1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NGỌC MAI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình
HÀ NỘI - 2013
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Ngọc Mai
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
6
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
6
1.1.1.
Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
6
1.1.2.
Các đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
11
1.2.
Ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
19
1.3.
Khái quát sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng Việt
Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự từ năm 1945
đến nay
23
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
23
1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988
25
1.2.3.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2003
27
1.2.4.
Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
31
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ NĂM 2004 VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ
34
2.1.
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
34
2.2.
Các công việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
37
5
2.2.1.
Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự
37
2.2.2.
Thông báo thụ lý vụ án dân sự
39
2.2.3.
Lập hồ sơ vụ án dân sự
42
2.2.4.
Nghiên cứu chứng cứ trong hồ sơ vụ án dân sự
49
2.2.5.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử
59
2.2.6.
Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu
60
2.2.7.
Thực hiện các hoạt động nghiệp vụ khác
61
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004 VỀ CHUẨN BỊ
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
67
3.1.
Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
67
3.1.1.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
67
3.1.2.
Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
69
3.2.
Các yêu cầu và kiến nghị hoàn thiện, thực hiện các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự
76
3.2.1.
Các yêu cầu của việc hoàn thiện và thực hiện Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 về chuẩn bị xét xử vụ án dân sự
76
3.2.2.
Các kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
78
3.2.3.
Các kiến nghị thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
81
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
CBXXST
: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
VADS
: Vụ án dân sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Để tạo hành lang pháp lý cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng dân sự (TTDS), đáp ứng yêu
cầu của việc giải quyết các vụ việc dân sự trong điều kiện mới và quán triệt
chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp
ở nước ta, tại kỳ họp thứ 5, ngày 15/06/ 2004 Quốc hội khoá XI đã thông qua
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS). BLTTDS đã pháp điển hóa và
thống nhất ba loại hình tố tụng được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải
quyết vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm
1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996. Tuy
nhiên, khi triển khai thi hành Bộ luật này cho thấy nhiều quy định còn bất cập
như có vấn đề quy định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng dẫn đến những cách hiểu
khác nhau, áp dụng tại các Tòa án không thống nhất; có những quy định mâu
thuẫn với các quy định của các văn bản pháp luật khác, chưa phù hợp với thực
tế, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự v.v… Nhằm khắc
phục những bất cập này, tại kỳ họp thứ 9, ngày 29/03/2011 Quốc hội khóa XII
đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS. Việc Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLTTDS được ban hành đã làm cho hệ thống
pháp luật TTDS Việt Nam được hoàn thiện hơn. Tuy vậy, vẫn còn nhiều quy
định của BLTTDS bất cập chưa được sửa đổi, bổ sung, trong đó có cả các quy
định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm (CBXXST) vụ án dân sự (VADS). Vì vậy, để
thực hiện được mục tiêu chiến lược của cải cách tư pháp là "hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [4] thì phải tiếp tục nghiên cứu
làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp luật TTDS hiện
hành và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án để phát hiện những bất cập,
mâu thuẫn, tìm ra các giải pháp hoàn thiện và thực hiện chúng. Với các lý do
8
đó, tôi đã chọn đề tài: "Một số vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004" nghiên cứu luận văn
thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước và sau khi BLTTDS được ban hành đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học pháp lý có nghiên cứu những vấn đề liên quan đến CBXXST
VADS. Trước khi BLTTDS được ban hành, có đề tài cấp Bộ "Một số vấn đề
về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự", do
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; đề tài cấp Bộ "Những
quan điểm cơ bản về Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam", do Viện Nhà nước và
Pháp luật của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện năm 2002; đề tài cấp
cơ sở "Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án
dân sự thực trạng và giải pháp", do Viện Khoa học xét xử của TANDTC thực
hiện năm 2002; luận văn Thạc sĩ luật học "Thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Đoàn Đức Lương,
bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999; luận văn Thạc sĩ luật học
"Về việc cung cấp và thu thập chứng cứ trong giai đoạn giải quyết vụ kiện
dân sự theo thủ tục sơ thẩm", của Nguyễn Minh Hằng, bảo vệ tại Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2003, bài "Xác định địa vị tố tụng của đương sự và
đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự", của Nguyễn Thế Giai, đăng trên Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000 v.v… Nhưng do các đề tài này được thực
hiện trước khi có BLTTDS nên đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các quy định
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết VADS và thực tiễn thực hiện chúng. Sau khi
BLTTDS được ban hành, có đề tài cấp Bộ "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay", do Viện Nhà nước và Pháp
luật của Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện năm 2010; luận án Tiến sĩ
luật học "Giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ án kinh tế theo pháp luật Việt
Nam", của Đoàn Đức Lương, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật năm
2006; bài "Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong pháp luật
9
tố tụng dân sự Việt Nam", của Tưởng Duy Lượng, cho Hội thảo: "Bộ luật tố tụng
dân sự - Những điểm mới và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành", Học
viện Tư pháp tổ chức tại Hà Nội ngày 25/12/2004 v.v… Tuy nhiên, do mục
đích nghiên cứu các công trình này chưa đề cập một cách đầy đủ và hệ thống
các vấn đề liên quan đến CBXXST VADS, mới chỉ nghiên cứu và đề xuất
tháo gỡ một số vấn đề bất cập riêng lẻ của CBXXST VADS, nhiều vấn đề có
ý nghĩa quan trọng đối với CBXXST VADS vẫn chưa nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ được các vấn đề về
CBXXST VADS theo quy định của BLTTDS, từ đó phát hiện được những
hạn chế, bất cập trong các quy định của BLTTDS về CBXXST VADS, những
tồn tại trong việc thực hiện chúng tại các Tòa án và tìm ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chúng trên thực tế.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài luận văn
có những nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận các quy định của BLTTDS về
CBXXST VADS;
- Nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của BLTTDS, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về
CBXXST VADS;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về
CBXXST VADS của các Tòa án trong những năm gần đây.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về CBXXST
VADS, các quy định của BLTTDS, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành về CBXXST VADS cũng như
thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án nhân dân (TAND) các cấp.
