng rất lớn trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách
đã nêu. Trong bối cảnh Bộ luật Dân sự năm 2005 được Quốc hội thông qua và
đã có hiệu lực từ 01/01/2006, việc tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá

5
những quy định về hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005 so
với Bộ luật Dân sự năm 1995 là việc làm có ý nghĩa về mặt khoa học.
Vì thế, cũng với mong muốn tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật về hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam trong thời gian qua, tôi đã chọn
đề tài "Hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam"
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hợp đồng vay tài sản là chế định đã và đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm dưới góc độ kinh tế. Dưới góc độ pháp lý, các công trình nghiên
cứu về hợp đồng vay tài sản chưa nhiều, tiêu biểu là các công trình sau:
- "Một số vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản", của Dương
Quốc Thành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2004;
- "Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài sản", của
Nguyễn Minh Oanh, Tạp chí Luật học, số 11/2003;
- "Một số vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản liên quan đến trả lãi và lãi suất", của Trần Văn Biên, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 11/2001;
- "Cách tính lãi suất và lãi suất nợ quá hạn trong hợp đồng vay tài
sản", của Lê Thị Hà, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2001;
- "Hậu quả pháp lý của hợp đồng vay tài sản bị vô hiệu một phần",
của Thanh Thủy, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao (21/12/2004);

- "Một số ý kiến góp ý cho các quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự
(sửa đổi) về hợp đồng vay tài sản", của Trần Văn Biên - Viện Nhà nước và
pháp luật, 26/12/2008;
- "Về chế định hợp đồng vay tài sản", của Trần Văn Biên, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004.

6
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những nghiên cứu ở bình diện chung
nhất về hợp đồng vay tài sản dưới dạng một mục hay một chương của một tác
phẩm như:
- "Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của luật dân sự", của
TS. Nguyễn Ngọc Điện, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
- "Giáo trình Luật Dân sự", tập 2, của Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân, 2006.
Tuy nhiên, tất cả các công trình, các bài viết trên chủ yếu đề cập đến
việc đánh giá thực trạng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản theo
quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995. Nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, trên cơ sở đó so sánh chế định
này được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995 cả về mặt lý luận và thực
tiễn và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân
sự về hợp đồng vay tài sản thì đây là đề tài đầu tiên theo hướng này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, nêu lên những điểm mới
của chế định hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005 so với Bộ
luật Dân sự năm 1995. Qua thực tiễn áp dụng, tôi đã nêu lên những hạn chế,
những bất cập trong quy định. Từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản.
Từ mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của hợp đồng vay tài sản, làm rõ chức năng

chủ yếu của hợp đồng vay tài sản trong đời sống xã hội;
- Phân tích, so sánh các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản,
đánh giá mức độ hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế định hợp đồng
vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005;

7
- Phân tích, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp
đồng vay tài sản trong thực tiễn, đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy
định pháp luật và áp dụng thống nhất pháp luật của chế định này.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Quan hệ vay tài sản được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp
luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau: dân sự, thương mại, ngân hàng, hình
sự, Ở đề tài này, tôi chỉ trình bày những vấn đề về hợp đồng vay tài sản
thuộc lĩnh vực dân sự, mà không đi sâu vào hợp đồng vay tài sản thuộc các
lĩnh vực khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để có được kết quả trình bày trong luận văn, tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá
trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan
trọng và được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này.
6. Những nghiên cứu mới của luận văn
Qua quá trình tìm hiểu pháp luật Việt Nam và một số nước về chế
định hợp đồng vay tài sản, bên cạnh đó đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
Việt Nam của chế định hợp đồng vay tài sản, luận văn cố một số điểm mới
như sau:
- Luận văn trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề

cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản
ở Việt Nam;

8
- Luận văn phân tích và luận giải được những đặc điểm pháp lý và ý
nghĩa của hợp đồng vay tài sản trong đời sống xã hội;
- Luận văn phân tích các quy định về hợp đồng vay tài sản theo quy
định pháp luật dân sự hiện hành, nêu lên những điểm mới của chế định này so
với những quy định trước đây;
- Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp
luật về hợp đồng vay tài sản trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các quy
định bằng các tranh chấp cụ thể về hợp đồng vay tài sản, cũng như một số
vướng mắc trong thực tiến xét xử tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng vay tài sản.
Chương 2: Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về hợp
đồng vay tài sản.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật dân sự về hợp đồng vay tài sản.

