Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.89 KB, 15 trang )

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hơn
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu
thế hội nhập
Nguyễn Cao Hiến
Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Dân sự; Mã số: 60 38 30
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Phương Lan
Năm bảo vệ: 2011
Abstract: Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và ý nghĩa việc pháp luật ghi nhận
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Phân tích thực trạng quan hệ kết hơn giữa cơng
dân Việt Nam với người nước ngồi trong những năm gần đây. Đánh giá thực trạng
của pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi; đưa ra một số
vướng mắc liên quan, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các
quy định về kết hơn có yếu tố nước ngồi trong pháp luật hơn nhân và gia đình Việt
Nam.
Keywords: Pháp luật Việt Nam; Luật dân sự; Kết hôn
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta
đã làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với sự phát triển của quá
trình giao lưu quốc tế, các quan hệ về hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với
người nước ngoài cũng phát sinh ngày càng nhiều. Việc điều chỉnh quan hệ này trở thành một
yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng
thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân các nước có liên quan.
Để kịp thời điều chỉnh được các quan hệ hơn nhân và gia đình nói chung, quan hệ kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi nói riêng, nhà nước ta đã ban hành một số văn
bản pháp luật có giá trị như: Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986; Pháp lệnh Hơn nhân và gia


đình giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi 2/12/1993; Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000 và một số văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản trên. Điều này đã tạo điều kiện
cho các quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi có cơ sở pháp lý để phát triển đồng thời tăng
cường sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi. Do
vậy, trong thời gian qua số lượng công dân Việt Nam kết hơn với người nước ngồi tăng
nhanh về cả số lượng và ngày càng đa dạng về phạm vi chủ thể. Đây là minh chứng cho chủ
trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu dân sự giữa Việt
Nam với các nước khác trên thế giới.


Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, bên cạnh những yếu tố tiến bộ, tích cực, trong quan
hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi đang nảy sinh các hệ lụy như hiện
tượng lấy chồng (vợ) là người nước ngồi vì mục đích kinh tế, để "xuất ngoại", kết hơn khơng
xuất phát từ tình u nam nữ, sự tự nguyện… Những hiện tượng này đã làm ảnh hưởng khơng
nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam.
Ngồi ra, cịn phải kể đến một số trường hợp lợi dụng việc kết hôn với người nước ngồi
nhằm bn bán người, xâm phạm tình dục người phụ nữ. Hậu quả từ những tiêu cực trong
việc phụ nữ Việt Nam kết hơn với người nước ngồi để lại cả trước mắt và lâu dài, ảnh hưởng
tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc
tế… Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan dẫn đến các hiện tượng trên nhưng sự
hạn chế của pháp luật cùng với thiết chế thực thi chúng trong việc điều chỉnh các quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi đóng vai trị khơng nhỏ.
Chủ trương của nhà nước ta về vấn đề cải cách tư pháp đã được thể hiện cụ thể trong
Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày 02/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020",
theo đó: "sớm hồn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục
tiêu chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…". Bên cạnh đó, cơng cuộc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu
một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngồi, từ đó rút ra được một số đề xuất thực tế nhằm hoàn thiện
hơn nữa các quy định của pháp luật về vấn đề này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận

và thực tiễn. Nhận thức được điều đó, em đã mạnh dạn chọn vấn đề "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam trong xu thế hội nhập" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi là vấn đề có tính thời sự cao. Do
vậy, từ trước tới nay có khơng ít các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể chia các cơng
trình nghiên cứu về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi thành 3 nhóm lớn
sau:
- Nhóm luận văn, luận án: ở nhóm này có thể liệt kê đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu như: Vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam (Luận văn thạc sĩ luật học của
Vilayvong Senebouttarat, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008), Quan hệ kết hôn giữa công
dân Việt Nam với công dân Lào theo quy định của pháp luật Việt Nam và Lào (Khóa luận tốt
nghiệp của Vithanha Inthivixay, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010), Pháp luật về kết hơn có
yếu tố nước ngồi tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp, của Nguyễn Thị Hương, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006. Hay như Đỗ Thị Kiều Ngân,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009 với đề tài: "Thực trạng kết hôn có
yếu tố nước ngồi và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về
vấn đề này ở Việt Nam hiện nay". Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên đã chỉ ra một số
vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngồi. Tuy nhiên hầu hết các cơng trình trên đều được nghiên cứu dưới góc độ khác
(chủ yếu là tư pháp quốc tế) hoặc với phạm vi rộng lớn nên chỉ mang tính khái qt hoặc
nghiên cứu dưới góc độ tư pháp quốc tế, lý giải về hiện tượng xung đột pháp luật trong khi
giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngồi.
- Nhóm sách giáo trình, sách bình luận chun sâu: trong nhóm này, đầu tiên phải kể đến
cuốn sách Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế của Nơng Quốc Bình và Nguyễn Hồng Bắc, Nxb Tư pháp, năm 2006. Ngồi ra
cịn có một số giáo trình và bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình. Hầu hết các cơng
trình này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hơn nhân và
gia đình về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi, chưa đề cập hoặc
ít đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên.

- Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong số này phải kể đến bài viết của Đỗ
Văn Chỉnh đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân, số 1 (1/2011) với nhan đề: "Kết hơn có yếu tố

2


nước ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật"; "Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký
kết hôn có yếu tố nước ngồi" của Ngơ Văn Thìn, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
7/2009; "Thực trạng về việc phỏng vấn trong kết hôn với người nước ngoài hiện nay" của
Nguyễn Văn Thắng, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về đăng ký khai
sinh và đăng ký kết hôn… Phần lớn các bài viết này đề cập tới một số vấn đề cụ thể của quan
hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, chưa đề cập được sâu sắc và tồn
diện các vấn đề của việc cơng dân Việt Nam kết hơn với người nước ngồi.
Tóm lại, cho đến nay, chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi. Các cơng trình nghiên cứu hoặc chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của quan hệ
này hoặc nghiên cứu dưới góc độ xung đột pháp luật và đi sâu vào việc luận giải hệ thống
pháp luật nào giải quyết quan hệ đó. Do vậy, các cơng trình nghiên cứu trên so với đề tài của
luận văn này là hồn tồn khơng có sự trùng lắp về mặt nội dung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là qua quá trình nghiên cứu các quy định của pháp luật
hơn nhân và gia đình về việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi và thực
trạng của vấn đề này trong những năm gần đây, Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động của các thiết chế
trong việc thi hành pháp luật về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi. Để
đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn cần phải giải quyết được những nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài và ý nghĩa việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hơn có yếu tố nước

ngồi;
- Phân tích thực trạng quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
trong những năm gần đây;
- Đánh giá thực trạng của pháp luật về kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi; đưa ra một số vướng mắc liên quan, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn nữa các quy định về kết hơn có yếu tố nước ngồi trong pháp luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quan hệ kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài, các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000;
pháp luật hơn nhân và gia đình của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới về vấn đề
này; tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những năm gần
đây và thực trạng pháp luật điều chỉnh và các thiết chế đảm bảo thực thi việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngồi.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: trong khn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập
trung vào một số vấn đề sau:
- Những quy định của pháp luật về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Trong đó tập
trung chủ yếu vào quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi.
- Các quy định của pháp luật về kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
trong một số văn bản pháp luật như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2000; Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản pháp luật khác liên quan. Trong
đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và theo các quy định của pháp
luật Việt Nam mà không đề cập tới việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài theo pháp luật nước ngoài và yêu cầu pháp luật Việt Nam công nhận
- Một số quy định của pháp luật các nước trên thế giới về kết hôn có yếu tố nước ngồi
như Hàn Quốc, Đài Loan, Anh, Mỹ, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật hôn nhân và gia

3



đình Việt Nam, qua đó tiếp thu những điểm tiến bộ và phù hợp với các quy định về kết hơn
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi trong Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam.
- Tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi mà chủ yếu là nữ
cơng dân Việt Nam kết hơn với người nước ngồi trong vài năm gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp chủ yếu như phương pháp
duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; phương pháp phân tích luật học; phương pháp phân tích - so sánh; phương pháp
tổng hợp (trên cơ sở phân tích, so sánh và tham khảo pháp luật nước ngồi); phương pháp
trích dẫn, phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia v.v... Trên cơ sở phương pháp
phân tích, tổng hợp, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh các quan
hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, đặc biệt đánh giá, phân tích về thực trạng pháp luật Việt Nam
điều chỉnh một số quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đã lựa chọn, tác giả rút ra những ưu
điểm, tồn tại trong việc thi hành pháp luật, từ đó đề ra các giải pháp cụ thể nhằm sửa đổi, bổ
sung và hồn thiện pháp luật.
6. Đóng góp của luận văn
Với tính cách là một trong những cơng trình khoa học (thuộc chuyên ngành luật dân sự)
nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều
chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi đặc biệt là kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa
học pháp lý như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và ứng dụng khái niệm "quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài" đã được pháp luật quy định, tác giả đưa ra khái niệm về quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngồi, kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài. Việc đưa ra các khái niệm
này trong tình hình hiện nay là cần thiết, góp phần quan trọng vào công tác nghiên cứu và giảng
dạy về pháp luật dân sự nói chung, pháp luật hơn nhân và gia đình nói riêng, củng cố cho nền
khoa học pháp lý nước ta, cũng như phục vụ tích cực cho việc sửa đổi Luật Hơn nhân và gia
đình về vấn đề quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi đang diễn ra hiện nay.
Thứ hai, luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật

hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngoài; chắt lọc những quy định về kết hơn có yếu tố nước ngồi của một số nước trên thế giới và
tình hình kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi trong những năm gần đây.
Thứ ba, luận văn đã xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật hơn nhân và
gia đình Việt Nam về kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi cần phải hoàn
thiện, những vướng mắc trong việc thực thi pháp luật cần phải khắc phục và xác định rõ
nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư, Luận văn đã đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 nhằm hồn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về kết hơn
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi. Mặt khác, luận văn cũng đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế bảo đảm thực thi việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu mới của luận văn sẽ là nguồn tư liệu mang tính lý
luận và thực tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể tham khảo góp phần
sửa đổi một số quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về kết hơn giữa cơng dân
Việt Nam với người nước ngồi. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
được dùng làm tư liệu học tập, tài liệu tham khảo, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo luật hoặc
cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm đến quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:

4


Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngồi
Chương 2: Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành

Chương 3: Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong
những năm gần đây và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về
vấn đề này.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN
GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGỒI
1.1. Khái niệm kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
1.1.1. Kết hơn có yếu tố nước ngồi
1.1.1.1. Khái niệm kết hơn
Tại khoản 2 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra khái niệm về kết hơn,
theo đó: "Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn".
Như vậy, kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
kết hôn và đăng ký kết hơn. Kết hơn chính là sự thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về quan hệ vợ chồng của hai người khác giới, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ
đối với nhau.
1.1.1.2. Kết hôn có yếu tố nước ngồi
Luật Hơn nhân và gia đình hiện hành cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định
cụ thể về khái niệm kết hơn có yếu tố nước ngoài. Căn cứ vào khái niệm quan hệ hơn nhân và
gia đình có yếu tố nước ngồi, ta có thể đưa ra khái niệm về kết hơn có yếu tố nước ngồi như
sau:
Kết hơn có yếu tố nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hơn và đăng ký kết hơn, trong đó có ít nhất một bên chủ thể là
người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc việc kết hơn được xác lập
ở nước ngồi và theo pháp luật nước ngồi.
1.1.2. Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài
1.1.2.1. Người nước ngoài
Tại Điều 3 Luật quốc tịch năm 2008 quy định "người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là
cơng dân nước ngồi và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam". Ngoài
ra, tại khoản 1 Điều 9 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP thì "người nước ngồi là người khơng có

quốc tịch Việt Nam, bao gồm cơng dân nước ngồi và người khơng quốc tịch". Theo các quy
định trên thì người nước ngồi cư trú tại Việt Nam có thể là cơng dân nước ngồi hoặc có thể
là người khơng có quốc tịch.
1.1.2.2. Kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
Hiện nay pháp luật thực định Việt Nam cũng như các cơng trình nghiên cứu đều chưa đưa
ra được khái niệm về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.
Trên cơ sở khái niệm về hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi cũng như khái niệm
về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, ta có thể hiểu một cách khái quát về quan hệ kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi như sau:
Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ
vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn, trong đó một
bên là cơng dân Việt Nam và một bên là người nước ngoài.
1.2. Đặc điểm của quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
1.2.1. Đặc điểm chung

5


- Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi chỉ được nhà nước cơng
nhận giữa những người khác nhau về giới tính
- Quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi phải có sự cơng nhận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có giá trị pháp lý
- Việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi phải đảm bảo sự tự nguyện
của hai bên nam nữ và nhằm mục đích xây dựng gia đình
1.2.2. Những đặc điểm đặc thù của quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
- Chủ thể tham gia quan hệ kết hôn bắt buộc một bên phải là công dân Việt Nam và một
bên là người nước ngồi
- Pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
ln là pháp luật Việt Nam và pháp luật nước mà người nước ngồi là cơng dân

- Việc đăng ký kết hơn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam
- Khơng có hiện tượng xung đột pháp luật trong quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngồi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
1.3. Nguyên tắc giải quyết quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi
- Hơn nhân tự nguyện và tiến bộ
- Ngun tắc hôn nhân một vợ một chồng
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi được tơn trọng và được pháp
luật bảo vệ
- Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài
1.4. Ý nghĩa của việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
- Việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn gữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
là u cầu khách quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Việc ghi nhận và cơ chế để đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh quan hệ kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngồi sẽ góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ đó.
- Việc pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn gữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
là cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết các yêu cầu của các bên đương sự và tranh chấp khi
phát sinh liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người
nước ngoài.
- Thể hiện quan hệ hợp tác và tương trợ pháp lý giữa nước ta với các nước khác trên thế
giới, thể hiện tình hữu nghị và hợp tác, giao lưu dân sự quốc tế.
Chương 2
KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM
VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Các điều kiện để việc kết hôn hợp pháp
2.1.1. Điều kiện về tuổi kết hôn
Theo quy định của pháp Việt Nam, về điều kiện tuổi kết hôn, tại khoản 1 Điều 9 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định như sau: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười

tám tuổi trở lên".
Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, cả hai bên đều phải
tuân thủ pháp luật của nước mà mình là cơng dân về điều kiện tuổi kết hôn. Tuy nhiên, nếu
việc kết hôn của họ được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì
theo tinh thần của khoản 1 Điều 103 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, người nước ngoài
ngoài việc phải tuân thủ điều kiện tuổi kết hơn theo pháp luật của nước mà người đó là cơng
dân thì họ vẫn phải tn thủ quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.