10
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS là một vấn đề cơ bản và quan trọng
của TTDS nên đề tài có nội dung nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, do giới hạn của
đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào
những vấn đề lý luận cơ bản của CBXXST VADS như: khái niệm CBXXST
VADS; ý nghĩa CBXXST VADS; sự phát triển các quy định của pháp luật TTDS
Việt Nam về CBXXST VADS; nội dung các quy định cơ bản của BLTTDS và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS về thời hạn CBXXST VADS;
việc thông báo việc thụ lý VADS; lập hồ sơ VADS; quyết định đưa VADS ra
xét xử và chuyển hồ sơ VADS cho Viện kiểm sát (VKS) nghiên cứu v.v…
Những vấn đề khác như: hòa giải VADS; quyết định tạm đình chỉ VADS,
quyết định đình chỉ giải quyết VADS, quyết định áp dụng, thay đổi và hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời v.v… tuy được thực hiện trong thời gian CBXXST
VADS nhưng không có ý nghĩa trực tiếp tạo các điều kiện cần thiết cho việc xét
xử VADS tại phiên tòa sơ thẩm nên không được nghiên cứu trong đề tài này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành truyền thống như phương pháp lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh và tổng hợp. Ngoài ra, phương pháp
thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành việc nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có hệ thống
các vấn đề về CBXXST VADS theo quy định của BLTTDS. Ý nghĩa khoa học
của việc nghiên cứu đề tài luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
11
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về CBXXST VADS như khái niệm, ý
nghĩa của CBXXST VADS, sự phát triển các quy định của pháp luật TTDS
Việt Nam về chuẩn bị xét xử VADS;
- Làm rõ được nội dung các quy định của BLTTDS và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của BLTTDS về CBXXST VADS;
- Phát hiện được những hạn chế, bất cập trong các quy định của BLTTDS
và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS về CBXXST VADS;
- Tìm được các giải pháp hoàn thiện và thực hiện các quy định của
BLTTDS về CBXXST VADS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và kiến nghị.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, "sơ thẩm" là từ ghép của hai từ "sơ" và
"thẩm". "Sơ" có nghĩa là "đầu", "thẩm" có nghĩa là "xét xử". Cho nên, hiểu
theo nghĩa chung nhất "sơ thẩm" là xét xử lần đầu vụ việc [50].
Ở Việt Nam, trước khi ban hành BLTTDS không có khái niệm vụ việc
dân sự mà chỉ có khái niệm VADS. Khái niệm VADS dùng để chỉ những tranh
chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa hẹp và những
tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Từ
khi BLTTDS được ban hành đã thống nhất ba loại thủ tục TTDS, tố tụng kinh
tế, tố tụng lao động thành thủ tục TTDS và các loại việc được giải quyết tại
Tòa án theo thủ tục TTDS là vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 1
BLTTDS thì vụ việc dân sự bao gồm VADS và việc dân sự, trong đó VADS là
những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và
lao động được Tòa án thụ lý, giải quyết theo quy định tại các điều 25, 27, 29
và 31 BLTTDS; việc dân sự là những yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại và lao động được theo quy định tại các điều 26,
28, 30 và 32 BLTTDS. Như vậy, VADS là những tranh chấp dân sự phát sinh
từ quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng được Tòa án thụ lý, giải quyết
theo thủ tục TTDS. Do đó, theo nghĩa chung nhất sơ thẩm VADS là việc Tòa
án xét xử lần đầu vụ án dân sự [10]. Ở các góc độ khác nhau, sơ thẩm VADS
có thể hiểu là một thủ tục TTDS, một giai đoạn của TTDS hoặc một chế định
của pháp luật TTDS. Dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng, sơ thẩm VADS là
13
khâu đầu tiên của quá trình xét xử VADS. Dưới góc độ là một thủ tục TTDS,
sơ thẩm là cách thức, trình tự giải quyết VADS lần đầu của Tòa án. Dưới góc
độ là một chế định của pháp luật TTDS, sơ thẩm dân sự được hiểu là một bộ
phận của pháp luật TTDS, là tổng hợp các quy phạm pháp luật TTDS về nguyên
tắc, thủ tục xét xử lần đầu VADS; về quyền, nghĩa vụ của Tòa án, các bên
đương sự và những chủ thể khác tham gia vào việc xét xử VADS.
