Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.55 KB, 110 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







KHAMPHAT VONG VICHIT




XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN
QUA THỰC TIỄN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Đoàn Đức Lƣơng




HÀ NỘI - 2012



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan




Khamphat Vong Vichit







MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Những đóng góp mới của luận văn 6
7. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN
LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 7
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm án ly hôn của Tòa án nhân dân 7
1.2. Các giai đoạn của xét xử sơ thẩm án ly hôn 13
1.2.1. Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án ly hôn 13
1.2.2. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn 19
1.2.3. Phiên tòa sơ thẩm vụ án ly hôn 28
1.3. Pháp luật của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về xét xử sơ
thẩm vụ án ly hôn 33
Kết luâ
̣

n Chương 1 37
Chương 2: THỰC TRẠNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY
HÔN QUA THƢ
̣
C TIÊ
̃
N TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 39
2.1. Thực trạng xét xử các vụ án ly hôn 39


2.1.1. Khái quát tổ chức hoạt động của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thừa
Thiên Huế 39
2.1.2. Tình hình và những kết quả của xét xử các vụ án ly hôn của Tòa án
nhân dân các cấp tại Thừa Thiên Huế từ năm 2007 đến năm 2011 41
2.1.3. Các yếu tố tác động đến việc xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn 50
2.2. Thực trạng và nguyên nhân xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua
thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm 2007 đến năm 2011 53
2.2.1. Thực trạng giai đoạn khởi kiện và thụ lý các vụ án ly hôn 53
2.2.2. Thực trạng giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 60
2.2.3. Thực trạng phiên toà sơ thẩm vụ án ly hôn 68
2.2.4. Những nguyên nhân của hạn chế củ xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế 75
2.3. Đánh giá pháp luật và thực tiễn của Việt Nam (trên cơ sở đối
chiếu với pháp luật của Lào) và xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn 77
Kết luâ
̣

n Chương 2 78
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN QUA THƢ
̣
C
TIÊ
̃
N TỈNH THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY 79
3.1. Đảm bảo hiệu quả trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn là yêu
cầu cấp bách hiện nay 79
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của cải cách tư pháp ở Viê
̣
t Nam hiện nay 79
3.1.2. Xuất phát từ đòi hỏi khắc phục những hạn chế bất cập xét xử sơ
thẩm các vụ án ly hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế 81
3.1.3. Xuất phát từ hội nhập quốc tế 82
3.1.4. Xuất phát từ đặc thù của các vụ án ly hôn 82
3.2. Những giải pháp bảo đảm hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly
hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay 83


3.2.1. Giải pháp chung 83

3.2.2. Những giải pháp cụ thể 90
Kết luâ
̣
n Chương 3 95
KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS: Bộ luật dân sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
CHND: Cộng hòa nhân dân
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân
HN&GĐ: Hôn nhân và Gia đình
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa






1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ có những chuyển biến quan trọng trong
xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng mà Đảng Việt Nam đề ra là hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
tính cụ thể và khả năng ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống trong việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước góp phần vào sự phát triển bền
vững của đất nước trong thời kì đổi mới. Hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa
có tính khẩn trương để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước nhưng vẫn
đảm bảo tính thống nhất, tính khả thi của hệ thống pháp luật.
Ngày nay, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dân sự, HN&GĐ diễn ra
hết sức phức tạp. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra
phương hướng xây dựng được một nền pháp chế công bằng, dân chủ, nghiêm
minh, phục vụ nhân dân. Đặc biệt nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới” đã đề cập một cách toàn diện về nhiệm vụ cải cách tư pháp, đề ra
những định hướng, quan điểm chỉ đạo và biện pháp cụ thể đối với công tác tư
pháp, thể hiện sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với nhiệm vụ
cải cách tư pháp. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
“Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” với tư cách là một văn kiện
chính trị quan trọng đặt cơ sở cho hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận và soạn thảo, xây dựng các văn bản pháp luật đối với tổ chức quyền tư
pháp ở Nhà nước Việt Nam. Cùng với đó, chế định pháp luật dân sự và pháp
luật tố tụng dân sự ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa và phát triển

2
là một tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.
Ly hôn là một vấn đề xã hội được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên

thế giới, bởi lẽ hậu quả của ly hôn không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của các
bên nam nữ mà còn ảnh hưởng đến các thành viên trong gia đình và xã hội.
Trong bất kỳ xã hội nào, ly hôn cũng được quan tâm ở những mức độ khác
nhau, bởi vì quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ chủ đạo trong xã hội, mà
ly hôn là điều khó tránh khỏi khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Pháp
luật các quốc gia đều quy định chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn do Toà án tiến
hành theo những thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Trong những năm qua Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật và luật, đây
là một bước phát triển mới đánh dấu sự pháp điển hoá các văn bản đơn hành
và trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử. Các văn bản
luật đã quy định khá chi tiết, cụ thể và thống nhất về nội dung cũng như thủ
tục tố tụng để xét xử các vụ án ly hôn. Trên cơ sở đó, hoạt động xét xử các vụ
án ly hôn ở Việt Nam nói chung và ở Thừa Thiên Huế nói riêng đã đạt được
nhiều thành tựu. Những kết quả trong hoạt động xét xử ly hôn của Tòa án
nhân dân đã góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền sở hữu về tài sản,
quyền nuôi con, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Việc áp dụng các quy định
của pháp luật để xét xử các vụ án ly hôn trong thời gian qua đã đạt được
những kết quả nhất định, song cũng phải thừa nhận rằng nhiều quy định của
pháp luật tuy mới được ban hành nhưng cũng đã bộc lộ nhiều bất cập. Do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên đã dẫn đến thực trạng xét xử các vụ án nói
chung, các vụ án ly hôn nói riêng những năm qua chưa đáp ứng được yêu cầu
của quá trình cải cách tư pháp. Qua thực tiễn xét xử ở Thừa Thiên Huế cho
thấy chất lượng giải quyết chưa cao, các sai sót còn nhiều đã dẫn đến các bản
án, quyết định của Toà án phải bị hủy hoặc bị sửa, trong đó xác định căn cứ ly

3
hôn chưa chính xác, bỏ sót người tham gia tố tụng, các phán quyết không
đúng với hồ sơ vụ án đã phản ảnh, xác định tài sản chung và chia tài sản
chung khi ly hôn chưa đúng pháp luật, Việc giải quyết còn kéo dài, đội ngũ
Thẩm phán còn hạn chế về chuyên môn và thiếu kinh nghiệm xét xử đã làm

giảm lòng tin của các đương sự, cũng như các chủ thể khác vào các phán
quyết của Toà án. Chính từ những nguyên nhân và thực trạng nêu trên, trong
những năm qua TANDTC đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn hoặc tổng
kết kinh nghiệm về công tác xét xử nhằm áp dụng thống nhất pháp luật trong
xét xử các vụ án ly hôn. Tuy nhiên, những việc làm trên chưa mang lại hiệu
quả cao do thiếu tính toàn diện và không triệt để. Việc nghiên cứu tìm những
giải pháp để áp dụng thống nhất các bộ luật và tiếp tục hoàn thiện các quy
định của pháp luật liên quan để nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly
hôn là rất cần thiết.
Do đó chúng tôi đã chọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua
thực tin tỉnh Thừa Thiên Huế” với mong muốn tìm ra được những tiêu chí có
cơ sở khoa học riêng là rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong giai
đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật
trong xét xử các vụ án ly hôn đã được giới khoa học pháp lý và đặc biệt là những
người làm công tác xét xử của ngành Tòa án quan tâm. Nhiều công trình nghiên
cứu vấn đề trên đây nhưng ở nhiều mức độ và khía cạnh khác nhau.
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Chu Đức Thắng năm 2004; Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Thực tin xét xử các vụ án hình sự, dân sự và
HN&GĐ ở Thừa Thiên Huế từ năm 2002 đến năm 2006 và những giải pháp
nâng cao hiệu quả" của tác giả Đoàn Đức Lương năm 2006; "Áp dụng pháp

4
luật trong giải quyết án HN&GĐ của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên",
Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Hoàng Văn Hạnh năm 2006; "Áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án về phân chia di sản thừa kế theo
pháp luật của Tòa án nhân dân Tối cao ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc
sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hà năm 2009; và nhiều công trình nghiên
cứu có liên quan khác.

Các công trình khoa học nói trên đã nghiên cứu, đề cập đến việc áp
dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật của Tòa án nói riêng trong
một số lĩnh vực cụ thể, trong đó có một số vấn đề liên quan đến xét xử sơ
thẩm. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu trực
tiếp đến xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên
Huế. Mặc dù vậy, các công trình khoa học đã được công bố là tài liệu tham
khảo có giá trị để nghiên cứu toàn diện và có hệ thống việc xét xử sơ thẩm
các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế. Vì vậy, trong luận văn
này, tác giả mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống cả về cơ sở lý
luận và thực tiễn trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn
tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận xét xử sơ thẩm
các vụ án ly hôn; đồng thời trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật hiện hành và thực trạng việc xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua
thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế thời gian qua. Từ đó, đề xuất các quan điểm và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thư
̣
c
tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu

5

Để đạt được mục đích trên luận văn đặt ra các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của
TAND, có so sanh đối chiếu với pháp luật Lào
Phân tích thực trạng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n
tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian qua, đồng thời làm rõ các nguyên
nhân tồn tại.
Đề xuất những phương hướng, giải pháp đảm việc xét xử sơ thẩm các
vụ án ly hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của Tòa án nhân dân
cấp huyện và Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi là một luận văn thạc sỹ Luật học thuộc chuyên ngành Luật
dân sự, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xét
xử sơ thẩm các vụ án ly hôn theo pháp luật Việt Nam của TAND ở tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2011
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và Pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước Việt Nam hiện nay. Quan điểm đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong thời kỳ mới.