6


2.1.2. Điều kiện về sự tự nguyện của hai bên nam và nữ khi kết hôn
Khoản 2 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Việc kết hôn do nam và
nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng
ép hoặc cản trở".
Để việc kết hơn hồn tồn tự nguyện, pháp luật quy định khơng được cưỡng ép kết hôn, lừa
dối kết hôn hoặc cản trở kết hơn, việc kết hơn hồn tồn tự nguyện, tiến bộ. Do vậy, trong
những trường hợp kết hơn mà có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn đều bị coi là kết
hôn trái pháp luật.
2.1.3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Theo quy định tại Điều 10 Luật HN&GĐ 2000, việc kết hôn bị cấm trong các trường hợp
sau:
- Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn với người khác
- Cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hơn
- Cấm kết hơn giữa những người cùng dịng máu về trực hệ; giữa những người có họ
trong phạm vi ba đời
- Cấm kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con
nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng
- Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính

2.1.4. Điều kiện về nghi thức kết hơn
Tại Điều 11 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Việc kết hôn phải được đăng
ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện
theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại
Điều 14 của Luật này đều khơng có giá trị pháp lý". Tại Điều 14 Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000 thì: "Khi tổ chức đăng ký kết hơn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hơn. Đại diện cơ
quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý
kết hơn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên".
Như vậy, về nghi thức kết hơn, có hai trường hợp:
- Đăng ký kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
Nếu việc kết hơn được thực hiện tại Việt Nam thì phải được đăng ký và do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện theo nghi thức quy định của pháp luật Việt Nam.
Nghi thức này là nghi thức dân sự, tức là lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trang trọng tại trụ
sở Sở Tư pháp. Khi tổ chức lễ đăng ký kết hơn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hơn. Đại diện
Sở Tư pháp chủ trì hôn lễ, yêu cầu hai bên cho biết ý định lần cuối về sự tự nguyện kết hôn.
Nếu hai bên đồng ý kết hơn thì đại diện Sở Tư pháp ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn,
yêu cầu từng bên ký tên vào Giấy chứng nhận kết hôn, sổ đăng ký kết hôn và trao cho vợ,
chồng mỗi người 01 bản chính Giấy chứng nhận kết hơn.
- Đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngồi
Trong trường hợp việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam cư trú ở nước ngồi với người
nước ngồi thì Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngồi nơi cư trú của cơng dân Việt
Nam thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại
nước đó (Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP).
2.2. Thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài
2.2.1. Việc đăng ký kết hơn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam
Việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tại khoản 1 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: "Uỷ ban quyền dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện việc
đăng ký kết hơn,… có yếu tố nước ngồi theo quy định của Luật này và các quy định khác của

pháp luật Việt Nam".

7


2.2.2. Việc đăng ký kết hôn được tiến hành tại khu vực biên giới
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định: " Ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn (sau đây gọi là ủy ban nhân dân cấp xã) ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký việc
kết hôn,… giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước
láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam".
2.2.3. Việc đăng ký kết hôn được tiến hành tại Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước
ngồi
Việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi được tiến hành tại nước
ngồi, tuy khơng có quy định cụ thể nhưng theo tinh thần của khoản 2 Điều 102 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 thì: "Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngồi thực hiện việc đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi theo quy định của Luật này, các
quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia, nếu việc đăng ký, giải quyết đó khơng trái với pháp
luật của nước sở tại".
Theo quy định trên thì Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngồi có thẩm quyền đăng
ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngồi ở nước đó, đồng thời có trách nhiệm
bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân Việt Nam ở nước sở tại trong quan hệ kết hơn có
yếu tố nước ngồi nói chung, kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi nói riêng
ở nước sở tại.
2.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kết giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
* Một số giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn
Tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 13 Nghị định số
68/2002/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng ký kết hôn của mỗi bên gồm các giấy tờ như: Tờ khai
đăng ký kết hôn theo mẫu quy định; Giấy xác nhận về tình trạng hơn nhân của mỗi bên; Giấy
xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngồi cấp chưa quá 06

tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ và một số giấy tờ khác.
* Về thủ tục nộp và nhận hồ sơ kết hôn
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP thì khi nộp hồ sơ đăng ký kết
hơn, cả hai bên đương sự phải có mặt. Trong trường hợp có lý do khách quan mà một bên
khơng thể có mặt được thì phải có đơn xin vắng mặt và ủy quyền cho bên kia đến nộp hồ sơ.
Không chấp nhận việc nộp hồ sơ đăng ký kết hơn qua người thứ ba.
* Về trình tự giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trình tự giải quyết việc kết hơn giữa cơng dân
Việt Nam với người nước ngồi nếu được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam có một số điểm khác biệt so với việc kết hôn được tiến hành trước Cơ quan đại
diện của Việt Nam ở nước ngoài, nhưng về cơ bản đều phải có thủ tục phỏng vấn, niêm yết
việc kết hôn, nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ…
* Về tổ chức lễ đăng ký kết hôn
Nếu việc kết hôn giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi được thực hiện tại Việt
Nam thì lễ đăng ký kết hơn được tiến hành theo quy định tại Điều 17 của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP, theo đó: Lễ đăng ký kết hơn được tổ chức trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày
Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hơn, trừ trường hợp có lý do chính
đáng mà đương sự có yêu cầu khác về thời gian, nhưng không quá 90 ngày; hết thời hạn này
mà đương sự mới yêu cầu tổ chức Lễ đăng ký kết hơn thì phải làm lại thủ tục đăng ký kết hơn
từ đầu.
Chương 3
THỰC TRẠNG KẾT HƠN GIỮA CƠNG DÂN VIỆT NAM
VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NÀY

