Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Chức năng của Việt kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.83 KB, 94 trang )



5
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Mai Văn Thùy













MỤC LỤC




6



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
8
1.1.
Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
các vụ án hình sự
8

1.1.1.
Khái niệm thực hành quyền công tố
11
1.1.2.
Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
17
1.2.
Đặc điểm và hình thức thực hiện chức năng của Biện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
23
1.2.1.
Đặc điểm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự
25
1.2.2.
Các hình thức thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự
28

Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
31
2.1.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
31
2.1.1.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về

thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
31


7
2.1.2.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
38
2.2.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự
48
2.2.1.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự
50
2.2.2.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự
56

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

60
3.1.
Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử các vụ án hình
60
3.1.1.
Những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
60
3.1.2.
Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
64
3.1.3.
Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự
69
3.2.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
74

KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
86




8


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
3.1
Một số kết quả đạt được trong hoạt động thực hành quyền
cụng tố và kiểm sỏt việc tuõn theo phỏp luật trong giai
đoạn xột xử vụ ỏn hỡnh sự trong 5 năm gần đõy
63
3.1
Một số tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự trong 5 năm gần đây
64
















9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vụ án một cách công khai, dân chủ, công bằng, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm đồng thời đảm bảo công lý được
thực thi không những thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là
chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Muốn làm được điều này chúng ta phải tổ chức và phân định rạch ròi nhiệm
vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng một cách khoa
học, hợp lý dựa trên những tiêu chí về chức năng của tố tụng hình sự trong
Nhà nước pháp quyền, đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội và chức
năng xét xử. Ở nước ta trong những năm gần đây, hệ thống các cơ quan tư
pháp được củng cố và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp bước đầu
đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra
trong tình hình mới. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định:
"Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định
pháp luật dân sự và pháp luật về tổ chức tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập,
chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý" [10] và đề ra chiến lược
cải cách là: "xác định rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ
chức, bộ máy các cơ quan tư pháp" [10].
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự, do vậy hoạt động của Viện kiểm sát
là một quy trình xuyên suốt từ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Khác với hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng dân
sự, Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án do tòa án thu


10
thập chứng cứ mà có khiếu nại của đương sự, các việc dân sự, các vụ việc mà
Viện kiểm sát có kháng nghị. Vì vậy trong tố tụng hình sự Viện kiểm sát có
chức năng đặc biệt quan trọng bởi lẽ quyết định truy tố của Viện kiểm sát
(bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm. Nếu không có sự kiểm sát các thủ tục tố tụng tại tòa thì sẽ
không có phiên tòa hình sự một cách khách quan và đúng thủ tục tố tụng.
Hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự là cơ sở thực
tiễn giúp các nhà nghiên cứu, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về mô hình tố tụng, tổ chức bộ máy của cơ quan Viện kiểm sát
nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử, bảo đảm tự do, dân chủ cho công
dân góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và đấu tranh có hiệu quả với
các loại tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi lẽ đây là giai đoạn mà vụ án hình
sự được xem xét, giải quyết công khai, nó thể hiện tập trung các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự và cũng là giai đoạn thể hiện tập trung quyền và
nghĩa vụ pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về hoạt động của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự còn nhiều điểm bất cập, một số nguyên
tắc của tố tụng hình sự chưa được thể hiện đầy đủ, làm cho hiệu quả xét xử
của Tòa án chưa cao.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp và theo tinh thần Nghị quyết số
49/NQ-TW đã chỉ rõ:

Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng
như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với tổ chức của
Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố,
tăng cường trách nhiệm của Công tố trong hoạt động điều tra [10].