6
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn có một số phương pháp nghiên cứu
khoa học chủ yếu đã được sử dụng như: phương pháp phân tích, diễn giải làm
sáng tỏ các khái niệm, các quy định của pháp luật hiện hành về xét xử sơ
thẩm vụ án ly hôn; phương pháp lịch sử để nhìn nhận, đánh giá các quy định
pháp luật qua các thời kỳ phát triển; phương pháp so sánh để có sự đối chiếu
tham khảo kinh nghiệm pháp luật Lào và làm rõ sự tiến bộ của pháp luật Việt
Nam về vấn đề nghiên cứu qua các thời kỳ lịch sử. Ngoài ra, việc thực hiện
luận văn liên quan đến thực tiễn xét xử của TAND nên phương pháp thống
kê, phương pháp chứng minh thông qua khảo sát tại các Tòa án để có các số
liệu cụ thể và các vụ án điển hình để minh chứng cho những nhận xét đánh
giá của pháp luật hiện hành về xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có các đóng góp như sau:
- Đưa ra các khái niệm khoa học, phân tích các đặc điểm và vai trò của
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Đánh giá thực trạng và thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn, đặc
biệt là chỉ ra những vướng mắc bất cập trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ
án ly hôn qua thư
̣

c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay.
- Lý giải các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến việc xét xử sơ thẩm án
ly hôn qua thư
̣
c tiê
̃
n tỉnh Thừa Thiên Huế, đề xuất được những giải pháp đảm
bảo xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm mở đầu, nội dung (gồm 3 chương), kết luận
của từng chương và kết luận chung, danh mục và tài liệu tham khảo.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm án ly hôn của Tòa án nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm ly hôn và vụ án ly hôn
Nếu kết hôn là cơ sở hình thành gia đình, trong quan hệ hôn nhân khi
Nhà nước tôn trọng quyền tự do kết hôn thì tất yếu có tự do ly hôn khi có
những điều kiện như: quan hệ vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, một bên vợ
(chồng) biệt tích lâu ngày, nhưng Nhà nước không khuyến khích ly hôn, nên
ngay cả khi quan hệ hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, Nhà nước vẫn
khuyến khích các bên hòa giải đoàn tụ, chỉ trong trường hợp không thể cứu
vãn được thì cơ quan chức năng mới giải quyết ly hôn.

Khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000 quy định “Ly hôn là chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định do yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng”.
Như vậy, chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn là kết quả của hành vi có ý
chí của các bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng bằng pháp luật, khi có yêu cầu ly hôn, Toà án xem xét dựa vào các căn
cứ ly hôn. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do hôn nhân, trong đó
có tự do kết hôn và tự do ly hôn nhưng phải tuân theo những điều kiện nhất
định. Nhà nước phải kiểm soát quyền tự do ly hôn, bởi vì ly hôn không đơn
thuần chỉ ảnh hưởng tới quyền lợi riêng của cá nhân vợ, chồng mà còn ảnh
hưởng tới lợi ích của nhà nước, của xã hội, của các thành viên trong gia đình,
có liên quan với cặp vợ, chồng ly hôn. Cơ quan duy nhất có thẩm quyền giải

8
quyết ly hôn ở nước Việt Nam hiện nay là TAND. Toà án nhân dân chỉ thụ lý
và giải quyết vụ, việc ly hôn khi có yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả vợ
và chồng, làm phát sinh vụ án ly hôn. Những quy định như vậy nhằm đảm
bảo thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, đảm bảo quyền tự do
hôn nhân, bao gồm quyền tự do kết hôn của nam, nữ và quyền tự do ly hôn
của vợ chồng.
Khái niệm vụ án ly hôn: Vụ án ly hôn được quy định trong pháp luật tố
tụng dân sự hiện hành nhưng chưa có khái niệm khoa học thống nhất. Theo
Từ điển Tiếng Việt: "Vụ án là vụ phạm pháp hoặc tranh chấp cần được đưa ra
xét xử trước Tòa án" [20, tr.5].
Để có một khái niệm thống nhất về vụ án ly hôn, cần làm rõ những đặc
điểm sau đây:
- Vụ án ly hôn phải là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh giữa vợ và
chồng. Do đó, khi xác định là vụ án ly hôn thì vợ chồng có sự mâu thuẫn trầm
trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài được cần có sự can thiệp của pháp
luật để xem xét chấm dứt quan hệ hôn nhân.