Thủ tục sơ thẩm VADS bao gồm nhiều thủ tục khác nhau như khởi
kiện, thụ lý, CBXXST VADS và phiên tòa sơ thẩm VADS. Khởi kiện VADS
là thủ tục đầu tiên của TTDS, trong đó người có quyền, lợi ích hợp pháp bị
xâm hại hoặc được pháp luật quy định yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hay lợi ích công cộng, lợi
ích của Nhà nước. Tiếp theo khởi kiện VADS là việc thụ lý VADS của Tòa án,
trong đó Tòa án xem xét các điều kiện để giải quyết VADS và ghi nhận trách
nhiệm của mình đối với việc giải quyết VADS. Khởi kiện và thụ lý VADS là
tiền đề cho các thủ tục tố tụng tiếp theo. Kể từ thời điểm thụ lý VADS sẽ phát
sinh quyền, nghĩa vụ của Tòa án trong việc giải quyết VADS. Và để giải quyết
VADS tại phiên tòa sơ thẩm có hiệu quả Tòa án phải tiến hành CBXXST VADS.
Để giải quyết toàn diện, triệt để và đúng đắn VADS, trong tất cả các
VADS một mặt Tòa án phải xác định đúng được các yêu cầu của đương sự,
bao gồm yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, yêu cầu phản tố của Bị đơn và
yêu cầu của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; trên cơ sở đó, Tòa án xác
định đúng, đầy đủ các quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong
VADS, thành phần đương sự và tư cách tham gia tố tụng của đương sự trong
VADS. Mặt khác, Tòa án cũng phải có đầy đủ các chứng cứ, tài liệu để làm
sáng tỏ các tình tiết, sự kiện liên quan đến VADS.
Trong TTDS, đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung
tranh chấp, là người đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết và việc giải quyết
VADS liên quan đến quyền, lợi ích của chính họ nên đương sự là chủ thể có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án. Do đó, khi đưa ra yêu cầu hay phản
14
đối yêu cầu của người khác thì đương sự đã phải cung cấp chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình hay phản bác yêu cầu của người khác. Khi nhận
đơn khởi kiện hay tiếp nhận yêu cầu, sự phản đối yêu của đương sự, Tòa án
phải kiểm tra xem đương sự đã cung cấp đủ chứng cứ, tài liệu chứng minh
cho yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của họ chưa, nếu thiếu thì yêu cầu họ bổ
sung. Trên thực tế, không phải bao giờ các đương sự cũng cung cấp đủ chứng
cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu, sự phản đối yêu cầu của họ. Vì vậy, xuất
phát từ yêu cầu của việc giải quyết VADS và tình hình thực tế tham gia tố
tụng của đương sự nên pháp luật của các nước đều quy định về vai trò của
Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ ở các mức độ khác nhau.
Trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật chủ yếu là hệ thống pháp
luật án lệ (comman law) và hệ thống pháp luật châu âu lục địa (continental
law hoặc civil law). Thủ tục tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự được pháp
luật các nước quy định có những điểm khác nhau cơ bản nhưng đều quy định
những yêu cầu và các công việc Tòa án phải tiến hành trước khi mở phiên tòa
để bảo đảm các điều kiện cho việc xét xử tại phiên tòa có hiệu quả. Ở những
nước theo loại hình tố tụng tranh tụng thì đề cao vai trò của các bên đương sự
nên việc thu thập chứng cứ do chính các bên thực hiện hoặc luật sư của họ
thực hiện, Toà án chỉ trợ giúp thông qua việc buộc bên kia phải trả lời, phải
tuyên hiện đối chất, đưa ra các tài liệu để làm sáng tỏ nội dung vụ việc. Việc
Tòa án tiến hành các công việc trước khi mở phiên tòa chỉ nhằm kiểm tra,
thống nhất các chứng cứ, tài liệu được xem xét, đánh giá, sử dụng tại phiên
tòa. Chẳng hạn, theo pháp luật TTDS của Mỹ thì trước khi mở phiên tòa, theo
lệnh của Thẩm phán, các bên đương sự phải cùng gặp nhau tại Tòa án để
thống nhất những tài liệu nào được coi là chứng cứ, những tài liệu nào được
một bên coi là chứng cứ hoặc những tài liệu nào được các bên coi là chứng cứ
để Tòa án đưa ra trong vụ kiện. Ở những nước theo loại hình tố tụng xét hỏi,
thì đề cao vai trò của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ việc nên Thẩm phán
15
có quyền chủ động quyết định áp dụng mọi biện pháp thu thập chứng cứ pháp
luật cho phép. Chẳng hạn, theo pháp luật TTDS của Pháp thì trước khi mở
phiên tòa, Thẩm phán có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ. Tuy
vậy, các bên đương sự vẫn có nghĩa vụ giúp Thẩm phán thực hiện các biện
pháp thu thập chứng cứ và phải chịu mọi hậu quả trong trường hợp không
giúp đỡ hoặc từ chối giúp đỡ.
Ở Việt Nam, trước khi ban hành BLTTDS, về nguyên tắc các đương
sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và Tòa án có quyền thu thập chứng cứ
trong những trường hợp cần thiết, nên trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án
có quyền chủ động thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ. BLTTDS ra
đời, với xu hướng đề cao vai trò chứng minh của đương sự nên Điều 85
BLTTDS quy định Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ trong trường
hợp đương sự không thể tự thu thập được chứng cứ và có đơn yêu cầu hoặc
các trường hợp do pháp luật quy định. Sau một thời gian thực hiện, quy định
về vấn đề này của BLTTDS đã được Khoản 18 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLTTDS sửa đổi theo hướng giao quyền chủ động thu thập
chứng cứ hơn của Tòa án như:
1. Trong trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu
cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. 2. Trong các trường
hợp do Bộ luật này quy định, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc
một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ [26].
Như vậy, trước khi đưa VADS ra xét xử tại phiên tòa thì Tòa án phải
tiến hành các hoạt động tố tụng như nghiên cứu đơn khởi kiện và các chứng cứ,
tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện, đánh giá sơ bộ các chứng cứ, tài liệu gửi
kèm theo đơn khởi kiện, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án cần
được giải quyết, xác định thành phần đương sự, yêu cầu đương sự bổ sung
chứng cứ, tài liệu lập hoặc thu thập chứng cứ, tài liệu v.v… để chuẩn bị các
16
điều kiện cần thiết cho việc xét xử VADS tại phiên tòa. Ngoài ra, để việc tiến
hành phiên tòa có hiệu quả, khi đã có đủ các điều kiện mở phiên tòa Tòa án còn
ra quyết định đưa VADS ra xét xử, triệu tập những người tham gia phiên tòa
và thực hiện các công việc khác cho việc mở phiên tòa. Trong ngôn ngữ tiếng
Việt, "chuẩn bị" là "làm cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì" [49, tr. 175].
Từ đó, có thể hiểu CBXXST VADS là việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
xét xử sơ thẩm VADS, tạo tiền đề, cơ sở pháp lý vững chắc đảm bảo cho việc
xét xử và ra các phán quyết của Tòa án được khách quan, toàn diện, đúng
pháp luật. Khái niệm CBXXST VADS được nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau:
- Nếu tiếp cận nghiên cứu CBXXST VADS với tính chất là một giai
đoạn của quá trình TTDS thì CBXXST VADS là một giai đoạn tố tụng độc
lập của quá trình giải quyết VADS, trong đó người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phải thực hiện, tiến hành những công việc cần thiết nhằm
làm rõ những sự thật khách quan của vụ án, trong trường hợp các bên đương
sự không hòa giải được với nhau, người khởi kiện không rút đơn khởi kiện thì
Tòa án có thể ra phán quyết về vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên.
- Nếu tiếp cận nghiên cứu CBXXST VADS với tính chất là một thủ
tục TTDS thì CBXXST VADS là một thủ tục TTDS, bao gồm các công việc
Tòa án phải tiến hành vào thời gian trước khi Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm
theo một trình tự do pháp luật TTDS quy định nhằm tạo các điều kiện cần
thiết cho việc mở phiên tòa sơ thẩm.
- Nếu tiếp cận nghiên cứu CBXXST VADS với tính chất là một hoạt
động tố tụng thì CBXXST VADS bao gồm những hoạt động cụ thể do những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tiến hành trên cơ sở quy
định của pháp luật, phù hợp với địa vị tố tụng của họ để đảm bảo cho việc xét
xử VADS theo trình tự sơ thẩm.