9
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Tài sản
Trong đời sống kinh tế - xã hội, nếu tài sản luôn được coi là điều kiện
vật chất để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế và trong đời sống của

con người thì sự tồn tại của các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
liên quan đến tài sản được coi là điều kiện cần thiết để giải quyết các tranh
chấp có liên quan đến các loại tài sản đó.
Bộ luật Dân sự 1804 của Pháp - một công trình pháp điển hóa hiện đại
đầu tiên trên thế giới, đã không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.
Nhưng theo các đặc tính căn bản của pháp luật La Mã - Đức về việc giải thích
các quy tắc pháp lý hay khái niệm pháp lý, người ta có thể hiểu được rằng: tài
sản nói trong Bộ luật này bao gồm hai loại là bất động sản và động sản, mà
trong đó bất động sản được chia thành bất động sản do tính chất, bất động sản
do mục đích sử dụng và bất động sản do có đối tượng gắn liền với nó; và
động sản bao gồm động sản do tính chất và động sản do luật định. Cả quyển
thứ hai của Bộ luật này đã toát lên rằng, tài sản bao gồm vật, các vật quyền và
các tố quyền nhằm đòi lại tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự của Pháp
có sự phân biệt giữa tài sản và sản nghiệp nhưng khái niệm sản nghiệp không
được nhắc tới ở luật thực định mà chỉ được nói tới trong các học thuyết. Nó là
một tập hợp các tài sản có và tài sản nợ, có nghĩa là một hệ thống các quan hệ
về tài sản thuộc một ai đó [26].
Dựa vào hình mẫu của Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự của
Quécbec (Canada) xác định: "Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vô hình, được chia
thành bất động sản và động sản" (Điều 899). Căn cứ vào các quy định này,

10
tài sản bao gồm bốn loại chính: bất động sản hữu hình, động sản hữu hình, bất
động sản vô hình, động sản vô hình. Ở đây, tài sản hữu hình là các vật chất
liệu, còn tài sản vô hình liên quan tới các quyền. Các luật gia Canada cho rằng
Quyển thứ hai của Bộ luật Dân sự này nói về luật tài sản mà chủ yếu là các
quyền đối với vật chất liệu, tức là các vật quyền.
Bộ luật Dân sự Đức năm 1900 bằng một kỹ thuật pháp điển hóa khác
với hình mẫu của Pháp đã tách những vấn đề pháp lý chung nhất của luật dân
sự để tập hợp trong Quyển I của Bộ luật Dân sự này về phần chung, bao gồm

240 điều mà trong đó có một chương nói về vật. Tiếp đó Bộ luật này còn chứa
đựng Quyển III về luật tài sản quy định chi tiết các vật quyền. Tuy không có
định nghĩa cụ thể về tài sản trong Bộ luật Dân sự này, nhưng người ta có thể
hiểu rằng, tài sản theo nghĩa pháp lý không chỉ là vật chất liệu, mà chủ yếu là
các quyền [26].
Bộ luật Dân sự 1896 của Nhật Bản đã cấu tạo một chương riêng trong
Quyển I nói về vật và dành Quyển II nói về các vật quyền.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, các nước thuộc họ pháp luật La
Mã - Đức dù tiếp nhận luật thống nhất ở Châu Âu lục địa bằng cách nào đi
nữa, thì vẫn có quan niệm: vật chất không phải là tiêu chuẩn tối cao của luật
tài sản, mà nói tới luật tài sản là nói tới các vật quyền.
Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các quyền giữa mọi người có
liên quan tới vật, hay nói cách khác, bao gồm một hệ thống các quyền được
thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối liên hệ với những người
khác mà liên quan tới vật.
Bộ luật Dân sự Nga, Điều 128 quy định: "Các đối tượng của Luật dân
sự bao gồm toàn bộ các vật, kể cả tiền và các giấy tờ trị giá bằng tiền, các tài
sản khác trong đó có quyền tài sản, các công việc và dịch vụ, thông tin, kết quả
của các hoạt động trí óc, kể cả các quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình".
Điều 132 khoản 1 quy định: "Doanh nghiệp với tư cách là một tổng thể tài