11
Do đòi hỏi việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đề xuất phương
hướng hoàn thiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự ở Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận
cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhằm hiện thực hóa chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó Viện
kiểm sát nhân dân sẽ hướng chuyển thành Viện công tố, những năm qua đã có
một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề này. Qua tìm hiểu
các tài liệu hiện hành cho thấy các công trình khoa học tập trung nghiên cứu
theo những khía cạnh sau:
- Nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
các đề tài nghiên cứu khoa học và sách về đổi mới tổ chức hoạt động, chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân.
Những công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, điển hình như sách của tác giả Lê
Minh Thông (Chủ biên): Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001; Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Hữu Khoa: Chức
năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2009; Luận án tiến sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa:
Quyền công tố ở Việt Nam, Hà Nội, 2002; Đề tài khoa học cấp bộ của ThS.
Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh: Hoàn thiện các quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2003 để đảm bảo phù hợp với việc tổ chức hệ thống
các cơ quan tư pháp theo tinh thần nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Tác giả Ngô Văn Đọn (Chủ
biên): Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền
công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát
hình sự, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2004; tác giả Hoàng Thế Anh: Cơ sở


12
lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2006.
- Nhóm nghiên cứu thứ hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Các bài viết liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát bao gồm:
Khuất Văn Nga: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới
(Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2005; Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp -
nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, (Tạp chí
kiểm sát), Hà Nội, 2005; Phạm Hồng Hải: Đổi mới tổ chức và hoạt động của
hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí luật học), Hà Nội, 2006; Đỗ Văn Đương:
Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay
(Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2006; Lê Cảm: Một số vấn đề lý luận cơ bản về
quyền công tố (Tạp chí kiểm sát), Hà Nội, 2000
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu thứ nhất gồm các luận văn thạc sĩ, luận
án tiến sĩ, các đề tài nghiên cứu khoa học và sách về đổi mới tổ chức hoạt
động, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
làm rõ địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nói chung hoặc ở một góc độ nhất
định như đi sâu phân tích thế nào là quyền công tố chức năng của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhưng chưa có công trình

nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện về chức năng của Viện kiểm sát trong xét xử
vụ án hình sự, chưa đánh giá một cách có hệ thống những điểm còn hạn chế
trọng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
chưa phân tích nguyên nhân và các giải pháp khắc phục. Nhóm nghiên cứu
thứ hai về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí
chuyên ngành cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích, làm rõ một vài khía cạnh
của vấn đề. Vì vậy đây là vấn đề tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu nhất là


13
trong bối cảnh chúng ta đang nghiên cứu, thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, làm sáng tỏ vấn đền này cả về mặt lý luận cũng như thực
tiễn tạo cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu của
cải cách tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của Tòa án
đồng thời đảm bảo chất lượng tranh tụng tại tòa, góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm, chống làm oan người vô tội và chống bỏ lọt tội phạm cũng
như bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Xét thấy đây là thời điểm thích hợp cho việc nghiên cứu một cách
khoa học để tìm hiểu chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các
vụ án hình sự đồng thời tìm ra những nguyên nhân tồn tại và các giải pháp
khắc phục. Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài "Chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự" để làm luận văn thạc sĩ Luật
học, chuyên ngành Luật hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích
Những nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần hoàn thiện cơ sở lý
luận về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu

của cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
Phân tích làm rõ khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự và
thực tiễn áp dụng các quy định đó.


14
Làm rõ nguyên nhân của những bất cập trong việc thực hiện chức
năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Các giai đoạn xét xử được nghiên cứu trong đề tài bao gồm chức
năng của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chức năng của
Viện kiểm sát trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự. Chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra, trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đề tài chỉ đưa ra quan điểm, kiến nghị mang tính nguyên tắc,
phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan
đến chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
- Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích chức năng của Viện kiểm sát
theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn hoạt động của ngành
Kiểm sát trong 5 năm trở lại đây (từ 2005 đến năm 2010).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng

cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn được sử dụng trong
Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp luật học so sánh,
khảo sát thực tiễn, đối thoại với chuyên gia và các nhà hoạt động thực tiễn
trong lĩnh vực luật học.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ các quy định về chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện các


15
quy định của pháp luật liên quan đến chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình.
Chương 3: Thực trạng và một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.




