Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 101 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN HUYỀN TRANG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
TRONG TÌNH HÌNH XÃ HỘI HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HUYỀN TRANG





MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
TRONG TÌNH HÌNH XÃ HỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên




HÀ NỘI - 2012



3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
6
1.1.
Quan niệm về kết hôn trái pháp luật
6
1.1.1.
Quan niệm kết hôn hợp pháp là cơ sở để xác định việc kết
hôn trái pháp luật
6
1.1.2.
Quan niệm về kết hôn trái pháp luật
10
1.2.
Hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật và việc xử lý
14
1.2.1.
Hệ quả về mặt pháp lý
14
1.2.2.
Hệ quả về mặt xã hội
15
1.2.3.
Mục đích, ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật
16
1.3.
Các yếu tố tác động đến việc kết hôn trái pháp luật

17
1.3.1.
Kinh tế - xã hội
17
1.3.2.
Văn hóa truyền thống
19
1.3.3.
Cơ chế quản lý và pháp luật
19
1.3.4.
Hội nhập quốc tế
21
1.3.5.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật - công nghệ
22
1.4.
Pháp luật về kết hôn trái pháp luật ở việt nam qua các giai
đoạn phát triển
23
1.4.1.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong cổ luật Việt Nam
23


4
1.4.2.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
26

1.4.3.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong giai đoạn từ
năm 1945 đến năm 1975
28
1.4.4.
Những quy định về kết hôn trái pháp luật trong pháp luật Việt
Nam từ năm 1975 đến nay
31

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ KẾT HÔN
TRÁI PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
35
2.1.
Thực trạng các trường hợp kết hôn trái pháp luật và điều
chỉnh pháp luật ở Việt Nam hiện nay
35
2.2.
Thực trạng kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn
36
2.3.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện
41
2.4.
Kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng
48
2.5.
Kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự
54
2.6.
Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những

người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ
thích thuộc
58
2.7.
Kết hôn giữa những người cùng giới tính
61
2.8.
Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn
67
2.9.
Vấn đề hủy kết hôn trái pháp luật
72
2.9.1.
Người có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật
72
2.9.2.
Việc xử lý cụ thể đối với từng trường hợp kết hôn trái pháp luật
75
2.9.3.
Hậu quả pháp lý của hủy việc kết hôn trái pháp luật
79

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
82
3.1.
Nhu cầu khách quan và phương hướng hoàn thiện pháp luật
về kết hôn trái pháp luật
82



5
3.1.1.
Nhu cầu khách quan
82
3.1.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kết hôn và kết hôn trái
pháp luật
84
3.2.
Một số giải pháp và kiến nghị trong việc quy định về kết hôn
trái pháp luật và xử lý việc kết hôn trái pháp luật ở việt nam
86
3.2.1.
Các giải pháp lập pháp
86
3.2.2.
Giải pháp trong việc áp dụng pháp luật
89

KẾT LUẬN
91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92



6




DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình đăng ký khai sinh của trẻ em có cha mẹ chưa
đăng ký kết hôn hoặc chưa đủ điều kiện đăng ký kết hôn
71



7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một người đàn
ông và một người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và
chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc
kết hôn. Do đó, kết hôn đã trở thành một chế định được quy định độc lập trong
hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại đó quy định cụ thể về những
điều kiện kết hôn hợp pháp cũng như các hình thức kết hôn trái pháp luật.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, những mối quan hệ cũng
như những vấn đề về tâm sinh lý của con người ngày càng trở nên phức tạp.
Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hôn nhân, gia đình, trong đó có
việc kết hôn giữa hai bên. Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp kết hôn trái

pháp luật gây ra những ảnh hưởng vô cùng tiêu cực đến mối quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình, đến lối sống và đạo đức xã hội. Trong khi đó, hệ
thống pháp luật lại chưa thể dự liệu cũng như điều chỉnh một cách toàn diện.
Kết hôn trái pháp luật vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể mà còn ảnh
hưởng đến đạo đức và trật tự xã hội. Do đó, nghiên cứu về kết hôn trái pháp
luật trong đời sống xã hội hiện nay là vô cùng cần thiết. Không chỉ nhằm dự
liệu thêm các trường hợp phát sinh, mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn
nữa cách khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm đó. Có như vậy ý
nghĩa của chế định này mới được phát huy, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kết hôn trái pháp luật luôn được là một vấn đề nóng bỏng trong thực
tiễn cuộc sống, một vấn đề đáng quan tâm trong hệ thống pháp luật. Do vậy,


8
trong thời qua ở Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề
này. Đã có một số bài viết mang tính chất nghiên cứu một số nội dung của
vấn đề kết hôn trái pháp luật được đăng tải trên tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật… kể cả một số luận văn thạc sĩ và luận văn tiến sĩ luật học
nghiên cứu liên quan. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu chủ yếu như:
Hủy kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Khóa
luận tốt nghiệp của Đinh Thị Minh Mẫn, Trường Đại học Hà Nội, 2008. Với đề
tài này, tác giả chủ yếu đưa ra những phân tích sâu về vấn đề hủy kết hôn trái
pháp luật tức là về đường lối xử lý những trường hợp kết hôn vi phạm điều
kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, những vấn
đề lý luận xung quanh khái niệm kết hôn trái pháp luật và những thực tiễn về
tình trạng kết hôn trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay lại chưa được
đề cập. Hay như: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,