8


3.1. Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài những năm gần

đây
3.1.1. Một số nét về tình hình kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài
trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của quá trình chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, mở rộng giao lưu, hợp tác nhiều mặt với các nước, quan hệ về hơn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngồi nói chung, quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi nói
riêng ngày càng gia tăng về số lượng và có tính chất, nội dung ngày càng phức tạp.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về tình hình kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi trong những năm gần đây, ta có thể phân tích tình hình kết hơn qua một số nét cơ bản
sau:
- Kết hơn có yếu tố nước ngồi cũng như số lượng công dân Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài tăng dần qua các năm
- Chủ yếu là nữ công dân Việt Nam tham gia trong quan hệ kết hơn với người nước ngồi
- Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi diễn ra khơng đồng đều giữa các
vùng, miền trong cả nước, tập trung chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long
- Công dân Việt Nam chủ yếu kết hôn với công dân các nước Đài Loan, Hàn Quốc
Sở dĩ hiện tượng lấy chồng nước ngoài, kết hơn với người nước ngồi của cơng dân Việt
Nam hiện nay trở thành một trào lưu, số lượng các trường hợp kết hôn ngày càng nhiều là do
một số nguyên nhân sau:
* Nguyên nhân khách quan: Nhìn chung sự gia tăng các quan hệ kết hôn giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong xu thế
hội nhập. Sự mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam với các nước
trên thế giới là cơ hội để nhiều người nước ngồi đến Việt Nam học tập, cơng tác cũng như cơng
dân Việt Nam ra nước ngồi gặp gỡ, giao lưu, tìm hiểu nhau…
Do đời sống kinh tế tại nhiều khu vực nơng thơn cịn khó khăn, lao động thành niên
khơng có việc làm, bên cạnh đó là mạng lưới mơi giới hôn nhân bất hợp pháp hoạt động rất
tinh vi đã dụ dỗ, lôi kéo nhiều cô gái, nhất là các cơ ở vùng nơng thơn lấy chồng nước ngồi.
* Nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của nhiều người dân, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng
xa về vấn đề kết hơn với người nước ngồi cịn rất hạn chế. Nhiều bậc cha mẹ, nhiều cô gái thiếu

các thông tin về pháp luật Việt Nam, không nắm được pháp luật của nước nơi mình đến kết hơn,
khơng có điều kiện tìm hiểu phong tục, văn hóa của họ và không nhận thức được các hệ lụy của
kết hôn thông qua môi giới hôn nhân nên đã đồng ý hoặc ép gả con mình lấy chồng nước ngồi.
Thậm chí nhiều cơ gái cịn suy nghĩ rằng mình kết hơn với người nước ngồi thì bố mẹ mình sẽ
được một khoản tiền và họ coi rằng đây là một cách trả hiếu cho bố mẹ, giúp gia đình bớt nghèo...
3.1.2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh và hoạt động của các cơ quan liên quan đảm
bảo thực thi việc kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi
3.1.2.1. Thực trạng về pháp luật điều chỉnh
* Việc áp dụng pháp luật xác định điều kiện kết hôn
Nếu kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân của nước đã ký kết điều ước quốc tế
về vấn đề này (Hiệp định tương trợ tư pháp) với Việt Nam thì việc xác định điều kiện kết hôn
căn cứ theo các quy định trong Hiệp định. Theo tinh thần chung của các Hiệp định là điều
kiện kết hôn được xác định theo pháp luật của nước mà hai người là công dân, do đó, các bên
phải tn theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn.
Nếu kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân của nước chưa ký kết điều ước quốc tế
về vấn đề này với Việt Nam thì việc xác định điều kiện kết hơn căn cứ theo Điều 103 Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2000. Trong trường hợp này, điều kiện kết hôn của công dân Việt
Nam được xác định theo Điều 9, Điều 10 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với người nước ngồi, khi họ kết hơn với cơng dân nước ta
thì điều kiện kết hôn của họ sẽ được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là cơng dân.

9


* Việc áp dụng pháp luật về đăng ký kết hơn
Về thẩm quyền, trình tự thủ tục đặng ký kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi, pháp luật Việt Nam đã có quy định trong các văn bản pháp luật có giá trị quan trọng
như Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000; Nghị định số 68/2002/NĐ-CP; Nghị định số
69/2006/NĐ-CP, thơng tư số 07/2002/TT… đã góp phần quản lý có hiệu quả tình trạng kết
hơn có yếu tố nước ngồi giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài.