17
- Nếu tiếp cận nghiên cứu CBXXST VADS với tính chất là một chế
định pháp luật thì CBXXST VADS là một chế định của pháp luật TTDS, bao
gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa Tòa án với những
người tham gia TTDS phát sinh trong quá trình giải quyết VADS vào thời
gian trước khi Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm.
Dù tiếp cận nghiên cứu CBXXST VADS dưới góc độ nào thì mục đích
của nó vẫn là để bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc tiến hành phiên tòa
sơ thẩm và được tiến hành trước phiên tòa sơ thẩm. Trong khuôn khổ của luận
văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu đề tài của tôi tiếp cận CBXXST VADS
dưới góc độ hoạt động TTDS. Trong đó, hoạt động CBXXST VADS là hoạt
động của Tòa án như hoạt động nghiên cứu chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ
án, yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử, triệu tập người tham gia phiên tòa v.v Từ đó, tôi cho
rằng nếu hiểu khái niệm CBXXST VADS dưới góc độ hoạt động TTDS bao
gồm cả những công việc cụ thể do những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng tiến hành như nêu trên là quá rộng và không chính xác. Vì
vậy, khái niệm CBXXST VADS phải được hiểu như sau: CBXXST VADS là
hoạt động tố tụng do Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành trên cơ sở quy định của
pháp luật tố tụng dân sự nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc xét
xử sơ thẩm vụ án dân sự.
1.1.2. Các đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Khi việc khởi kiện VADS đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện cả
về nội dung và hình thức khởi kiện thì Tòa án sẽ thụ lý VADS. Sau khi thụ lý
VADS thì Tòa án phải tiến hành giải quyết VADS thông qua việc hòa giải
hay xét xử vụ án. CBXXST VADS nhằm tạo những điều kiện cần thiết cho
việc xét xử VADS tại phiên tòa sơ thẩm. CBXXST VADS có các đặc điểm
cơ bản sau:
18
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS có mục đích là nhằm tạo các điều
kiện cần thiết để tiến hành phiên tòa sơ thẩm có hiệu quả.
Để giải quyết VADS tại phiên tòa có hiệu quả thì ít nhất Tòa án cũng
phải nắm vững được nội dung vụ án, pháp luật áp dụng giải quyết vụ án và
những vấn đề khác liên quan đến vụ án. Trong khi đó, Tòa án không phải là
người tham gia vào VADS và pháp luật áp dụng giải quyết mỗi vụ án khác
nhau nên không phải trong trường hợp nào Tòa án cũng có thể nắm vững
được các vấn đề đó. Trong thực tế, nhiều VADS được Tòa án thụ lý giải quyết
rất phức tạp, các quy định của pháp luật áp dụng giải quyết VADS lại không
rõ ràng, nhất quán, ý thức pháp luật của đương sự hạn chế v.v… nên việc xác
minh làm rõ các tình tiết của VADS, áp dụng pháp luật giải quyết VADS, triệu
tập đương sự đến tham gia tố tụng của Tòa án đã gặp không ít khó khăn.
Ngoài ra, do yêu cầu của việc giải quyết VADS phải được tiến hành nhanh
chóng và đúng đắn nên pháp luật quy định việc xét xử phải tiến hành công
khai, trực tiếp, liên tục và bằng lời nói. Vì vậy, Tòa án phải tiến hành các công
việc CBXXST VADS với mục đích nhằm tạo các điều kiện cần thiết để tiến
hành phiên tòa sơ thẩm có hiệu quả.
- CBXXST VADS bao gồm nhiều hoạt động do Tòa án tiến hành trên
cơ sở quy định của pháp luật nhằm mục đích bảo đảm những điều kiện cần
thiết cho việc xét xử VADS tại phiên tòa sơ thẩm.
Trong TTDS, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải
quyết VADS. Để việc xét xử VADS tại phiên tòa sơ thẩm có hiệu quả, thì
trong thời gian CBXXST VADS Tòa án phải tiến hành nhiều hoạt động tố
tụng khác nhau như thông báo việc thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, nghiên cứu
các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, pháp luật áp dụng giải quyết vụ
án, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập các đương sự và những
người tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa v.v… Tất cả các hoạt động này
đều được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật và với mục đích nhằm
bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc xét xử VADS tại phiên tòa sơ thẩm.
19
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS được bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý
VADS và kết thúc khi Tòa án mở phiên tòa xét xử VADS.