Luận văn thạc sĩ luật học của Khuất Thị Thúy Hạnh, Khoa Luật- Đại học Quốc
gia Hà Nội. Ở luận văn này, tác giả đánh giá về chế định kết hôn nói chung
trong đó các điều kiện kết hôn và kết hôn trái pháp luật chỉ là một phần nhỏ.
Một số các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật được đăng tải trên các Tạp chí Tòa
án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, Tạp chí Luật học… cũng đã có đề cập tới vấn đề này, tuy nhiên
chỉ dừng lại một khía cạnh nào đó. Ví dụ "Về khái niệm và bản chất pháp lý
của hôn nhân" của tác giả Nguyễn Hồng Hải trên Tạp chí Luật học số 2 năm
2000; "Mấy vấn đề về quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính"
của tác giả Ngô Thị Hường trên Tạp chí Luật học số 3 năm 2001; "Nguyên tắc
áp dụng phong tục, tập quán trong Luật Hôn nhân và gia đình nhìn từ góc độ
giới" của tác giả Bùi Thị Mừng trên tạp chí Luật học số 3 năm 2007…
Như vậy, có thể nhận thấy mỗi công trình nghiên cứu là một sự khai
thác khác nhau, nhìn nhận vấn đề dưới các góc độ khác nhau. Với công trình
của mình, em sẽ tiếp cận vấn đề một cách tổng quan về lý luận cũng như thực


9
tiễn của việc kết hôn trái pháp luật. Do đó, công trình sẽ không phải là sự lặp
lại của bất kỳ công trình nào trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ khái niệm kết hôn
trái pháp luật cũng như đường lối giải quyết việc kết hôn trái pháp luật.
Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cũng như các quy định
pháp lý về vấn đề kết hôn trái pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, đảm bảo trật tự xã hội. Đồng thời, phân tích, đánh giá, nhìn nhận
thực trạng và xu hướng phát triển các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện
chính sách pháp luật của Nhà nước về vấn đề kết hôn trái pháp luật và khắc
phục hậu quả của kết hôn trái pháp luật.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
được những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận kết hôn trái pháp luật như: Quan
niệm kết hôn hợp pháp, kết hôn trái pháp luật; những yếu tố tác động tới tình
trạng kết hôn trái pháp luật; Hệ quả của việc kết hôn trái pháp luật và hướng
xử lý…
- Đánh giá thực trạng tình hình kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện
nay, các quy định pháp luật thực định cũng như việc áp dụng pháp luật trong
việc xử lý các vi phạm.
- Đánh giá chung về nhu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật
hôn nhân và gia đình về kết hôn cũng như kết hôn trái pháp luật. Qua đó kiến
nghị và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là một số vấn đề lý luận về kết hôn
trái pháp luật, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000; pháp luật


10
hôn nhân và gia đình của Việt Nam qua các thời kỳ về vấn đề này; tình trạng
kết hôn trái pháp luật trong những năm gần đây và thực trạng pháp luật điều
chỉnh cũng như các thiết chế đảm bảo thực thi việc áp dụng pháp luật trong
việc xử lý kết hôn trái pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong pháp luật hôn nhân và gia đình,
vấn đề kết hôn trái pháp luật có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, với tên đề tài: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn
trái pháp luật trong tình hình xã hội hiện nay, luận văn sẽ chủ yếu đề cập đến các
vấn đề lý luận xung quanh quan niệm kết hôn trái pháp luật; những quy định về
kết hôn trái pháp luật trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như thực
tiễn kết hôn trái pháp luật trong xã hội hiện nay. Từ đó tìm ra những bất cập và
đưa ra các phương hướng giải quyết. Như vậy, trong đường lối xử lý kết hôn trái

pháp luật, luận văn chỉ xem xét những vi phạm nằm trong sự điều chỉnh của Luật
Hôn nhân và gia đình, chứ chưa đến mức độ phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phương
pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và luận văn này cũng
không nằm ngoài thông lệ đó. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương
pháp bổ trợ như phương pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu, lịch sử để nhằm
đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Trên cơ sở phương
pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật
điều chỉnh các quan hệ kết hôn trái pháp luật, đặc biệt đánh giá, phân tích về
thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề này, em đã rút ra những ưu
điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể
nhằm sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:


11
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về kết hôn trái pháp luật theo
pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về kết hôn trái pháp luật và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về
kết hôn trái pháp luật ở nước ta hiện nay.



12
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. QUAN NIỆM VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.1.1. Quan niệm kết hôn hợp pháp là cơ sở để xác định việc kết
hôn trái pháp luật
Nhìn từ góc độ xã hội học, quan hệ hôn nhân và gia đình là một hình
thức của quan hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này
tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên với mục đích đảm bảo sự sinh
tồn, phát triển của xã hội loài người. Ngay cả khi không có bất kỳ một quy
tắc, một quy định nào thì quan hệ hôn nhân và gia đình từ trước đến nay vẫn
được xác lập, con người vẫn chung sống, vẫn sinh con đẻ cái và tiếp nối từ thế
hệ này qua thế hệ khác. Do đó, quyền kết hôn là một quyền tự nhiên rất con
người, quyền con người. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử, với sự xuất
hiện của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, những quy tắc xã hội dần dần
xuất hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội khách quan mang tính ý chí.
Kết hôn không còn là một quyền tự do, bản năng của con người mà trở thành
một quan hệ xã hội được điều chỉnh, tác động bởi những quan hệ về lợi ích
của giai cấp thống trị. Khi ấy, mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu
tiên về hôn nhân hợp pháp hay không hợp pháp. Trải qua các thời kỳ khác
nhau, quan hệ hôn nhân trước hết được điều chỉnh bởi những tập quán, những
ước lệ, đây là thời kỳ hôn nhân huyết thống. Quan niệm về kết hôn thời kỳ đó
cũng hết sức đơn giản, không có những thủ tục, những lễ nghi rườm rà. Họ
đơn thuần coi đó là sự kết hợp rất tự nhiên của hai chủ thể nam và nữ, quan hệ
hôn nhân được xác lập trên cơ sở thực tế chung sống. Trong quá trình phát
triển, bắt đầu xuất hiện những quy định về cấm kết hôn giữa những thế hệ
trực hệ, giữa bố với con gái, mẹ và con trai, ông bà với cháu, dần dần cấm kết