3.1.2.2. Thực trạng hoạt động của các cơ quan liên quan bảo đảm thực thi việc kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
Thực tế giải quyết kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong những
năm qua bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Các Sở Tư pháp đã tăng cường
thắt chặt kỷ cương trong công tác giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài. Việc tiếp nhận hồ sơ được thực hiện thơng qua cơ chế hành chính một
cửa. Q trình giải quyết hồ sơ đăng ký kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi cơng khai, minh bạch hóa, có cải tiến lớn trong lề lối làm việc; có sự phối kết hợp đồng
bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc giải quyết hồ sơ. Từ khâu tiếp nhận, thẩm
tra, xác minh đến khâu trình Ủy ban nhân dân tỉnh ký được thực hiện chặt chẽ theo đúng trình
tự, thủ tục luật định. Biện pháp phỏng vấn được các cơ quan áp dụng nghiêm túc, khi tiến hành
phỏng vấn, cơ quan tư pháp đã tham mưu và trình Ủy ban nhân dân tỉnh khơng cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn cho nhiều trường hợp không đủ các điều kiện kết hôn. Việc làm này đã góp
phần loại bỏ khơng ít trường hợp kết hôn giả tạo, kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp, lợi
dụng kết hôn để trục lợi, v.v…
Từ năm 2003 Hội liên hiệp phụ nữ các tỉnh thành trong cả nước đã tích cực chuẩn bị cho việc
thành lập các trung tâm hỗ trợ kết hôn thuộc địa bàn tỉnh mình. Các trung tâm này đi vào hoạt
động và bước đầu đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng hầu hết hoạt động của các trung
tâm này chỉ mang tính hình thức, chưa phát huy được hết vai trị của mình..
3.1.3. Một số vướng mắc liên quan đến việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngồi
Thứ nhất, việc cơng dân Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng kết hơn với
người nước ngồi có xu hướng tăng, tuy nhiên, ngày càng có nhiều phụ nữ Việt Nam kết hơn
với người nước ngồi nhưng khơng vì mục đích hơn nhân và khơng xuất phát từ tình u nam
nữ trên cơ sở hơn nhân tự nguyện, tiến bộ (mà ở đây tập trung chủ yếu là kết hơn với nam giới
Đài Loan, hiện nay có xu hướng mở rộng với cả nam giới Hàn Quốc), điều này đã làm nảy
sinh nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân Việt Nam đặc biệt là người phụ nữ
Việt Nam.
Thứ hai, vẫn cịn khơng ít trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngồi
thơng qua hoạt động mơi giới bất hợp pháp. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên nam, nữ trước

khi kết hôn hết sức hạn chế, khiến hàng ngàn phụ nữ Việt sau khi kết hơn lâm vào hồn cảnh
khó khăn, trớ trêu dẫn đến hơn nhân tan vỡ.
Thứ ba, tình trạng lợi dụng kết hơn với người nước ngoài để thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ tư, về pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài. Giải quyết được vướng mắc này có ý nghĩa quyết định trong việc lành mạnh hóa quan hệ
kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài trong thời gian tới. Thực tế hiện nay pháp
luật điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi có một số
vướng mắc như việc áp dụng pháp luật nước ngoài còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, hoạt động hỗ trợ kết hơn của các Trung tâm hỗ trợ kết hơn cịn chưa tương
xứng với vai trò và đòi hỏi của xã hội. Điều này cũng làm giảm sự lành mạnh hóa của các
quan hệ kết hơn với người nước ngồi của cơng dân Việt Nam.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài

10


Thứ nhất, bổ sung các quy định về điều kiện kết hôn
- Hiện nay pháp luật chỉ quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu, không quy định độ tuổi kết
hôn tối đa trong quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Điều này
đang ảnh hưởng trực tiếp tới đạo đức, truyền thống văn hóa của người Việt Nam… Nhằm loại
bỏ kết hôn không lành mạnh, kết hơn khơng vì mục đích hơn nhân, đảm bảo thuần phong mỹ
tục và văn hóa của người Việt Nam, chúng tôi đề xuất pháp luật Việt Nam nên quy định độ
tuổi chênh lệch tối đa giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài xin đăng ký kết hôn tối
đa là 20 tuổi.
- Để bảo đảm quy định về việc xác định điều kiện sức khỏe của các bên khi kết hôn trong
trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo khoản 2 Điều 10 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000 được thực hiện có hiệu quả, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên

cứu để bổ sung chi tiết các thủ tục để xác định người mất năng lực hành vi dân sự, bổ sung các
giấy tờ sức khỏe cần thiết (không mắc bệnh tâm thần, HIV…) khi kết hôn.
- Pháp luật cần quy định thêm về điều kiện ngôn ngữ và mức độ hiểu biết tối thiểu về
hoàn cảnh gia đình, văn hóa và pháp luật của nhau. Về vấn đề này, pháp luật nên quy định cơ
quan có thẩm quyền phải kiểm tra hai bên nam nữ có nói và hiểu được tiếng của một trong hai
bên không hoặc nếu khơng thì họ có thể cùng nói và hiểu được ngôn ngữ thứ ba không. Nếu
hai bên nam nữ khơng đáp ứng được điều kiện này thì tạm thời chúng ta chưa đăng ký kết hôn
cho họ.
Thứ hai, sửa đổi và bổ sung một số quy định về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành các quy tắc làm việc cũng như trình tự,
nội dung thực hiện các cuộc phỏng vấn để các địa phương áp dụng thống nhất, đảm bảo khoa
học và yêu cầu của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác thi hành pháp luật.
- Để tránh gây khó khăn, phiền hà, lãng phí cho cơng dân, pháp luật nên sửa lại quy định
này theo hướng thay đổi quy định từ 02 bộ hồ sơ xuống còn 01 bộ hồ sơ, gửi trực tiếp tại bộ
phận Hộ tịch của Sở Tư pháp.
- Quy định thời hạn cho thật phù hợp theo hướng giảm thời hạn giải quyết việc đăng ký
kết hôn từ 30 ngày xuống còn 20 ngày, 20 ngày gia hạn xuống cịn 10 ngày để đảm bảo quyền
và lợi ích của đương sự đồng thời đảm bảo việc giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng,
tránh tốn kém thời gian, tài chính cho đương sự.
3.2.2. Đảm bảo hoạt động có hiệu quả của các cơ quan có liên quan trong việc thi hành
pháp luật về kết hơn có giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài
- Các cơ quan hữu quan cần đẩy mạnh công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi.
- Các cơ quan, tổ chức cần có sự phối kết hợp với nhau nhằm nâng cao năng lực tổ chức,
thực hiện pháp luật hơn nhân và gia đình về quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với
người nước ngồi
- Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền
- Phát huy vai trị của các tổ chức, đồn thể, nhất là Hội phụ nữ đặc biệt là các Trung tâm
hỗ trợ kết hôn trong việc tư vấn, hỗ trợ các chị em phụ nữ khi họ muốn kết hôn với người