11
sản cũng được coi là bất động sản". Quy định này thể hiện quan điểm theo đó
bất động sản là những tài sản quý giá nhất [42, tr. 271].
Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, Điều 163 quy định: "Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản". Trong đó, quyền tài sản được định
nghĩa tại Điều 181: "Là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong
giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ". Các điều từ Điều 164 đến Điều 173
quy định về các vấn đề liên quan tới quyền sở hữu đối với tài sản.
Như vậy, tài sản - với tư cách là khách thể của quan hệ pháp luật về sở

hữu, nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả của lao động
sáng tạo tinh thần. Theo lý luận chung, vật là bộ phận của thế giới vật chất,
nhưng không phải mọi vật của thế giới vật chất đều được coi là vật (tài sản)
trong quan hệ pháp luật dân sự. Xét theo tiêu chuẩn lý học thì vật trước hết là
một thể tồn tại xác định được bằng những đơn vị đo lường về khối lượng,
hình thức, tính chất hóa, lý, sinh và những thuộc tính khác của vật trong mối
quan hệ tương quan với thế giới khách quan cả về mặt tự nhiên và xã hội. Xét
theo tiêu chuẩn pháp luật dân sự thì vật đó phải tồn tại, có thực, con người
phải chiếm hữu được, chi phối được, vật đó chắc chắn hình thành trong tương
lai xác định được và phải sử dụng được trong sản xuất kinh doanh, sinh hoạt
tiêu dùng nhằm đáp ứng được nhu cầu vật chất, tinh thần của con người. Còn
xét theo chế độ pháp lý thì vật được chia ra làm ba loại là vật cấm lưu thông,
vật hạn chế lưu thông và vật tự do lưu thông,…
Tiền và giấy tờ có giá cũng được xác định là những loại tài sản có tính
chất đặc biệt. Pháp luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt. Loại
tài sản này có những đặc điểm pháp lý khác với vật, cụ thể:
- Đối với tiền thì chúng ta không thể trực tiếp khai thác công dụng hữu
ích từ chính đồng tiền đó. Đối với vật thì chúng ta có thể khai thác được như
dùng bút để viết, dùng xe đạp để đi lại,… Tiền thực hiện ba chức năng chính

12
là: công cụ thanh toán đa năng, công cụ tích lũy tài sản và công cụ định giá
các loại tài sản khác.
- Tiền do Nhà nước độc quyền tạo ra (phát hành), còn các vật thông
thường có thể do rất nhiều chủ thể khác tạo ra. Việc phát hành tiền được coi là
một trong những biểu hiện chủ quyền của mỗi quốc gia.
- Tiền được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó, còn vật lại
được xác định số lượng bằng đơn vị đo lường thông dụng.
- Chủ sở hữu tiền không được tiêu hủy tiền (không được xé, đốt, sửa
chữa, thay đổi hình dạng, kích thước, làm giả,…), còn chủ sở hữu vật lại được