- Chủ thể có sự xung đột, mâu thuẫn phải là vợ chồng, nghĩa là giữa họ
tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp và về nguyên tắc được xác lập trên cơ sở
mối quan hệ đặc biệt là tình yêu nam và nữ. Vì vậy, sự mâu thuẫn giữa vợ và
chồng trước hết do yếu tố tình cảm không còn, các quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng không được thực hiện và có sự tranh chấp tài sản, nuôi con.
- Các vụ án ly hôn được Tòa án thụ lý, giải quyết theo đơn khởi kiện
của vợ hay chồng hoặc cả vợ và chồng. Ngoài vợ, chồng không chủ thể nào
khác được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp là Toà án có thẩm quyền nhân danh quyền lực Nhà nước theo trình tự,
thủ tục tố tụng tư pháp. Khi xét xử, vợ chồng có những mâu thuẫn, bất đồng

9
về quan hệ nhân thân, tài sản hay việc nuôi con mà không tự giải quyết được.
Do đó, xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn hoàn toàn khác với giải quyết các yêu cầu
về ly hôn hay hòa giải với nhau tại cơ sở.
Từ các nhận xét nêu trên, theo chúng tôi, vụ án ly hôn là việc vợ chồng
khởi kiện yêu cầu Tòa án chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, chia
tài sản chung và giải quyết nuôi con.
1.1.2.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
Khi bàn về khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn trước hết có thể nhìn
nhận ở góc độ chung là do Tòa án thực hiện. Đây là một trong những chức
năng không thể thiếu được của Nhà nước. Ở mỗi quốc gia, hệ thống Tòa án
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định, nội dung của
những nguyên tắc này được quy định tuỳ thuộc vào đặc điểm điều kiện lịch sử
của từng nước mà trước hết phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước. Ở nước
Việt Nam, Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng này nhân danh nhà nước
xem xét yêu cầu chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật khi có tranh
chấp. Do đó, xét xử các vụ án ly hôn nghĩa là Tòa án “xét và xử” nên hoàn
toàn khác với việc giải quyết các yêu cầu về ly hôn (các bên cùng yêu cầu
chấm dứt hôn nhân, thỏa thuận được về tài sản và nuôi con). Nếu Tòa án thấy

đủ căn cứ chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật thì các quan hệ khác đã
được vợ chồng thỏa thuận.
Xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn là một giai đoạn tố tụng của quá trình tố
tụng theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn là giai đoạn
độc lập của quá trình tố tụng dân sự mà kết quả cuối cùng là ban hành các
phán quyết đúng pháp luật và phù hợp với những tình tiết của vụ án. Do nhận
thức chưa đầy đủ về nguyên tắc xét xử hai cấp nên còn có sự nhận thức sai
lầm giữa hai cấp xét xử thành hai lần xét xử nên cho rằng: "Xét xử sơ thẩm là

10
xét xử lần thứ nhất (lần đầu) do Toà án được giao thẩm quyền thực hiện theo
quy định của pháp luật" [47,tr.6]. Có tác giả cho rằng: "Thực hiện nguyên tắc
hai cấp xét xử, một vụ án được xét xử lần thứ nhất (xét xử sơ thẩm) có thể
được xem xét lại một lần nữa theo trình tự phúc thẩm" [27, tr.26]. Nhận thức
trên không phù hợp với mục đích ý nghĩa của xét xử sơ thẩm và tạo ra tâm lý
có xét xử lần đầu thì tất yếu phải có xét xử lần thứ hai. Pháp luật không cho
phép những người làm công tác xét xử suy nghĩ rằng vụ án mà mình giải
quyết sẽ được xét xử lại lần thứ hai. Nếu ý thức như vậy có nguy cơ dẫn đến
thiếu cẩn trọng trong khi xét xử sơ thẩm và trông chờ vào Tòa án cấp trên.
Trong một số trường hợp các Thẩm phán đã không tập trung vì cho rằng "bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chắc chắn bị kháng cáo hay bị kháng
nghị nên dẫn đến coi nhẹ xét xử sơ thẩm, vi phạm các quy định của pháp luật
trong hoạt động xét xử ở cấp sơ thẩm, ỷ lại vào cấp phúc thẩm" [47,tr.6].
Xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn là một giai đoạn độc lập trong quá
trình tố tụng dân sự, do đó tiếp cận giai đoạn tố tụng này dưới nhiều góc
độ khác nhau:
- Với tính chất là một giai đoạn tố tụng, xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn bắt
đầu từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc bằng bản án hay quyết định sơ thẩm
của Toà án. Việc thụ lý vụ án ly hôn do Tòa án có thẩm quyền thực hiện khi
có đầy đủ các điều kiện thụ lý, chứ không phải hồ sơ vụ án do VKS chuyển

sang và được Tòa án quyết định thụ lý như đối với vụ án hình sự. Thời điểm
kết thúc giai đoạn sơ thẩm được xác định từ thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm
ban hành các phán quyết bao gồm: Các quyết định (ví dụ như quyết định công
nhận thuận tình ly hôn, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án) hoặc khi Tòa án
ban hành bản án sơ thẩm về giải quyết vụ án. Đối với quyết định công nhận
thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay, song đối với bản án hay quyết