13

hôn giữa cả những thế hệ bàng hệ, giữa anh chị em ruột với nhau. Tức là quan
hệ hôn nhân đã được điều chỉnh bởi những tục lệ được đặt ra trong khuôn khổ
các thị tộc, bộ lạc, các hình thức tổ chức xã hội thời đó, do đó, nếu quan hệ
hôn nhân tuân thủ theo những trật tự đặt ra thì sẽ được xã hội thừa nhận, cho
phép, ngược lại nếu không tuân thủ thì sẽ bị ngăn cản, phản đối. Cho đến giai
đoạn phồn thịnh của tôn giáo thì những trật tự tôn giáo do giáo chủ đặt ra còn
có sức mạnh cưỡng chế, áp đặt hơn nhiều so với các tập tục, ước lệ trước kia.
Dưới thời kỳ này, quan niệm về hôn nhân trái pháp luật chính là những quan
hệ hôn nhân không tuân thủ những trật tự tôn giáo của xã hội. Không chỉ tuân
thủ về các điều kiện kết hôn, mà về hình thức kết hôn thời kỳ này cũng rất
được coi trọng. Ví dụ như việc một cuộc hôn nhân hợp pháp phải được tổ
chức theo đúng nghi thức lễ giáo, tôn giáo. Như vậy, đến thời kỳ này, kết hôn
không còn là một sự kết hợp tự nhiên giữa những chủ thể khác giới mà đã trở
thành một nghi thức tôn giáo. Nếu đi ngược lại với những quy tắc đó thì
không những hôn nhân không được chấp nhận, bị ngăn cấm mà những chủ
thể còn bị trừng phạt bởi những chế tài rất hà khắc. Xã hội phát triển đến thời
kỳ phong kiến, hôn nhân mang tính chất dân sự, tức là sự bày tỏ ý chí của các
bên. Song hôn nhân không đơn thuần là sự kết hợp giữa đôi bên mà hôn nhân
còn là sự giao lưu giữa các dòng họ kèm theo đó là những mục đích về kinh
tế, chính trị nhất định. Chính vì vậy mà sự quyết định của cha mẹ là yếu tố bắt
buộc trong quan hệ hôn nhân, giữa hai gia đình thì nhất định là phải môn đăng
hộ đối… Và khi ấy, để xác lập quan hệ hôn nhân phải tuân theo những nghi
thức cưới hỏi nhất định. Sự kiện kết hôn chỉ được xác lập khi những nghi thức
như đính hôn, thành hôn được tiến hành theo đúng với phong tục, tập quán.
Như vậy, có thể khái quát rằng, trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau
của xã hội, những yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa đã dần được hình thành
và tác động trực tiếp tới các quy luật tự nhiên, điều chỉnh các mối quan hệ tự
nhiên đó theo những chuẩn mực mà xã hội đặt ra vì mục đích lợi ích của giai
cấp thống trị. Những quy định đó có thể mới chỉ dừng lại ở những tập tục, ước



14
lệ, trật tự tôn giáo mà chưa được khái quát thành pháp luật để đưa quan hệ
hôn nhân và gia đình thành một quan hệ pháp luật nhưng những ước lệ đó đã
góp phần đặt nền móng cho những quan niệm sơ khai về kết hôn hợp pháp và
trái pháp luật.
Chỉ đến khi trong xã hội loài người có sự xuất hiện của pháp luật thì
quan hệ hôn nhân và gia đình từ một quan hệ tự nhiên mới chính thức được
xem xét trên khía cạnh một quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình. Khi
đó, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình là những quan hệ ý chí và phụ
thuộc chặt chẽ vào ý chí pháp luật hay chính là những quy định pháp luật. Về
mặt thuật ngữ, hôn nhân trái pháp luật phải dựa trên khái niệm hôn nhân hợp
pháp. Mà bản chất của pháp luật chính là lợi ích của Nhà nước, của giai cấp
nhằm ổn định trật tự xã hội nói chung, trật tự hôn nhân và gia đình nói riêng.
Nhà nước đã sử dụng pháp luật - một quan hệ ý chí của con người, của giai
cấp để điều chỉnh những quan hệ xã hội tự nhiên nhằm đưa các quan hệ xã hội
tự nhiên phát triển theo những hướng nhất định, có lợi cho sự phát triển chung
của xã hội. Tuy nhiên, pháp luật muốn điều chỉnh được các quan hệ xã hội nói
chung và quan hệ hôn nhân và gia đình nói riêng thì phải phản ảnh được bản
chất khách quan của quan hệ đó, khi pháp luật không phản ảnh được tính
khách quan của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh thì tự bản thân nó phải
thay đổi theo những chiều hướng phù hợp hơn.
Dưới góc độ pháp luật, kết hôn là một sự kiện pháp lý nhằm xác lập
quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ theo quy định của pháp luật về điều kiện
kết hôn và đăng ký kết hôn. Xã hội được xây dựng lên bởi những tế bào vô
cùng quan trọng, đó chính là gia đình, mà cơ sở đầu tiên để hình thành một
gia đình chính là việc kết hôn giữa hai bên nam nữ. Để đảm bảo tạo ra những
tế bào tốt, những gia đình ổn định, lành mạnh thì trước hết ngay từ việc kết
hôn của hai bên nam nữ đã phải tuân thủ theo những điều kiện nhất định, sao
cho cuộc hôn nhân đó được pháp luật cũng như xã hội công nhận. Cũng chính