toàn quyền hủy vật thuộc quyền sở hữu của mình.
Đối với giấy tờ có giá, theo nghĩa rộng được hiểu là chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ
chức, cá nhân) xét trong quan hệ pháp lý với chủ thể khác [79, tr. 89].
Tuy nhiên, trong số giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản đó, có một
số giấy tờ đặc biệt có thể chuyển giao được, ai đánh mất là mất quyền, ai có
nó là có quyền, thì giấy tờ này mới coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại
tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo cách hiểu này thì giấy tờ có giá
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, xét về hình thức, giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập
theo hình thức, trình tự luật định.
Thứ hai, nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá thể hiện quyền tài sản,
giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, giấy tờ có giá có tính thanh toán và là một công cụ có thể
chuyển nhượng với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển
nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.
Ngoài ra, có thể kể thêm các đặc điểm khác của giấy tờ có giá như
tính có thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro,…

13
Như vậy, khái niệm về tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005 mang
tính chất liệt kê. Bởi vì pháp luật thường đi sau sự phát triển của thực tiễn nên
việc liệt kê có thể sẽ không đầy đủ hoặc không theo kịp sự phát triển của khoa
học và đời sống.
Ngày nay, tài sản có thể được hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong
sự chiếm hữu của một chủ thể, một khái niệm rộng và không có giới hạn, luôn
được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà con người nhận thức ra.
1.1.2. Hợp đồng
Định chế hợp đồng bắt nguồn từ luật La Mã và sau này làm các quốc
gia Châu Âu trong hệ thống luật dân sự đã bổ sung và nâng cao cho nền pháp

chế Châu Âu lục địa. Theo luật La Mã, hợp đồng (Contratus) được coi là căn
cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai điều kiện
không thể thiếu là: (1) Phải có sự thỏa thuận (consensus), tức là có sự thống
nhất giữa các bên kết ước và bình đẳng về pháp lý; (2) Phải có mục đích và
căn cứ pháp lý nhất định (causa) để các bên cùng hướng tới. Và, hợp đồng là
phương tiện để đạt được các mục đích đó. Mặt khác, hợp đồng sẽ không có
hiệu lực nếu nội dung của nó vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với
đạo đức xã hội như hợp đồng vận chuyển chất ma túy, mua bán trẻ em,…
Hợp đồng dân sự trước hết phải thể hiện ý chí và biểu lộ ý chí của hai
hay nhiều bên, ý chí là nguyện vọng, mong muốn của các chủ thể được thể
hiện ra bên ngoài bằng các hành vi, thái độ cụ thể: khi các bên đã tiếp nhận ý
chí của nhau và đi đến sự thống nhất, thì hợp đồng được ký kết; từ đó sẽ phát
sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể. Mặt khác, mặc dù các bên có sự
biểu lộ ý chí nhưng chưa có sự thống nhất về ý chí thì hợp đồng đó chưa được
ký kết. Tuỳ từng trường hợp mà hợp đồng dân sự có thể có hiệu lực từ khi các
bên giao kết, hoặc phải thoả mãn một số điều kiện nhất định thì hợp đồng mới
có hiêu lực pháp luật.