nước ngồi.
- Nâng cao năng lực cơng tác của các cán bộ chuyên môn
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật của người dân đối với việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi.
KẾT LUẬN
Kết hơn có yếu tố nước ngồi là một trong những quan hệ xã hội phổ biến trong quá trình
hợp tác, giao lưu dân sự giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau. Ở bất kỳ quốc gia nào.
Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi là một quan hệ xã hội tuy khơng mới
nhưng có nhiều điểm đặc thù, liên quan nhiều đến các quan hệ xã hội khác, là cơ sở để phát

11


sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con cái. Không
những thế, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi cịn ảnh hưởng tới
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới, do vậy, cùng với quá trình
mở rộng hội nhập quốc tế và khu vực, quan hệ này đã được ghi nhận như một chế định quan
trọng và cơ bản của Luật Hơn nhân và gia đình.
Kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ
chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn, trong đó một bên là
cơng dân Việt Nam và một bên là người nước ngoài. Quan hệ này vừa có những điểm chung của
quan hệ kết hơn, vừa có các đặc điểm đặc thù thể hiện bản chất của nó. Bên cạnh đó, việc pháp luật
ghi nhận quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của
quan hệ này, từ đó là cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
các yêu cầu của đương sự và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này; thể hiện tinh thần hợp tác và
tương trợ pháp lý giữa nước ta với các nước khác trên thế giới, thể hiện tình hữu nghị hợp tác,
giao lưu dân sự quốc tế đồng thời là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm quyền và lợi ích của các
đương sự khi tham gia các quan hệ đó.
Trong những năm gần đây, việc pháp luật ghi nhận và có cơ chế đảm bảo thực hiện nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật về quan hệ kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước

ngồi đã tạo hành lang pháp lý cho quan hệ này phát triển, thể hiện rõ nét sự hội nhập sâu, rộng
của công dân Việt Nam vào đời sống quốc tế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, thấy rằng bên cạnh
những mặt đã đạt được, kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cũng bộc lộ
những hạn chế và hệ lụy của nó, ảnh hưởng xấu tới đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc, tới hình ảnh của dân tộc Việt Nam trước bạn bè thế giới. Không những thế, hệ lụy của
quan hệ này còn xâm phạm nghiêm trọng tới danh dự, nhân phẩm của công dân Việt Nam đặc
biệt là người phụ nữ Việt Nam khi về làm dâu xứ người. Nguyên nhân nảy sinh những hệ lụy
của quan hệ này xuất phát từ nhiều phía, cả khách quan lẫn chủ quan nhưng trong đó sự hạn chế
của pháp luật, sự yếu kém của các thiết chế đảm bảo thực thi pháp luật của quan hệ này đóng
vai trị khơng nhỏ. Do vậy, nghiên cứu một số vấn đề lý luận cũng như thực trạng quan hệ kết
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi trong một vài năm gần đây để từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng như hoạt động của các
thiết chế đối với vấn đề này là hết sức cần thiết nhằm lành mạnh hóa, hạn chế tiêu cực nảy sinh
từ quan hệ đặc thù này. Đây cũng là hoạt động cần thiết góp phần thực hiện thành cơng chiến
lực cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần của Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị.
Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngồi bao gồm: phân tích và đưa ra khái niệm về kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài; đặc điểm; nguyên tắc giải quyết và ý nghĩa của việc
pháp luật ghi nhận quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi; đặc biệt
luận văn đã đi sâu phân tích các quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và các văn
bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với các quy định hiện
hành của pháp luật một số nước về vấn đề liên quan. Luận văn cũng đi nghiên cứu và đánh giá
về tình hình kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi của một số tỉnh, thành phố
cũng như cả nước trong một vài năm gần đây; làm rõ được những thành tựu cũng như một số
vấn đề tồn tại của quan hệ kết hơn với người nước ngồi của cơng dân Việt Nam, lý giải được
nguyên nhân của những tồn tại đó. Từ đó, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng như các thiết chế đảm bảo cho quan hệ này phát triển
lành mạnh, bền vững trong tương lai, vừa đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự đồng thời
góp phần khơng ngừng mở rộng hợp tác giao lưu dân sự giữa nước ta với các nước khác.
References