vì thế mà khi đề cập đến vấn đề kết hôn, người ta thường không chỉ nói khái


15
niệm kết hôn nói chung mà thường nhắc tới cụm từ: kết hôn hợp pháp hay
hôn nhân hợp pháp. Vậy quan niệm thế nào là kết hôn hợp pháp? Theo quy
định của hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình tại Việt Nam hiện nay thì
nam nữ kết hôn được coi là hợp pháp khi đảm bảo hai yếu tố sau:
Thứ nhất, phải thể hiện ý chí của cả nam và nữ là mong muốn được
kết hôn với nhau, ý chí và mong muốn đó được thể hiện bằng lời khai của họ
trong tờ khai đăng ký kết hôn cũng như trước các cơ quan đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật. Đây chính là điều kiện về yếu tố tự nguyện trong
hôn nhân, hai bên nam nữ phải thể hiện ý chí thực của mình là mong muốn
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, thương yêu,
chăm sóc cho nhau và cho con cái… Như vậy, có thể thấy yếu tố tự nguyện là
một trong những điều kiện quan trọng đầu tiên để đảm bảo cho hôn nhân có
giá trị pháp lý đồng thời cũng là cơ sở để xây dựng gia đình bền vững.
Thứ hai, việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân chỉ
được Nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân mà cụ thể là việc
kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng
ký kết hôn như C.Mác - Ph. Ăngghen: "Không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng
ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn…" [2,
tr. 345].
Để hôn nhân được pháp luật thừa nhận, các cơ quan đăng ký kết hôn
phải tiến hành điều tra, xác minh về những thông tin, lời khai của hai bên nam
nữ, đối chiếu với những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9, Điều 10
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Khi đã thỏa mãn những điều
kiện trên thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành đăng ký kết hôn
cho hai bên nam nữ. Như vậy, để hôn nhân được Nhà nước và pháp luật công
nhận, nam nữ phải tuân theo các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Đây

cũng là nội dung của những quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình,
thể hiện tính khoa học, phù hợp với những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân…


16
Như vậy, kết hôn hợp pháp là việc kết hôn đảm bảo thỏa mãn những
điều kiện Luật định và sự tự nguyện cũng như các điều kiện và đăng ký kết
hôn. Sự kiện kết hôn được pháp luật công nhận sẽ là cơ sở pháp lý ghi nhận
quyền và nghĩa vụ vợ chồng, xác định chủ thể của quan hệ vợ chồng, giữa cha
mẹ và con và xác định rõ thời điểm làm phát sinh các quan hệ đó.
1.1.2. Quan niệm về kết hôn trái pháp luật
Trước hết cần khẳng định rằng, kết hôn trái pháp luật là một khái niệm
pháp lý được pháp luật quy định và điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, đứng trên góc độ lý luận, để tìm hiểu những quan niệm sâu xa của
vấn đề này thì cần đặt nó trong sự tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của mỗi thời kỳ. Bởi trong một xã hội có giai cấp, quan hệ
hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Thông qua Nhà nước,
bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các quan hệ hôn nhân và gia
đình làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với lợi
ích của giai cấp đó.
Trong xã hội phong kiến, khi pháp luật là ý chí của một bộ phận rất
nhỏ trong xã hội - tầng lớp quan lại, vua chúa, họ mặc nhiên đề ra những quy
định điều chỉnh những quan hệ về hôn nhân và gia đình mà theo họ là phù
hợp và đương nhiên cũng sẽ trở thành những nguyên tắc chung của toàn xã
hội. Ở thời kỳ đó, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn
nhân không tuân thủ các điều kiện kết hôn như: không "môn đăng hộ đối",
những quan hệ hôn nhân không được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng…
Những quy định này thể hiện rất rõ trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia
Long ở nước ta.

Để lý giải cho những quan niệm thời đó, chúng ta có thể dễ dàng tìm
ra câu trả lời trong chính nội tại bản thân xã hội phong kiến. Một xã hội
chuyên quyền, gia trưởng, một xã hội mà hôn nhân không phải là sự quyết
định của hai bên nam nữ, đó là mối quan hệ của cả một gia đình, dòng họ,