14
Bộ luật Dân sự Việt Nam đã thể hiện tương đối đầy đủ khái niệm hợp
đồng, theo Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự". Như vậy, theo định nghĩa này, muốn có một hợp đồng người ta phải
xem xét ba yếu tố sau: có tồn tại một sự thỏa thuận hay không? Giữa các bên
là những ai? Nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt những quyền và nghĩa vụ
cụ thể nào?
Thỏa thuận được hiểu là sự thống nhất của các bên về việc thực hiện
hay không thực hiện một việc cụ thể. Muốn thống nhất, các bên phải có cơ
hội bày tỏ ý chí; các ý chí ấy phải trùng khớp, thống nhất về một số nội dung
của nội dung của hợp đồng theo Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Các bên được hiểu là hai hay nhiều bên. Một bên có thể là cá nhân
hoặc một tổ chức có tư cách pháp nhân. Tổ chức có tư cách pháp nhân có thể
là một công ty, hiệp hội hoặc cơ quan nhà nước. Năng lực hành vi dân sự của
cá nhân được xác định theo Điều 14-23 Bộ luật Dân sự. Năng lực hành vi dân
sự của pháp nhân được xác định theo Điều 84-105 Bộ luật Dân sự.
Nghĩa vụ được hiểu là một hoặc nhiều bên (bên có nghĩa vụ) phải thực
hiện một hoặc một số hành vi như chuyển giao đồ đạc, hàng hóa, vật dụng và
các vật khác, chuyển giao quyền, trả tiền, cung cấp các giấy tờ có giá, làm
hoặc không làm một công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều bên
khác (bên có quyền) theo Điều 280 Bộ luật Dân sự.
1.1.3. Hợp đồng vay tài sản
Hiểu theo nghĩa chung nhất, vay tài sản là một quan hệ xã hội, quan hệ
sử dụng vốn lẫn nhau giữa chủ thể này với chủ thể khác trên nguyên tắc có hoàn
trả. Mục đích và tính chất của quan hệ vay tài sản do mục đích và tính chất của
nền sản xuất trong xã hội quyết định. Sự vận động của quan hệ vay tài sản luôn
luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phương thức trong xã hội đó.

15
Dưới các hình thái kinh tế - xã hội: chiếm hữu nô lệ, phong kiến, quan
hệ vay tài sản tồn tại dưới hình thức cho vay nặng lãi. Hình thức này tồn tại
và phát triển trong điều kiện nền sản xuất thấp kém, phụ thuộc nhiều vào điều
kiện thiên nhiên, giai cấp thống trị thông qua nhà nước đặt ra nhiều loại sưu
cao, thuế nặng để bóc lột giai cấp bị trị. Những người nghèo khổ thuộc giai cấp
bị trị thường xuyên phải đối phó với những khó khăn, rủi ro xảy ra trong cuộc
sống bắt buộc phải đi vay để giải quyết những khó khăn cấp bách trong đời
sống. Trong thời kỳ này người đi vay phải trả lãi suất cao và nếu không trả
được nợ thì bị tịch thu phương tiện sản xuất hoặc bị trói buộc lệ thuộc vào
người cho vay - thông thường là những kẻ giàu có thuộc giai cấp thống trị
trong xã hội. Trong thời kỳ La Mã cổ đại, lãi suất phải trả khoảng 40% -
100%/năm. Dưới chế độ phong kiến Đức, lãi suất từ 21% - 43%/năm và trong

nhiều trường hợp lãi suất lên đến 100%/năm [39, tr. 106]. Sở dĩ lãi suất cao là
do nhu cầu vay quá lớn và người đi vay thường ở trong tình cảnh cấp bách
không thể trì hoãn được.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển ở một số nước, tốc độ phát
triển mạnh mẽ của nền công nghiệp đòi hỏi phải có một lượng vốn rất lớn thì
mới có thể đáp ứng được nhu cầu đầu tư, phát triển hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Do vậy, trong giai đoạn này việc cho vay nặng lãi trở thành vật cản
trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản. Theo C. Mác: "Nó làm cho
sản xuất khánh kiệt, rút hết sức lực của nền sản xuất và khiến cho việc tái sản
xuất phải tiến hành trong những điều kiện ngày càng thảm bại" [36, tr. 480].
Quan hệ vay tài sản với lãi suất thấp có lợi cho hai bên ta đời như một tất yếu,
khách quan đã đẩy lùi quan hệ cho vay nặng lãi và làm chỗ dựa về vốn cho sự
phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong giai đoạn này quan hệ
cho vay nặng lãi không bị thủ tiêu hoàn toàn, nó vẫn tồn tại như một thứ yếu
và vẫn còn duy trì trong xã hội khi người đi vay không vì mục đích sản xuất,
kinh doanh, mà nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.