11
định đình chỉ giải quyết vụ án còn có các ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất
cho rằng giai đoạn sơ thẩm kết thúc khi Tòa án ban hành các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật; trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo hoặc kháng nghị thì thời điểm Tòa án có thẩm quyền chấp nhận kháng
cáo hoặc kháng nghị. Ý kiến thứ hai cho rằng giai đoạn giải quyết sơ thẩm vụ
án ly hôn kết thúc ngay sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành
(bắt đầu của giai đoạn phúc thẩm). Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ hai là có
căn cứ, bởi vì kết quả cuối cùng của giai đoạn sơ thẩm là ban hành bản án hay
quyết định nên sau đó dù các đương sự hay VKS có đồng ý hay phản đối cũng
không còn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp
sơ thẩm chỉ làm thủ tục để chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp trên xem xét,
giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
- Với tính chất là các hoạt động tố tụng, xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
được cấu thành bởi các hoạt động tố tụng như: khởi kiện và thụ lý vụ án ly
hôn, chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn (trong đó gồm nhiều hoạt động tố
tụng khác nhau như cung cấp chứng cứ của đương sự dưới các hình thức khác
nhau, hoạt động thu thập đánh giá chứng cứ của Tòa án, hòa giải vụ án ly
hôn, ) và các hoạt động tố tụng tại phiên toà sơ thẩm.
- Với tính chất là một chế định của pháp luật tố tụng dân sự, xét xử sơ
thẩm vụ án ly hôn bao gồm áp dụng pháp luật để xác định nhiều vấn đề như:
thẩm quyền giải quyết của Tòa án; các cơ quan tiến hành tố tụng, đương sự,
các chủ thể khác tham gia tố tụng và địa vị pháp lý của các chủ thể trong giai

đoạn sơ thẩm; các quy định về trình tự, thủ tục thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ thẩm
và phiên toà sơ thẩm.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn bao
gồm những hành vi tố tụng của Tòa án, của VKS và các chủ thể tham gia tố

12
tụng nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tranh chấp, áp dụng các
quy phạm pháp luật tương ứng để ban hành bản án hay các quyết định giải
quyết vụ án ly hôn có căn cứ, đúng pháp luật.
1.1.2.3. Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
Đặc điểm xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn bao gồm:
Một là, xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn là hành vi của Toà án, của VKS
và các chủ thể tham gia tố tụng xác định những tình tiết có ý nghĩa của vụ
án, lựa chọn những quy phạm pháp luật tương ứng để đưa ra những phán
quyết có căn cứ.
Hai là, xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn chủ yếu do Toà án tiến hành. Tòa án
nhân danh quyền lực nhà nước xem xét việc kiện ly hôn, đồng thời quyết định
việc chia tài sản và nuôi con (nếu chấp nhận yêu cầu). Sự tham gia của VKS chủ
yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp hoặc tham gia phiên toà khi thấy cần thiết (đây
là điểm khác biệt với xét xử các vụ án hình sự). Đồng thời đây không phải là
hoạt động của cá nhân công dân, cũng không phải là hoạt động xã hội hay của
những tổ chức nghề nghiệp như hòa giải tại cơ sở hay trọng tài giải quyết. Trong
những trường hợp cần thiết, bản án hay quyết định của Tòa nhân danh Nhà nước
được đảm bảo thi hành bởi sự cưỡng chế hợp pháp của Nhà nước.
Ba là, việc xem xét, đánh giá và ra các phán quyết theo một trình tự,
thủ tục tố tụng dân sự nghiêm ngặt nên việc xét xử của Tòa án phải đảm bảo
về thẩm quyền, thời hiệu khởi kiện, các nguyên tắc tố tụng,
Bốn là, xuất phát từ tính chất đặc trưng của vụ án ly hôn là yếu tố tình
cảm mang tính chất quyết định và chi phối các quan hệ khác (như quan hệ tài

sản) nên việc áp dụng pháp luật phải mềm dẻo, linh hoạt vừa đảm bảo đúng
pháp luật vừa đảm bảo lợi ích của các thành viên trong gia đình.