17
tầng lớp, một xã hội mà khái niệm dân chủ chưa hề xuất hiện. Chính vì thế,
nam nữ thời đó mặc nhiên chấp nhận việc kết hôn là việc của hai gia đình, sự
đồng ý của cha mẹ, họ hàng thân thích là một yếu tố bắt buộc mà thiếu nó
cuộc hôn nhân đó sẽ không được Nhà nước cũng như xã hội thừa nhận. Mặt
khác, bên cạnh những quy định trực tiếp điều chỉnh quan hệ hôn nhân, trong
pháp luật phong kiến còn có hàng loạt những quy định hà khắc dành cho con
người, đặc biệt là người phụ nữ, từ khi sinh ra họ đã không có quyền được đòi
hỏi bất kỳ một quyền lợi gì cho bản thân. Do đó, trong bất kỳ một việc gì
không riêng việc kết hôn họ cũng mặc nhiên chấp nhận những quy định đó,
phụ nữ mặc nhiên chấp nhận, đàn ông mặc nhiên chấp nhận, từ đời này qua
đời khác của cái xã hội phong kiến đó đã khiến những quy định của pháp luật
ăn sâu vào hệ tư tưởng của mỗi con người, tạo thành những quan niệm xã hội
mà không dễ gì thay đổi. Minh chứng cho việc đó là cho đến xã hội bây giờ,
khi pháp luật điều chỉnh là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, văn minh,
tiến bộ, dân chủ, công bằng thì trong tiềm thức của người Việt Nam sự kiện
kết hôn là một sự kiện trọng đại trong đời, hơn ai hết, cha mẹ phải là người
đồng ý, tán thành. Tất nhiên, đó không còn là một căn cứ luật định, song với
truyền thống, phong tục của người Việt Nam thì thường việc kết hôn của hai
bên nam nữ vẫn không thể thiếu được sự đồng ý của cha mẹ.
Tương tự như vậy, đối với các nước tư bản, chính những điều kiện
sống, những yếu tố về xã hội, con người, kinh tế cũng đã quyết định đến
những quan niệm của xã hội, theo đó, pháp luật điều chỉnh cũng có những xu
hướng phù hợp. Về vấn đề kết hôn, có thể nói pháp luật của một số nước

thuộc hệ thống Tư bản chủ nghĩa có những cách nhìn nhận rất khác với pháp
luật của Việt Nam. Do đó, những căn cứ để xác định kết hôn hợp pháp và kết
hôn không hợp pháp cũng có những khác biệt. Ví dụ như do các điều kiện về
kinh tế, khí hậu, sinh học… khiến con người phát triển nhanh hơn, sự trưởng
thành về thể lực cũng như trí lực sẽ khác với người Châu Á như Việt Nam,
như vậy, điều kiện về tuổi kết hôn cũng sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp. Hay


18
việc kết hôn đồng giới hiện nay đã được thừa nhận tại một số quốc gia là kết
hôn hợp pháp. Không chỉ được pháp luật thừa nhận mà ngay cả dư luận, cả xã
hội cũng chấp nhận và ủng hộ việc đó.
Như vậy, có thể khẳng định quan niệm về hôn nhân và kết hôn là một
vấn đề chịu tác động rất lớn bởi những yếu tố khác nhau trong xã hội. Yếu tố
đầu tiên có thể kể đến đó chính là pháp luật. Pháp luật về hôn nhân và gia
đình là một ngành thuộc nhóm luật tư, tương tự như Luật Dân sự. Ở đó, sự tự
định đoạt, tự thỏa thuận của các bên luôn được đề cao hàng đầu. Pháp luật chỉ
đưa ra một khung pháp lý mà giới hạn của nó chính là những trật tự công.
Trong phạm vi khung pháp lý đó, mọi sự thỏa thuận, sự tự định đoạt đều được
tôn trọng và thừa nhận. Theo lẽ đó, đương nhiên các cơ quan công quyền chỉ
tác động và điều chỉnh những mối quan hệ hôn nhân và gia đình khi xuất hiện
những vi phạm ảnh hưởng đến cái mà ta gọi là trật tự công kia. Qua mỗi giai
đoạn lịch sử, các nhà lập pháp cũng có những sự nhìn nhận, đánh giá khác
nhau để từ đó đặt ra những hành lang pháp lý nhất định. Theo sự phát triển
của xã hội, và của xu hướng lập pháp nói chung, những quan hệ hôn nhân và
gia đình, quan hê dân sự - những quan hệ điển hình được điều chỉnh bởi luật
tư ngày càng tôn trọng, đề cao sự tự nguyện, tự thỏa thuận, định đoạt của các
bên và hạn chế sự tham gia của các cơ quan công quyền. Một ví dụ rõ nét nhất
mà chúng ta có thể nhận thấy đó là những quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2000 khi bãi bỏ quyền của Viện kiểm sát được khởi tố vụ án dân sự,

lao động - thẩm quyền đã được quy định cho Viện công tố và Viện kiểm sát
trong 34 năm từ năm 1950 đến năm 2004. Như vậy, có thể nói rằng, pháp luật
hiện nay khi đưa ra những quy định để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia
đình đều rất mềm dẻo, linh hoạt sao cho vừa có thể bảo vệ được quyền và lợi
ích của các bên, bảo vệ trật tự xã hội vừa có thể phù hợp với tâm tư, tình cảm
của con người. Không chỉ có vậy, quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt là
quan hệ kết hôn còn mang trong nó những đặc điểm riêng biệt mà ngay cả
trong quan hệ dân sự cũng không có được. Đó chính là việc mọi sự thỏa