16
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ
hóa. Do vậy, mỗi chủ thể phải tìm kiếm nguồn vốn trong xã hội nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên,
không phải lúc nào nhu cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn
khớp giữa nguồn vốn và và sử dụng vốn của mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến
tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Vấn đề đặt ra lúc này là nhu cầu giao lưu vốn
xuất hiện.
Dưới góc độ pháp lý, sự xuất hiện của quan hệ vay tài sản kéo theo sự
ra đời của chế định hợp đồng vay tài sản - đây là phương tiện pháp lý giúp các
chủ thể thỏa mãn nhu cầu về vốn của mình. Nó là công cụ mà nhờ đó những
cam kết vay tài sản được thực hiện và tôn trọng.
Ngay từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản đã trở thành một

trong những hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp đồng. Nó được
coi là hợp đồng vay nợ, theo đó: "Hợp đồng vay nợ là sự thỏa thuận của hai
bên, theo đó bên cho vay chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
vay (tiền, lương thực, thực phẩm, rượu, bơ sữa…). Bên vay có nghĩa vụ trả
vật cùng loại hoặc số tiền đã vay khi hết hạn hợp đồng" [76, tr. 129]. Theo
quy định này thì hợp đồng vay nợ là hợp đồng thực tế (tức là bên cho vay phải
chuyển giao tài sản của mình cho bên vay thì nghĩa vụ mới phát sinh). Luật
của Justinian còn quy định: "Các bên trong hợp đồng vay tài sản cũng không
được thỏa thuận về lãi suất theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con" [76, tr. 130].
Như vậy, có thể thấy, từ rất sớm trong lịch sử lập pháp, khái niệm hợp
đồng vay tài sản đã được hình thành và nó vẫn còn giữ nguyên giá trị tài sản
cho đến ngày nay.
Theo Điều 1892 Bộ luật Dân sự của Pháp quy định: "Hợp đồng vay tài
sản là hợp đồng theo đó một bên giao cho bên kia một số lượng vật sẽ bị tiêu
hao khi sử dụng với điều kiện là bên kia phải trả lại vật cùng số lượng và chất
lượng". Định nghĩa này đã chỉ rõ đối tượng của hợp đồng vay tài sản là những

17
vật bị tiêu hao khi sử dụng. Theo quy định của Bộ luật Dân sự Pháp thì hợp
đồng vay và hợp đồng mượn được sắp xếp trong cùng một thiên (thiên X:
Vay mượn).
Theo quy định của pháp luật Nhật Bản, hợp đồng vay tài sản có hai
loại: Loại thứ nhất, người vay có quyền sở hữu đối với đối tượng vay, có
quyền định đoạt đối với đối tượng đó và việc trả lại đối tượng vay sẽ được
thực hiện bằng một vật khác cùng giá trị với vật đã nhận. Loại thứ hai, người
vay không có quyền sở hữu đối tượng vay, nhưng được phép sử dụng, thu lợi
từ nó và phải hoàn trả đúng vật đã nhận khi ký kết hợp đồng vay. Loại thứ
nhất được coi là hợp đồng vay, còn loại thứ hai được coi là hợp đồng mượn
và hợp đồng thuê tài sản [82, tr. 572].
Như vậy, cách tiếp cận hợp đồng vay tài sản của Bộ luật Dân sự Nhật