13
Quá trình xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ
lý vụ án và kết thúc khi Tòa án ban hành bản án ly hôn sơ thẩm hay một trong
các quyết định công nhận thuận tình ly hôn, quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án ly hôn,
1.2. Các giai đoạn của xét xử sơ thẩm án ly hôn
Khi xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn, với ý nghĩa là một giai đoạn tố tụng
dân sự, các giai đoạn áp dụng pháp luật đó được thể hiện trong trong giai
đoạn cụ thể như sau:
1.2.1. Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án ly hôn
Khởi kiện vụ án ly hôn là việc vợ, chồng yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
xem xét chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, chia tài sản chung và
giải quyết nuôi con. Quyền khởi kiện vụ án ly hôn là quyền tố tụng đầu tiên
của chủ thể tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn trong vụ kiện.
Quyền khởi kiện vụ án ly hôn là quyền của công dân được quy định
trong Hiến pháp. Bộ luật dân sự 2005 quy định quyền khởi kiện vụ án ly hôn
của vợ, chồng.
Chỉ có vợ và chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn, ngoài ra không chủ
thể nào khác được thực hiện quyền này, bởi lẽ yêu cầu Tòa án chấm dứt hôn
nhân xuất phát từ đời sống tình cảm của vợ chồng, chính bản thân họ mới
nhận thức và đánh giá được những mâu thuẫn trong đời sống gia đình nên yêu
cầu Tòa án làm các thủ tục để công nhận “một cuộc hôn nhân đã chết”. Tuy
nhiên, đối với những trường hợp đặc biệt quyền yêu cầu ly hôn bị hạn chế.
Khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con dưới mười hai tháng tuổi (kể cả
con bị chết) thì người chồng không được yêu cầu ly hôn (theo khoản 2 Điều
86 Luật HN&GĐ 2000). Quy định này không vi phạm quyền khởi kiện do
pháp luật quy định mà xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và


14
trẻ em. Trong thời kỳ mang thai và nuôi con nhỏ cần sự chăm sóc đặc biệt để
đảm bảo cả về vật chất, tinh thần để cho người con trưởng thành trở thành
công dân có ích cho xã hội, người chồng, người cha phải có trách nhiệm nhất
định. Điều hạn chế này không áp dụng đối với người vợ nên vẫn có quyền
khởi kiện yêu cầu ly hôn.
Khác với những vụ án dân sự khác, xét xử vụ án ly hôn, trước hết xem
xét và đánh giá tình cảm của vợ chồng mâu thuẫn đến mức độ nào, đời sống
chung có thể kéo dài được không để quyết định chấm dứt hôn nhân hoặc
không chấp nhận yêu cầu. Trường hợp Tòa án có thẩm quyền xử bác đơn yêu
cầu ly hôn thì mười hai tháng sau vợ chồng có quyền nộp đơn yêu cầu ly hôn
lại và được Tòa án thụ lý giải quyết.
Đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn do vợ hoặc chồng nộp tại Tòa án có
thẩm quyền (ly hôn do một bên yêu cầu) hoặc do cả vợ và chồng yêu cầu ly
hôn (thuận tình ly hôn) nhưng không thỏa thuận được về tài sản và nuôi
con. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các chứng cứ chứng minh cho yêu
cầu như Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc các chứng cứ khác chứng
minh đã chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn trước
ngày 03 tháng 01 năm 1987.
Về khởi kiện vụ ly hôn vẫn còn một số vấn đề cần xem xét cả về
phương diện lý luận và thực tiễn:
Đối với trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị bệnh tâm thần mà không
đủ tư cách khởi kiện vụ án ly hôn, còn bên kia không thực hiện các nghĩa vụ
của vợ chồng, ngoại tình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống vợ chồng
thì cá nhân hoặc tổ chức đoàn thể quần chúng nào có quyền thực hiện quyền
yêu cầu ly hôn cho người bị tâm thần. Pháp luật dân sự mới chỉ quy định việc
đại diện để bảo vệ các quyền và lợi ích về tài sản của người đó khi một bên vợ

15

hoặc chồng không còn đủ tư cách đại diện mà chưa quy định quyền yêu cầu ly
hôn khi chính vợ hoặc chồng không có khả năng thực hiện quyền này, trong
khi cuộc sống vợ chồng mà một bên bị đối xử, ngược đãi, bị bỏ rơi. Trước
đây, việc thực hiện quyền này do VKS tiến hành nhưng hiện nay theo quy
định của BLTTDS thì VKS không còn vai trò khởi tố các vụ án dân sự nữa.
Trường hợp người chồng nộp đơn ly hôn, Tòa án xem xét thụ lý thì
người vợ chưa có thai, khi chuẩn bị thụ lý vụ án thì người vợ xuất trình chứng
cứ là đã mang thai thì Tòa án vẫn thụ lý vụ án hay tạm đình chỉ giải quyết vụ
án. Theo ý kiến thứ nhất, Tòa án vẫn thụ lý và xét xử vụ án ly hôn vì vào thời
điểm nộp đơn kiện người vợ chưa có thai nên không bị hạn chế quyền yêu cầu
ly hôn. Theo ý kiến thứ hai, Tòa án không thụ lý vụ án kể cả trường hợp đã
thụ lý mà người vợ phản đối yêu cầu ly hôn thì vẫn tạm đình chỉ cho đến khi
điều kiện hạn chế không còn mới tiếp tục thụ lý hoặc giải quyết. Khi xem xét
phải căn cứ vào bản chất của sự việc là bảo vệ quyền và lợi ích của người mẹ
và trẻ em, người chồng phải có trách nhiệm với người vợ và đứa con của họ
trong một thời gian để ổn định về vật chất, tinh thần.
Khi yêu cầu ly hôn, vợ chồng có thể đến trực tiếp Tòa án yêu cầu hay
không? Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và Lào quy định yêu cầu vợ chồng
phải có đơn khởi kiện. Trong khi đó, pháp luật tố tụng dân sự của một số
nước (Pháp, Trung Quốc) quy định: Các đương sự có thể trình bày yêu cầu
của mình trong một đơn kiện chung; họ cũng có thể tự nguyện đến trình diện
trước tòa để yêu cầu xét xử. Tòa án thụ lý trên cơ sở đơn kiện hoặc căn cứ vào
biên bản xác nhận là các đương sự đã tự nguyện đến trình diện để xin xét xử
tranh chấp của họ [5, tr.28]. Ở Việt Nam, nếu cho phép thực hiện quyền khởi
kiện theo phương thức này thì sẽ hết sức nhanh chóng và thuận lợi vì Toà án
có thể yêu cầu người khởi kiện bổ sung ngay các yêu cầu cần thiết cho việc