19
thuận, mọi sự bình đẳng đều được gắn liền với yếu tố tình cảm, gắn với trách
nhiệm của vợ, của chồng đối với gia đình, con cái. Bởi đây chính là mối quan
hệ gốc mà từ đó sẽ phát sinh các quan hệ về ruột thịt, quan hệ nuôi dưỡng…
Đối với người Việt Nam, tình cảm gia đình luôn là một điều thiêng liêng, mà
ở đó những quy định của pháp luật có thể sẽ trở nên bất cập nếu như chỉ là
những quy định mang tính nguyên tắc mà bỏ qua yếu tố tình cảm trong đó. Có
thể dẫn ra đây một ví dụ nhỏ nhưng hết sức thực tế trong trường hợp này, đó
là khi xử lý việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm Điều 10 Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000 cấm "kết hôn với người mất năng lực hành vi
dân sự" [28]. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì những trường hợp
như vậy sẽ bị Tòa án xử hủy kết hôn trái pháp luật. Nhưng việc xử lý đó sẽ
không bao giờ đạt được mục đích nếu như gia đình họ vẫn đang êm ấm, vợ
chồng thương yêu, cảm thông, chia sẻ cùng nhau mọi khó khăn. Nếu xử lý
việc kết hôn của họ bằng việc hủy kết hôn trái pháp luật thì chẳng phải là đã
phá vỡ một mái ấm gia đình hay sao? Ví dụ trên để khẳng định rằng quan
niệm về hôn nhân hợp pháp cũng như cơ sở để xác định kết hôn trái pháp luật
không chỉ căn cứ bởi những tiêu chí chung như đạo đức, chính trị, xã hội,
nguyên tắc nhân đạo hay mục đích của hôn nhân… Mà hơn hết, những quan
niệm đó phải luôn gắn với yếu tố tình cảm, trách nhiệm, sự yêu thương gắn bó

với nhau giữa những thành viên trong gia đình.
Ở Việt Nam chúng ta là một nước Á Đông điển hình với hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa quy định về kết hôn trái pháp luật là những trường
hợp kết hôn vi phạm về các điều kiện kết hôn. Những điều kiện đó được Nhà
nước pháp điển hóa từ những quan niệm trong đời sống xã hội và đưa vào
những quy định của pháp luật. Theo đó, kết hôn trái pháp luật theo quan niệm
của Việt Nam chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn
nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một
trong những điều kiện sau: Vi phạm điều kiện về độ tuổi; Vi phạm điều kiện
về yếu tố tự nguyện; thuộc các trường hợp cấm kết hôn; vi phạm các điệu


20
kiện về đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Những cơ sở đó được
hình thành từ chính cuộc sống và con người Việt Nam, dựa trên những yếu tố
về văn hóa, về sự phát triển sinh học của con người, sự phát triển của kinh tế,
xã hội…
1.2. HỆ QUẢ CỦA VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT VÀ VIỆC XỬ LÝ
1.2.1. Hệ quả về mặt pháp lý
Từ việc định nghĩa kết hôn trái pháp luật ta có thể hiểu đó là một hành
vi vi phạm những điều kiện kết hôn, rơi vào những điều cấm kết hôn theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Những hành vi như
vậy ắt hẳn sẽ dẫn đến những hậu quả cho xã hội. Xét dưới góc độ pháp lý,
hành vi kết hôn trái pháp luật trước kết xâm phạm đến quyền và lợi ích chính
đáng của công dân. Khi đã là những cuộc hôn nhân không hợp pháp xuất phát
từ hành vi kết hôn trái pháp luật, đương nhiên pháp luật không thể ghi nhận
và bảo vệ những quyền lợi chính đáng cho họ. Đó là quyền tự do, tự nguyện
trong hôn nhân, đây là một quyền tất yếu của con người được pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật các nước trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Trong xu
hướng xã hội hóa toàn cầu, vấn đề nhân quyền của con người ngày càng được

quan tâm, kết hôn do cưỡng ép, lừa dối sẽ là những hành vi bị lên án. Đối với
những trường hợp tảo hôn, khi nam nữ chưa đủ tuổi kết hôn mà vẫn tiến hành
những cuộc hôn nhân, điều đó không chỉ đơn thuần là xâm hại đến quyền tự
do, tự nguyện của con người mà còn vi phạm những quy định của pháp luật
liên quan đến việc bảo vệ trẻ em, thậm chí còn có thể phạm vào một số tội
quy định trong Bộ luật hình sự. Kết hôn đồng giới sẽ xâm hại đến những quy
định của pháp luật Việt Nam về việc kết hôn giữa nam và nữ… Không chỉ
gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của những cá nhân, việc kết
hôn trái pháp luật còn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động quản lý của các cơ
quan nhà nước. Những cuộc hôn nhân không hợp pháp, kết hôn không có
đăng ký kết hôn khiến cho các cơ quan nhà nước khó có thể nắm bắt và quản


21
lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, khai sinh hay giải quyết những tranh
chấp khác.
1.2.2. Hệ quả về mặt xã hội
Quan hệ hôn nhân vốn là một quan hệ xã hội, chính vì vậy, trước
những hành vi kết hôn trái pháp luật dẫn đến những cuộc hôn nhân bất hợp
pháp không chỉ gây ra những hệ quả về pháp lý mà chắc chắn sẽ còn gây ra
những hệ quả về mặt xã hội một cách nặng nề. Kết hôn trái pháp luật không
thể tạo ra những gia đình hạnh phúc, lành mạnh. Một gia đình được hình
thành và tồn tại để thực hiện tốt những chức năng của nó phải được xây dựng
trên cơ sở tình yêu của hai bên nam nữ, sự thương yêu, gắn kết và tự nguyện
chung sống, thực hiện tốt bổn phận của mình, phải được thiết lập giữa những
chủ thể khác giới có đầy đủ những tiêu chuẩn về thể lực, sinh lý, tâm lý…
Nếu như việc kết hôn thiếu đi những yếu tố đó thì sẽ không thể tạo ra được
những gia đình bền vững, thực hiện tốt được các chức năng của mình. Đó
chính là những tế bào không tốt, tạo nên một xã hội bất ổn định, ảnh hưởng
đến rất nhiều các mặt khác của đời sống xã hội. Mặt khác, những hành vi kết