Theo quy định của pháp luật TTDS thì thời hạn giải quyết VADS
không phải là vô hạn, trong một thời hạn nhất định Tòa án phải mở phiên tòa
để xét xử vụ án. Vì vậy, để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn vụ án thì
ngay khi thụ lý VADS Tòa án đã phải tiến hành các công việc CBXXST
VADS như nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu do đương sự cung cấp ban đầu
để xác định yêu cầu của đương sự, quan hệ pháp luật cần giải quyết trong vụ
án, thành phần đương sự, các chứng cứ, tài liệu cần thiết cho việc giải quyết
vụ án v.v…Mặt khác, khi phiên tòa sơ thẩm đã mở thì việc xét xử đã được
thực hiện, các hoạt động của Tòa án chỉ tập trung vào việc xét xử vụ án. Do
đó, CBXXST VADS sẽ kết thúc khi Tòa án mở phiên tòa xét xử VADS.
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS có mối liên hệ và là hệ quả của việc
thụ lý vụ án, là tiền đề của việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm.
Khi thụ lý VADS, Tòa án mới có trách nhiệm giải quyết VADS. Vì thế,
CBXXST VADS có mối quan hệ mật thiết với thụ lý VADS và là hệ quả của
việc thụ lý VADS, chỉ được tiến hành sau khi Tòa án đã thụ lý VADS. Đối với
những trường hợp việc khởi kiện không đáp ứng được các điều kiện do pháp
luật quy định không được Tòa án chấp nhận thụ lý, thì Tòa án không có trách
nhiệm giải quyết nên không phải tiến hành các công việc CBXXST VADS.
Để tạo các điều kiện cần thiết để tiến hành xét xử VADS tại phiên tòa
sơ thẩm có hiệu quả thì Tòa án phải tiến hành các công việc CBXXST VADS.
Vì vậy, CBXXST VADS không những chỉ có mối quan hệ với thụ lý VADS
mà còn có mối quan hệ mật thiết với phiên tòa sơ thẩm và là tiền đề của việc
xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm. Theo đó, Tòa án chỉ có thể tiến hành xét
xử VADS tại phiên tòa sau khi đã tiến hành CBXXST VADS.
Ngoài ra, do phiên tòa sơ thẩm dân sự khác với phiên tòa phúc thẩm
dân sự, VADS cũng khác với việc dân sự và vụ án hình sự cho nên CBXXST
20
VADS cũng khác với chuẩn bị xét xử phúc VADS, chuẩn bị phiên họp giải
quyết việc dân sự và chuẩn bị xét xử vụ án hình sự ở các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, khác với chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS trong CBXXST
VADS Tòa án phải lập hồ sơ vụ án.
Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu đối với VADS. Khi xét xử sơ thẩm
Tòa án phải có đầy đủ các chứng cứ, tài liệu để làm rõ các tình tiết của VADS.
Vì vậy, trong quá trình CBXXST VADS Tòa án phải tiến hành lập hồ sơ vụ án.
Trong TTDS, các đương sự là người có quyền lợi liên quan đến vụ án,
biết được các tình tiết liên quan đến vụ án và là người đưa ra yêu cầu cho Tòa
án giải quyết nên họ phải cung cấp cho Tòa án các chứng cứ chứng minh làm
rõ sự thật khách quan vụ án. Trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức đưa
ra yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì họ cũng
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ như đương sự. Mặt khác, trong TTDS, các
đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS. Vì thế, các đương sự cũng
bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, cung cấp chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu của mình hoặc phản bác yêu cầu của đối phương. Để bảo đảm việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự, trong quá trình
CBXXST VADS Tòa án hướng dẫn các bên đương sự thực hiện việc cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Khi các đương sự cung cấp các chứng cứ, tài liệu cho Tòa án thì Tòa án phải
tiếp nhận và lưu vào trong hồ sơ VADS. Trong những trường hợp cần thiết
Tòa án có thể hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ.
Khác với CBXXST VADS, do tính chất của xét xử phúc thẩm là "xét
xử lại vụ án" nên trong chuẩn bị xét xử phúc thẩm Tòa án cấp phúc thẩm
không phải lập hồ sơ vụ án mà chủ yếu căn cứ vào hồ sơ đã được Tòa án cấp
sơ thẩm lập để giải quyết lại vụ án, trường hợp thiếu chứng cứ, tài liệu thì mới
bổ sung. Các hoạt động chuẩn bị xét xử phúc thẩm VADS chỉ tập trung vào
phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị và những phần liên quan
21
đến kháng cáo, kháng nghị. Nếu bản án, quyết định sơ thẩm có căn cứ thì cấp
phúc thẩm y án sơ thẩm, nếu việc xây dựng hồ sơ vụ án của cấp sơ thẩm chưa
đầy đủ, nhiều thiếu sót thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, quyết
định sơ thẩm giao cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại.