16
giải quyết vụ án thay vì thủ tục như lập văn bản đề nghị bổ sung yêu cầu,
người khởi kiện có văn bản bổ sung yêu cầu và yêu cầu người khởi kiện cung

cấp các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu.
Thụ lý vụ án là việc Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của người khởi
kiện, vào sổ thụ lý để giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng dân sự. Việc thụ lý
được Tòa án ghi nhận bằng việc ra thông báo cho nguyên đơn nộp tạm ứng án
phí và kết thúc bằng việc Tòa vào sổ thụ lý vụ án. Không phải mọi trường hợp
đơn khởi kiện đều được thụ lý giải quyết. Việc thụ lý vụ án ly hôn là bước mở
đầu của quá trình tố tụng trên cơ sở đảm bảo các điều kiện thụ lý. Theo đó, (i)
Vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng có đơn yêu cầu ly hôn phải có tranh chấp
về tài sản chung, nuôi con chung; (ii) Vụ án ly hôn chưa được Tòa án thụ lý
giải quyết trước đó bằng quyết định, bản án (nếu đã bị Tòa án xử bác đơn ly
hôn trước đó thì phải đủ thời gian là mười hai tháng); (iii) Vợ chồng phải có
năng lực hành vi tố tụng dân sự, kể cả trường hợp chưa đủ mười tám tuổi vẫn
có quyền yêu cầu ly hôn vì pháp luật HN&GĐ cho phép những người đang ở
tuổi mười tám được quyền kết hôn; (iv) Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án mình, trường hợp không đúng thẩm quyền thì hướng dẫn cho
đương sự nộp đơn khởi kiện tài Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
Khi thụ lý vụ án ly hôn, cần xem xét phân biệt với thụ lý yêu cầu ly
hôn. Trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, thỏa thuận được chia tài sản
chung, nuôi con chung thì Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn để giải quyết theo thủ
tục việc dân sự. Đây là trường hợp không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ,
do đó nếu đủ căn cứ ly hôn Tòa án sẽ công nhận thuận tình ly hôn. Yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn được Toà án giải quyết theo thủ tục giải quyết
việc dân sự. Toà án chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự về vấn đề thuận tình ly hôn nếu đương sự thỏa thuận được ba vấn đề sau:

17
Thỏa thuận về việc tự nguyện ly hôn; thỏa thuận về việc chia hay không chia
tài sản chung; thỏa thuận về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục con. Trường hợp các bên thay đổi sự thỏa thuận bằng một sự thỏa thuận
mới hoặc có tranh chấp và không giải quyết được vấn đề đã thỏa thuận trước

đó thì đình chỉ giải quyết việc dân sự, sau đó hướng dẫn đương sự khởi kiện
vụ án ly hôn có tranh chấp.
Khi thụ lý vụ án ly hôn, đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ
chồng sau ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà không có đăng ký kết hôn có yêu
cầu ly hôn vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng
TAND phải thụ lý vụ án ly hôn vì khi Luật HN&GĐ và Nghị quyết số 35/
NQ-QH hướng dẫn thi hành luật thì pháp luật tố tụng lúc đó chưa có sự phân
biệt giữa vụ án dân sự và việc dân sự. Chia sẻ ý kiến này có tác giả cho rằng:
"để tránh xung đột giữa BLTTDS và Nghị quyết 35/NQ-QH, đồng thời để
phù hợp với thực tế, thiết nghĩ cơ quan có thẩm quyền cần căn cứ vào Điều
311 BLTTDS để hướng dẫn: đối với vụ việc không công nhận là vợ chồng
nếu không có tranh chấp thì cần thụ lý giải quyết là một việc dân sự" [33,
tr.36]. Theo loại ý kiến thứ hai, TAND thụ lý yêu cầu ly hôn là hoàn toàn phù
hợp, bởi lẽ Luật HN&GĐ 2000 tại Điều 89 quy định: "Toà án thụ lý đơn yêu
cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp
không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố
không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của
Luật này". Đồng thời, khoản 2 Điều 28 của BLTTDS chỉ quy định những yêu
cầu về thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà không có quy
định về yêu cầu không công nhận vợ chồng. Hiện nay, trong các Nghị quyết
số 01/2005/NQ-HĐTP và Nghị quyết số 02/2006/ NQ-HĐTP của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC vẫn chưa hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nên việc
nhận thức và áp dụng pháp luật còn thiếu thống nhất.