1. Ph. Ăngghen (1884), Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
2. Nơng Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc (2006), Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

12


3. Huỳnh Thị Bé (2011), "Vài suy nghĩ về việc kết hơn có yếu tố nước ngồi",
www.tiengiang.gov.vn.
4. Bộ Tư pháp (2002), Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12 hướng dẫn một số điều của
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2003), Báo cáo tình hình kết hơn có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam từ năm
1995 đến năm 2002, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2003), Báo cáo sơ bộ về tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Đài
Loan từ năm 1995 đến 6 tháng đầu năm 2003, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2005), Báo cáo hành chính về việc tiến hành thực hiện dự án điều tra cơ bản tình
hình phụ nữ Việt Nam kết hơn với người nước ngồi, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2006), Báo cáo tóm tắt tình hình kết hơn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ơng
Hàn Quốc, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2006), Bình luận khoa học luật hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp (2010), Báo cáo tổng kết công tác tư pháp từ năm 2007 đến năm 2010, Hà
Nội.
11. "Chỉ 7 cuộc hơn nhân với người nước ngồi do u" (2011), www.phapluatvn.vn.
12. Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngồi, Hà Nội.
13. Chính phủ (2005), Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg ngày 25/02 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi,

Hà Nội.
14. Chính phủ (2005), Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an tồn xã hội, Hà Nội.
15. Chính phủ (2006), Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7 sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 76/2006/NĐ/CP ngày 02/8 quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.
17. Đỗ Văn Chỉnh (2011), "Kết hơn có yếu tố nước ngồi và thực tiễn áp dụng", Tòa án nhân
dân, (1), tr. 29-32.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Thu Hiền (2009), "Tản mạn về mùa xuân và gia đình", Báo Phụ nữ Việt Nam, ngày 8/1.
21. Lê Hoa (2007), "Giải pháp nhằm lành mạnh hóa quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi", Dân chủ và pháp luật, (182), tr. 12-15.
22. "Hỗ trợ kết hôn không phải là treo ảnh" (2009), www.baomoi.com.
23. Nguyễn Thị Hương (2006), Pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.

13


24. Ngơ Thị Hường (2010), Giáo trình luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
25. Nguyễn Công Khanh (2002), Hỏi đáp pháp luật về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngồi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
26. "Khắc phục tình trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam cần nhiều giải pháp đồng bộ"

(2007), www.baomoi.com.
27. Đỗ Thị Kiều Ngân (2009), Thực trạng kết hơn có yếu tố nước ngồi và một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam hiện nay, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học luật Hà Nội.
28. Nguyễn Huệ Nguyệt (2010), "Thực trạng và vướng mắc về hôn nhân có yếu tố nước
ngồi tại thành phố Hồ Chí Minh", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23/5.
29. "Những nước nào cho phép hôn nhân đồng giới" (2011), www.ics.org.vn.
30. "Phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngồi giảm" (2010), www.vietbao.vn.
31. Quốc hội (1986), Luật Hơn nhân và gia đình, Hà Nội.
32. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
33. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
34. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
35. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
36. Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng (2008). Thống kê tư pháp năm 2008, Hải Phòng.
37. Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Báo cáo tình hình phụ nữ Việt Nam lấy
chồng Đài Loan, Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo tình hình kết hơn có yếu tố nước
ngồi tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2003 đến năm 2008, Thành phố Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Văn Thắng (2008), "Thực trạng về việc phỏng vấn trong kết hơn với người nước
ngồi hiện nay", Dân chủ và pháp luật, (3), tr. 30-32.
40. Văn Thế Thiện (2011), "Tây Ninh: "Siết" hơn nhân có yếu tố nước ngồi",
Tayninh.vn/newsdetails.aspx?id=203&newsid=23584.
41. Ngơ Văn Thìn (2009), "Một số vướng mắc liên quan đến việc đăng ký kết hơn có yếu tố
nước ngồi", Dân chủ và pháp luật, (7), tr. 61-64.
42. Ngơ Văn Thìn (2010), "Một số vướng mắc đối với việc ghi chú kết hơn có yếu tố nước
ngồi", Dân chủ và pháp luật, (9), tr. 51-57.
43. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23/12 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình 2000, Hà Nội.
44. Nguyễn Đình Tồn (2010), "Đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi tại một xã biên giới

của tỉnh Sơn La", Dân chủ và pháp luật, (1), tr.37-40
45. Tổng lãnh sự quán Hàn Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Thống kê tình hình
cơng dân Hàn Quốc kết hôn với công dân Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Thu Trang (2011), "Hơn nhân có yếu tố nước ngồi, "cị" lách luật để lừa đảo", Lao động
thủ đô cuối tuần, (111), tr. 13.
47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội.
48. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14


49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội.
50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh số 28-L/CTN ngày 02/12 về hôn nhân và
gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, Hà Nội.
52. Vilayvong Senebouttarat (2008), Vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
53. Vithanha Inthivixay (2010), Quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Lào
theo quy định của pháp luật Việt Nam và Lào, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.

15



×