Bản khá giống Bộ luật Dân sự Pháp. Tuy nhiên, trong Bộ luật Dân sự Nhật
Bản có quy định khác hơn so với Bộ luật Dân sự Pháp ở chỗ đối tượng của
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định chi tiết hơn bao gồm một
khoản tiền hoặc một vật, chứ không quy định chung chung là một số lượng
vật sẽ bị tiêu hao khi sử dụng như trong Bộ luật Dân sự Pháp. Điều 587 Bộ
luật Dân sự Nhật Bản quy định: "Trong hợp đồng vay tài sản, người vay nhận
của người cho vay một khoản tiền hoặc vật nhất định và có nghĩa vụ hoàn trả
tiền hay vật có cùng thể loại, số lượng và chất lượng".
Trong Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan tại Điều 650 quy định:
Một hợp đồng cho vay mượn để tiêu dùng là hợp đồng,
trong đó người cho mượn chuyển cho người vay mượn quyền sở
hữu của một số lượng tài sản nhất định để người vay mượn tiêu
dùng và người vay mượn thỏa thuận sẽ hoàn lại một tài sản cùng
loại, cùng phẩm chất và cùng số lượng. Hợp đồng chỉ được hoàn
thành vào lúc chuyển giao tài sản [18].

18
Qua đây ta thấy hợp đồng vay tài sản có hiệu lực chuyển quyền sở
hữu, là hợp đồng thực tế, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là vật tiêu hao.
Như vậy, hợp đồng vay và hợp đồng mượn trong Bộ luật Dân sự và Thương
mại Thái Lan cũng được sắp xếp trong một thiên (thiên IX: Vay mượn) giống
như Bộ luật Dân sự Pháp, và khái niệm của nó cũng tương tự như khái niệm
được thể hiện trong Bộ luật Dân sự Pháp.
Tương tự như vậy, dưới chế độ cũ ở miền Nam Việt Nam, trong Bộ
Dân luật Sài Gòn 1972, tại chương V: nói về khế ước vay mượn, Điều 1156
quy định:
Có hai loại khế ước vay mượn:
1. Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là
khế ước mượn dùng;
2. Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế

ước vay nợ [13].
Tại Điều 1173, khế ước vay nợ được định nghĩa như sau: "Khế ước
vay nợ là khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật
sẽ bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người vay khi tới hạn sẽ phải hoàn trả lại đúng
số lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng
giá hay sụt giá" [13].
Pháp luật Việt Nam hiện hành đưa ra khái niệm hợp đồng vay tài sản
tại Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả,
bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định" [61].
Xuất phát từ "nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận" (Điều 4
Bộ luật Dân sự năm 2005) mà khái niệm hợp đồng vay tài sản đã đề cập tới
yếu tố thỏa thuận. Thỏa thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa bên cho vay và bên

19
vay trong hợp đồng. Hợp đồng có được thiết lập hay không là do sự thỏa
thuận giữa các bên, tức phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên trong việc
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định, bởi vì ý chí là khả năng tự xác định
mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục khó khăn
nhằm đạt mục đích đó. Sự thỏa thuận này tất nhiên không được trái với pháp
luật, đạo đức xã hội. Một yếu tố góp phần không nhỏ đối với các bên chủ thể
khi giao kết hợp đồng đó là sự tự nguyện - phải có sự thống nhất ý chí và bày
tỏ ý chí của từng chủ thể trong hợp đồng. Ngược lại nếu một trong các bên bị
lừa dối, đe dọa, ép buộc khi ký kết hợp đồng nhưng sự "tự do" ấy phải được
đặt trong giới hạn bởi lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích chủ thể khác.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Hợp đồng vay tài sản là một dạng của hợp đồng dân sự, do vậy bên
cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự thì hợp đồng vay tài sản
cũng có những đặc điểm riêng của nó. Đây chính là cơ sở giúp ta phân biệt

hợp đồng vay tài sản với các loại hợp đồng dân sự khác.
- Hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng ưng thuận
Dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng dân sự được phân
thành hai loại: hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. Hợp đồng ưng thuận
là những hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
các bên phát sinh ngay sau khi các bên đã thoả thuận xong nội dung cơ bản
của hợp đồng; còn hợp đồng thực tế là những hợp đồng mà sau khi thoả
thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao
cho nhau đối tượng của hợp đồng [68, tr. 104-105].
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện cho rằng: "Hợp đồng vay tài sản phát sinh
hiệu lực kể từ thời điểm mà ý chí của các bên giao kết được ghi nhận theo
hình thức do luật quy định (bằng lời nói hoặc bằng văn bản), nếu không có
thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác" [28, tr. 235]. Và