18
Khi xem xét đủ các điều kiện, Tòa án thông báo cho đương sự nộp tạm
ứng án phí và quyết định thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án ly hôn là công việc đầu
tiên của Tòa án, là bước mở đầu của quá trình tố tụng. Nếu không có việc thụ
lý của Tòa án có thẩm quyền sẽ không có sự xác định trách nhiệm của Tòa án
và không có hàng loạt các hoạt động tố tụng tiếp theo. Thời điểm thụ lý vụ án

là cơ sở xác định thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn và các hoạt
động tố tụng khác. Bàn về thụ lý vụ án, có quan điểm nhận định rằng: Thụ lý
vụ án dân sự (theo nghĩa rộng) cần được coi trọng vì đây là bước mở đầu của
quá trình tố tụng dân sự, nếu thụ lý chậm, kéo dài thì gây phiền hà mất lòng
tin của nhân dân, nhưng một vụ án thụ lý sai, không đúng thẩm quyền sẽ mất
thời gian nên cần có quy định cụ thể về thời hạn để Tòa án xem xét và thông
báo cho đương sự biết có thụ lý hay không để từ đó đề cao trách nhiệm của
Tòa án và nhiệm vụ của đương sự [44, tr.70].
Đặc điểm của khởi kiện và thụ lý vụ án ly hôn:
Một là, quyền khởi kiện vụ án ly hôn. Tự do hôn nhân bao gồm tự
nguyện kết hôn và tự do ly hôn, do đó quyền yêu cầu ly hôn được pháp luật
công nhận. Chỉ có vợ hay chồng hoặc cả vợ và chồng mới có quyền khởi kiện
yêu cầu ly hôn tại Tòa án để yêu cầu chấm dứt hôn nhân, giải quyết tài sản
chung và con chung. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp quyền ly hôn của
người chồng bị hạn chế.
Hai là, cơ sở pháp lý làm phát sinh vụ án ly hôn tại Toà án là đơn khởi
kiện của đương sự. Toà án phải căn cứ vào quy định của pháp luật HN&GĐ
và pháp luật tố tụng để xem xét quyết định thụ lý vụ án (nếu đủ điều kiện thụ
lý) hoặc trả lại đơn khởi kiện (nếu không đủ điều kiện).
Ba là, thụ lý vụ án ly hôn là việc Toà án đã xác định trách nhiệm giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Từ thời điểm này các hành vi tố tụng

19
phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về thời hạn, thủ tục và
xây dựng kế hoạch lập hồ sơ vụ án cho giai đoạn tiếp theo là chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án ly hôn.
1.2.2. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
Bằng việc thụ lý, Tòa án đã chính thức xác nhận thẩm quyền và trách
nhiệm giải quyết vụ án. Để giải quyết vụ án Thẩm phán tiến hành hàng loạt
các công việc chuẩn bị cho việc xét xử sơ thẩm trong một thời hạn nhất định.

Nếu tiếp cận chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn là hoạt động của Tòa án
bao gồm toàn bộ những hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm xác
minh, thu thập chứng cứ (trong các trường hợp pháp luật quy định), bước đầu
đánh giá các chứng cứ và ra các phán quyết cần thiết để giải quyết vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn thể hiện các hoạt động
tố tụng sau đây:
- Xác định đầy đủ quan hệ pháp luật giữa các đương sự:
Trong vụ án ly hôn, có rất nhiều những tình tiết khác nhau nhưng Toà
án phải xác định đầy đủ và chính xác các quan hệ pháp luật phát sinh để làm
cơ sở cho hoạt động thu thập chứng cứ, bước đầu đánh giá chứng cứ và lựa
chọn quy phạm pháp luật áp dụng. Trong vụ án ly hôn, thông thường Toà án
xem xét ba quan hệ chủ yếu là quan hệ nhân thân (làm tiền đề cho xem xét
quan hệ khác), chia tài sản chung và giải quyết việc nuôi con chung. Trong
từng mối quan hệ cơ bản này Toà án phải xem xét thấu đáo các vấn đề (ví dụ
như chia tài sản chung phải xác định tài sản chung, tài sản riêng, các khoản nợ
chung hoặc nợ riêng, ). Khi xác định, Toà án làm sáng tỏ đâu là quan hệ
chính cần tập trung giải quyết, đâu là quan hệ có ý nghĩa bổ sung cho quan hệ
chính để tránh tình trạng xác định tràn lan, không tập trung làm cho việc lập
hồ sơ tản mạn, dẫn tới áp dụng pháp luật giải quyết thiếu chính xác.

×