Ngoài việc lập hồ sơ VADS, Tòa án có thể tiến hành nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ của VADS và bước đầu đánh giá chứng cứ để nhận thức sự
thật khách quan VADS. Khi thấy đủ các điều kiện xét xử VADS, Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ vào quyết định
đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án tiến hành triệu tập những
người tham gia tố tụng đến tham gia phiên tòa sơ thẩm và thực hiện các công
việc nghiệp vụ khác cần thiết như nghiên cứu pháp luật giải quyết vụ án, xây
dựng kế hoạch bảo vệ phiên tòa, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu v.v
Thứ hai, khác với chuẩn bị phiên họp giải quyết việc dân sự CBXXST
VADS gồm nhiều hoạt động phức tạp và công phu.
Thủ tục giải quyết việc dân sự lần đầu tiên được quy định tại BLTTDS.
Theo các quy định của BLTTDS thì thủ tục giải quyết việc dân sự có nhiều
điểm khác biệt với thủ tục giải quyết VADS và đơn giản hơn thủ tục giải
quyết VADS nên việc chuẩn bị phiên họp giải quyết việc dân sự của Tòa án
cũng đơn giản. Nói cách khác, như đã nêu trên CBXXST VADS gồm nhiều
hoạt động phức tạp và công phu hơn việc chuẩn bị phiên họp giải quyết việc
dân sự. Sở dĩ có sự khác nhau đó xuất phát từ chỗ:
- Trong việc dân sự các bên không có tranh chấp, chỉ yêu cầu Tòa án
xác định một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ
pháp luật giữa họ hay công nhận, không công nhận quyền nghĩa vụ dân sự của
họ. Tòa án có thể công nhận nếu yêu cầu đó là phù hợp hay không công nhận
nếu yêu cầu đó là không phù hợp với các quy định của pháp luật.
- Thủ tục giải quyết việc dân sự được quy định tại BLTTDS rút gọn
hơn so với thủ tục giải quyết VADS về thành phần tiến hành tố tụng, các công
22
việc tiến hành và thời hạn giải quyết nhằm bảo đảm cho việc giải quyết việc
dân sự được nhanh chóng, giảm bớt chi phí tố tụng đồng thời tạo điều kiện
cho Thẩm phán chủ động trong công việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá
nhân của Thẩm phán, thực hiện những bước đi cơ bản của công cuộc cải cách
tư pháp. Ngoại trừ việc giải quyết việc dân sự quy định tại khoản 5 Điều 26;
khoản 6 Điều 28; khoản 2, khoản 3 Điều 30; Điều 32 BLTTDS thành phần
giải quyết việc dân sự gồm 3 Thẩm phán, còn lại các việc dân sự khác gồm
một Thẩm phán giải quyết.
- Trong giải quyết VADS, sự tham gia của Thẩm phán và các bên
đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, đối với
VKS tùy thuộc vào mỗi vụ án mà sự tham gia của VKS là khác nhau. Trong
mô hình của các nước theo hệ thống án lệ, hệ thống cơ quan công tố được tổ
chức rất gọn nhẹ, chủ yếu tham gia vào lĩnh vực hình sự mà không tham gia
vào lĩnh vực dân sự. Bởi ở các nước này tồn tại quan điểm càng ít có sự can
thiệp của Nhà nước, càng ít có sự can thiệp của pháp luật thì xã hội càng vận
hành có hiệu quả. Ở nước ta, trước đây theo quy định của BLTTDS phạm vi
và mức độ tham gia tố tụng của VKS trong TTDS nói chung không nhiều.
Tuy nhiên, theo Khoản 3 Điều Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS
thì phạm vi tham gia phiên tòa của VKS đã được mở rộng hơn:
Viện kiểm sát nhân dân tham gia….các phiên tòa sơ thẩm
đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc
đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất và tâm thần [26].
Điều này, nhằm mục đích tăng cường hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKS đối với hoạt động của những người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Đối với việc giải quyết việc
dân sự, thông thường là đơn giản hơn, nên BLTTDS quy định chỉ có một
23
Thẩm phán (khoản 2 điều 55 BLTTDS). Để tránh khả năng lạm quyền của
Thẩm phán đòi hỏi phải có sự kiểm sát chặt chẽ của VKS. Do đó, BLTTDS quy
định, đại diện VKS phải tham gia 100% các phiên họp giải quyết việc dân sự.
Thứ ba, khác với CBXXST vụ án hình sự, CBXXST VADS tiến hành
trên cơ sở yêu cầu của đương sự, việc thực hiện quyền tự định đoạt của
đương sự và do Tòa án thực hiện.
- Chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS được tiến hành trên cơ sở thực hiện
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và vào
việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự.