trái pháp luật như chung sống như vợ chồng, kết hôn, chung sống với những
người đang có vợ hoặc có chồng còn tác động tiêu cực đến các mối quan hệ
khác trong xã hội, gia đình tan vỡ, con cái bơ vơ là nguyên nhân dẫn đến các
tệ nạn xã hội gia tăng, tội phạm gia tăng, đặc biệt là tội phạm của trẻ em vị
thành niên. Đó chỉ là những tác động hết sức cụ thể mang tính dẫn chứng của
việc kết hôn trái pháp luật đến đời sống xã hội. Trên thực tế, kết hôn trái pháp
luật nói chung đều là những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến các quy định
được xây dựng dựa trên truyền thống văn hóa dân tộc và sự tiếp thu, cải cách
của Nhà nước. Khi đã xâm phạm đến những quy định này, hành vi đó sẽ có
tác động vô cùng xấu đến tâm sinh lý của mối cá nhân, đến đạo đức, truyền
thống của dân tộc. Đó chính là những bước cản trên đà phát triển của một xã
hội, một quốc gia.


22
1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của việc xử lý kết hôn trái pháp luật
Chính bởi những phân tích trên có thể thấy rằng hành vi kết hôn trái
pháp luật ảnh hưởng rất lớn đến các mối quan hệ xã hội cũng như những
quyền và lợi ích cơ bản của công dân. Do đó việc xử lý kết hôn trái pháp luật
là hết sức cần thiết, mang lại những ý nghĩa to lớn.
Kết hôn trái pháp luật là một hành vi vi phạm những quy định về kết
hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể trong xã hội, xâm hại đến truyền thống, đạo đức,
phong tục và văn hóa của dân tộc, bị xã hội lên án và pháp luật xử lý bằng các
chế tài. Việc xử lý kết hôn trái pháp luật tùy từng trường hợp mà có các cách
giải quyết khác nhau. Có thể sẽ không phải xử hủy việc kết hôn trong những
trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi mà đến khi phát hiện họ đã đủ tuổi
đăng ký kết hôn và vẫn tự nguyện chung sống với nhau hạnh phúc; trường
hợp vi phạm điều kiện về sự tự nguyện nhưng người kia đã biết về sự lừa dối,
cưỡng ép mà vẫn thông cảm và tự nguyện tiếp tục chung sống… Hay trong

những trường hợp quy định tại các khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 10 Luật
Hôn nhân và gia đình thì bắt buộc phải hủy việc kết hôn đó mà không có một
ngoại lệ nào. Tùy vào mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm mà pháp
luật còn xem xét để xử lý về mặt hình sự đối với những hành vi phạm tội
được quy định trong Bộ luật hình sự. Như vậy, có thể nói, việc xử lý các hành
vi vi phạm chế độ kết hôn là một tất yếu, nó không chỉ giúp pháp luật được
hiện hành trên thực tế mà còn có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Bằng các
chế tài của pháp luật, việc xử lý kết hôn trái pháp luật đã góp phần bảo về
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, các chủ thể bị hành vi kết hôn trái
pháp luật này xâm hại. Bảo vệ những quyền lợi ích của những chủ thể đặc
biệt trong xã hội như bảo vệ phụ nữ và trẻ em, xử lý nghiêm minh đối với
những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe cũng như nhân thân của
những đối tượng này. Mang lại quyền bình đẳng, quyền lợi hợp pháp cho các
chủ thể chính là ý nghĩa lớn nhất của mỗi quy định pháp luật. Không chỉ bảo


23
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong xã hội, việc xử lý các
hành vi vi phạm này còn giúp các cơ quan nhà nước thuận tiện trong quá trình
quản lý cũng như giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quan hệ hôn nhân và gia đình là những quan hệ vô
cùng nhạy cảm nên việc xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật không chỉ
đơn thuần là việc dùng sức mạnh của pháp luật để xử lý những vi phạm mà
hơn thế những chế tài đó còn phải thật phù hợp với thực tế cuộc sống, hướng
tới mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
người. Pháp luật luôn đi đôi với pháp chế, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối của tất
cả các chủ thể trong xã hội, nhưng áp dụng pháp luật để xử lý những vi phạm
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì lại phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt,
không chỉ dựa trên quy định của pháp luật mà còn phải căn cứ vào thực tế các
quan hệ hôn nhân cụ thể. Mục đích và ý nghĩa của việc xử lý những hình thức

kết hôn trái pháp luật chỉ thực sự đạt được khi dung hòa được hai vấn đề này,
đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, góp phần vào việc tạo ra những gia
đình ổn định, hạnh phúc được xây dựng trên cơ sở tình yêu giữa vợ và chồng,
tình yêu thương giữa cha mẹ và con cái. Gia đình hạnh phúc chính là những tế
bào tốt của một xã hội văn minh, phát triển. Như vậy, những biện pháp này
còn có ý nghĩ bình ổn các mối quan hệ trong xã hội, giữ tâm lý ổn định trong
nhân dân, bảo vệ các giá trị truyền thống, những chuẩn mực về đạo đức cũng
như những nét văn hóa của dân tộc. Việt Nam chúng ta vốn là một dân tộc có
những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời, không thể để những hành vi vi
phạm đó làm ảnh hưởng đến, làm mất dần đi những giá trị quý giá đó.
1.3. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
1.3.1. Kinh tế - xã hội
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy kết hôn trái pháp luật là một
hiện tượng xã hội bị chi phối bởi rất nhiều các yếu tố như chính trị, kinh tế,
văn hóa và tư duy của bản thân mỗi chủ thể trong xã hội, hay gọi chung là các
yếu tố kinh tế - xã hội.