20
"vay tài sản trong Luật dân sự Việt Nam không phải là một hợp đồng thực tế.
Do đó người cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho người vay và người vay có
nghĩa vụ nhận tài sản vay dù Luật không nói rõ" [28, tr. 235]. Tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Điện đã khẳng định hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng ưng thuận và
lý giải rằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi thoả
thuận giao kết hợp đồng xong.
Còn việc coi hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực tế đã được thừa nhận
từ lâu trong pháp luật La Mã và pháp luật dân sự của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan.
Trong luật của Pháp, hợp đồng được giao kết bằng cách chuyển giao tài sản từ
người cho vay sang người vay. Cho đến khi chuyển giao tài sản, các thoả thuận
đạt được giữa hai bên về việc cho vay chỉ mang tính chất của một lời hứa cho vay.
Việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau giữa các chủ thể
trong hợp đồng vay tài sản phải được bắt đầu từ khi hợp đồng có hiệu lực.
Theo Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Hợp đồng được giao kết
hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận

khác hoặc pháp luật có quy định khác" [61]. Như vậy từ thời điểm hợp đồng
giao kết đã phát sinh hiệu lực của hợp đồng vay tài sản, và từ thời điểm này
nếu bên cho vay không thực hiện nghĩa vụ giao tiền hoặc vật cùng loại thì bên
vay có quyền kiện dưới góc độ là vi phạm nghĩa vụ được cam kết trong hợp
đồng vay tài sản. Do vậy, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận.
- Hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng đơn vụ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì:
"Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ". Nghĩa là trong
quan hệ này một bên chỉ có quyền mà không có nghĩa vụ và một bên có nghĩa
vụ mà không có quyền.
Có ý kiến cho rằng, nếu dựa vào mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ
của bên cho vay và bên vay thì hợp đồng vay là hợp đồng song vụ, quyền của

21
bên vay tương ứng với nghĩa vụ của bên cho vay và ngược lại. Cũng có ý kiến
cho rằng, hợp đồng vay là hợp đồng đơn vụ vì trong hợp đồng vay tài sản
nghĩa vụ của các bên phát sinh không cùng lúc mà nghĩa vụ của bên vay phát
sinh sau một khoảng thời gian.
Tuy nhiên, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản được xác
định tại thời điểm bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay. Từ thời điểm
này trở đi, người cho vay có quyền yêu cầu người vay sử dụng tài sản vay
đúng mục đích (nếu có thoả thuận), có quyền yêu cầu người vay hoàn trả lại
tài sản đã vay cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và một khoản lãi (nếu
có) khi đến hạn, còn người vay không có quyền gì đối với người cho vay.
Chính vì vậy, hợp đồng vay tài sản được xem là hợp đồng đơn vụ.
- Hợp đồng vay tài sản là một hợp đồng có tính đền bù hoặc không có
tính đền bù
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi mà một bên sau
khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng.
Hợp đồng vay tài sản có tính đền bù được áp dụng có tính chất bắt buộc trong

hoạt động tín dụng của ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có
quy định mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và
đặc điểm của hợp đồng vay tài sản. Hoặc trong trường hợp bên này cho bên
kia vay và có thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ bên vay không
những trả nợ gốc mà còn trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải
phù hợp với quy định của pháp luật.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù trong tất cả
các hợp đồng vay không có trả lãi. Khi đến hạn trả nợ, bên vay chỉ có nghĩa
vụ hoàn trả đầy đủ một lượng tài sản cùng loại, cùng giá trị cho bên cho vay,
mà không trả thêm bất kỳ một khoảng lợi ích vật chất nào khác, hay một giá
trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này có tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các chủ thể nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời của đời sống

×