Điều 7 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 tuyên bố:
"Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật
bảo vệ ngang nhau " [47]. Như vậy, việc bảo vệ các quyền của con người là
trách nhiệm của mỗi Nhà nước. Nhà nước với tư cách là đại diện cho lợi ích
của các giai cấp trong xã hội, thông qua pháp luật ghi nhận và thiết lập các
biện pháp pháp lý, bảo đảm việc bảo vệ quyền con người. Việc xét xử của
Tòa án là một trong các biện pháp Nhà nước thực hiện để bảo vệ quyền và lợi
ích của các chủ thể. Trong lĩnh vực hình sự, việc giải quyết vụ án hình sự là
giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi phạm tội.
Cho nên, phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến hành trên cơ sở các quyết định
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn việc giải quyết VADS là giải quyết
các quyền và nghĩa vụ dân sự chỉ liên quan đến cá nhân các đương sự. Vì thế,
các đương sự có quyền lựa chọn biện pháp phù hợp với pháp luật để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, khi thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án
là các bên đang thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. CBXXST VADS chỉ phát sinh khi các chủ thể thực hiện
quyền này.
Mặt khác, trong TTDS các đương sự có quyền tự định đoạt, có quyền
tự quyết định việc khởi kiện, tự tham gia TTDS hay ủy quyền cho người khác
24
tham gia tố tụng; tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích của họ. Trong quá trình tố tụng, họ có quyền đưa ra yêu
cầu, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Trách nhiệm của Tòa án chỉ giải quyết
trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Tòa án
không tự xác định phạm vi giải quyết vụ án mà dựa trên yêu cầu của đương
sự, phụ thuộc vào quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự. Vì vậy, quá
trình CBXXST VADS phụ thuộc vào vào quyền tự quyết định và định đoạt
của đương sự. Khi đương sự đưa ra yêu cầu mà thay đổi, bổ sung yêu cầu thì
Tòa án phải xét xử theo sự thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nên cũng
căn cứ vào sự thay đổi, bổ sung yêu cầu đó của đương sự mà CBXXST VADS.
Trong vụ án hình sự, ngoại trừ các vụ án chỉ được khởi kiện theo yêu
cầu của người bị hại (khoản 1 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự), sự phát sinh,
thay đổi, chấm dứt dựa trên các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành
tố tụng. Vì thế, việc nghiên cứu hồ sơ, CBXXSTVAHS cũng như phạm vi xét
xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm dựa trên nội dung quyết định truy tố của
VKS đối với các bị can, hai bên buộc tội và gỡ tội không thể thỏa thuận với
nhau về vụ án để chấm dứt quá trình tố tụng.
- Các công việc CBXXST VADS do Tòa án thực hiện.
Như đã nêu trên, trong TTDS việc chứng minh làm rõ các tình tiết liên
quan đến VADS trước hết thuộc trách nhiệm của các đương sự. Các đương sự
khi đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác phải cung cấp cho
Tòa án để chứng minh cho yêu cầu hay sự phản đối của mình. Theo đó, các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác cũng có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh
như đương sự. Từ đó, việc lập hồ sơ VADS được thực hiện chủ yếu trên cơ sở
hoạt động cung cấp chứng cứ của đương sự. Hoạt động xác minh, thu thập
chứng cứ trong những trường hợp do pháp luật TTDS quy định chỉ nhằm bổ
sung cho hoạt động cung cấp chứng cứ của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ
25
chức khởi kiện yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
trong trường hợp họ không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của mình
để bảo đảm việc giải quyết VADS được nhanh chóng và đúng đắn. Pháp luật
TTDS không quy định một cơ quan riêng có thẩm quyền trong việc lập hồ sơ
VADS như trong tố tụng hình sự. Vì vậy, khác với chuẩn bị xét xử vụ án hình
sự, các công việc CBXXST VADS do Tòa án thực hiện.
Trong tố tụng hình sự, việc chuẩn bị xét xử vụ án hình sự cũng do Tòa
án tiến hành. Tuy nhiên, do tính chất và sự phức tạp của vụ án hình sự để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự, pháp luật tố tụng hình sự quy định việc giải
quyết vụ án hình sự với sự tham gia nhiều cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTHS:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội [22].
Do vậy, trong tố tụng hình sự các chuẩn bị xét xử vụ án hình sự được
thực hiện bởi nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án chỉ là một trong số các
cơ quan đó. Và Tòa án chỉ tiến hành chuẩn bị xét xử vụ án hình sự cũng khi
cơ quan điều tra đã lập xong hồ sơ vụ án hình sự và đã được VKS phê chuẩn.
Tòa án chỉ nghiên cứu hồ sơ vụ án mà tiến hành các hoạt động tố tụng để lập
hồ sơ vụ án như trong CBXXST VADS.
1.2. Ý NGHĨA CỦA CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
Hoạt động xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm chỉ có hiệu quả khi đã có
đủ các điều kiện nhất định như đã có đủ các chứng cứ, tài liệu để làm rõ sự