24
Kinh tế là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh
mẽ đến tất cả các mối quan hệ trong xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân và
gia đình. Trong xã hội phong kiến, vì hoàn cảnh kinh tế, vì những khoản nợ
truyền đời, chúng ta đã bắt gặp không ít những cuộc hôn nhân mang tính chất
gả bán của cha mẹ. Vì hoàn cảnh mà đến ngay cả hạnh phúc của một đời
người cũng có thể đem ra để trao đổi, để trị giá bằng tiền. Trong kho tàng văn
học Việt Nam cũng đã khắc họa rất chân thực và sinh động cũng câu chuyện
như vậy. Đó là một nàng Kiều "bán mình chuộc cha" với giá 3000 lạng bạc,
hay một cô Mị xinh đẹp trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài đã phải cam
chịu làm thân trâu ngựa cho nhà thống lý Pá tra mới mong trả được khoản nợ
cho cha từ đời trước… Đó chỉ là một khía cạnh về sự tác động của kinh tế đối

với hiện tượng kết hôn trái pháp luật. Ngày nay, cùng với sự phát triển của
kinh tế thị trường, Việt Nam cũng đã có những chuyển biến căn bản và rõ rệt.
Tình trạng gả bản, ép duyên dẫn đến kết hôn trái pháp luật chỉ còn tồn tại ở
một số dân tộc miền núi, ít người. Song mặt trái của sự chuyển biến về kinh tế
lại gây ra một tác động còn mạnh mẽ hơn đối với tình trạng kết hôn trái pháp
luật. Sức mạnh của đồng tiền đã làm biến đổi ngay cả những hành vi, những
xử sự thường nhật. Mục đích kinh tế được đặt lên trên khiến người ta có thể
dễ dàng bỏ qua những lẽ sống, những chuẩn mực. Kết hôn lại được chuyển
hóa thành những hợp đồng, những thỏa thuận mang nặng mục đích kinh tế mà
coi nhẹ đi những chức năng của gia đình. Cũng vì vậy mà những cuộc hôn
nhân không hạnh phúc và tỷ lệ ly hôn ngày nay đang gia tăng, vẫn bởi những
lý do rất xưa cũ nhưng bản chất của nó thì không đơn thuần như những lý do
thời trước mà nguy hiểm hơn nó còn trở thành một lối sống, một lối tư duy.
Và suy cho cùng thì chính kinh tế, chính những mục đích lợi nhuận đã làm
biến đổi cả bộ mặt của xã hội trong đó có quan hệ hôn nhân. Cơ sở hạ tầng sẽ
quyết định kiến trúc thượng tầng trong xã hội, tạo ra sự phân hóa lao động,
những hiện tượng di cư dự do… Trong một bối cảnh xã hội như vậy sẽ dẫn
đến việc hình thành những lối sống hiện đại, những lối sống mang tính chất


25
"thoáng" hơn. Do đó, cách xử sự của các chủ thể trong những mối quan hệ xã
hội cũng tất yếu bị ảnh hưởng. Vì những lý do, những mục đích khác nhau, họ
có thể coi nhẹ giá trị của gia đình, của hôn nhân, và điều đó dẫn đến vi phạm
những quy định về hôn nhân hợp pháp là điều không thể tránh khỏi.
1.3.2. Văn hóa truyền thống
Một xã hội tồn tại không thể thiếu những giá trị văn hóa, giá trị tinh
thần. Việt Nam là một dân tộc có bề dầy văn hóa lịch sử, đặc biệt còn có sự
ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng nho giáo, coi trọng gia đình, coi hôn nhân là
một việc trọng đại với những quy định và chuẩn mực khắt khe. Tuy nhiên

cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa Việt Nam cũng
đã có những biến chuyển sâu sắc, ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống, cách
sống của những cá nhân trong xã hội. Nếu như trước đây, việc chung sống
như vợ chồng hay những quan hệ ngoại tình, quan hệ ngoài hôn nhân bị xã
hội, dư luận lên án hết sức gay gắt và phải chịu những chế tài khắc nghiệt,
khắc nghiệt đến mức tước bỏ cả những quyền tự do của cá nhân. Thì đến xã
hội ngày nay, những quan niệm hủ tục, những định kiến lạc hậu đã được bãi
bỏ, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được hưởng những quyền tự do, dân chủ,
đó là một tác động hết sức tích cực. Song bên cạnh đó, sự suy thoái về lối
sống cũng không thể tránh khỏi, vì sống "thoáng" hơn nên những cuộc hôn
nhân ngoài giá thú, những quan hệ ngoại tình ngay một gia tăng. Cứ như vậy,
một lối nghĩ, lối sống được hình thành dần dần đã làm biến đổi cả bản chất
vốn rất "thuần" của người Việt. Những hiện tượng chưa từng xuất hiện, hay
trước kia chỉ giám lén lút, thì nay đang có xu hướng công khai và gia tăng
như việc kết hôn đồng giới, việc sống "thử", ngoại tình… Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến hạnh phúc gia đình, đến sự ổn định trong cuộc sống.
1.3.3. Cơ chế quản lý và pháp luật
Trước hết phải kể đến yếu tố chính trị, hai khái niệm Nhà nước và
pháp luật thường đi đôi với nhau, nhà nước được quản lý bởi một giai cấp

×