16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ


1.1. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Khi nói đến chức năng có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Từ điển
tiếng Việt định nghĩa: "Chức năng là phương diện hoạt động có tính chất cơ
bản, xuất phát từ bản chất của sự vật, hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã hội
của việc giải quyết các nhiệm vụ đó đặt ra" [52, tr. 267].
Theo tiếng Latinh chức năng "functio" có nhiều nghĩa khác nhau, có
thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, chức năng, vai trò hay hiểu là loại
hoạt động của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó… Tùy ngữ cảnh cụ
thể để áp dụng, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động
để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Chức năng của cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động chủ
yếu có tính chất cơ bản và lâu dài của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện những
mục tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ
việc thực hiện chức năng chung của bộ máy nhà nước.
Cũng như nhiều cơ quan nhà nước khác ở từng thời kỳ phát triển kinh
tế xã hội khác nhau thì Nhà nước cũng giao cho chức năng khác nhau. Hệ
thống cơ quan Công tố được tách dần khỏi hệ thống cơ quan Tòa án và sự ra
đời của Hiến pháp năm 1959 quy định sự thành lập của Viện kiểm sát trong
hệ thống cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước. Thực hiện nghị quyết của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 và Hiến pháp 1959, ngày 27
tháng 7 năm 1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân khai sinh ra hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân


17
ở Việt Nam. Đây là hệ thống cơ quan nhà nước chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Độc lập với hệ thống cơ quan xét xử và
các cơ quan hành chính khác. Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hành quyền

công tố trong việc giải quyết các vụ án hình sự như cơ quan Công tố trước
đây, đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội
đồng chính phủ, cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên Nhà nước và
công dân. Tiếp đó tại các bản Hiến pháp 1980, 1992 và các văn bản pháp luật
có liên quan từng bước có quy định rõ ràng hơn về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát. Đó là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân, các nhân viên Nhà nước, công dân; thực hành quyền công tố và bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi chức năng của các cơ quan nhà
nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoạt động trong tình hình mới.
Trong đó hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cũng không phải là ngoại lệ, sự thay
đổi lớn nhất về chức năng từ trước tới nay. Điều đó được thể hiện qua Nghị
quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, theo đó tại Điều 2 Hiến pháp
1992 ghi nhận: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp" [31]. Trong đó chức năng của Viện kiểm sát được điều
chỉnh theo hướng đề cao chức năng công tố so với giai đoạn trước đây và thu
hẹp chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà
nước, công dân bằng chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Theo đó
Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: Viện kiểm
sát có chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp" [32]. Trên cơ sở của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân


18
năm 2002 quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật" [33].
Theo tiến trình cải cách tư pháp của Bộ Chính trị trong đó cải cách hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân là một trong những nội dung quan trọng của cải
cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách các cơ quan tư pháp nói riêng
nhằm mục đích xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với việc ra đời của Nghị quyết số 08/2002 của Bộ Chính trị về những nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đặc biệt Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ: "Trước mắt, Viện kiểm
sát vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10].
Như vậy sự ra đời của Viện kiểm sát với tư cách là một cơ quan nhà
nước là một đòi hỏi tất yếu, khách quan của quá trình bảo vệ và xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở từng giai đoạn cụ thể mà
Viện kiểm sát có các chức năng khác nhau.
Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định cụ thể hơn về
chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự: Viện kiểm sát "thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" [34].
Đây là chức năng hiến định, đặc trưng cơ bản của Viện kiểm sát. Nó quy định
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự từ khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự. Ở giai đoạn
điều tra vụ án hình sự thì chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền
công tố đồng thời kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra hoặc
một số cơ quan được giao hoạt động điều tra, các chủ thể khác tham gia vào
công việc điều tra cũng như hỗ trợ cho công tác điều tra nhằm mục đích đảm
bảo cho hoạt động điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện,
kịp thời. Trong công tác kiểm sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra,


19

Viện kiểm sát có chức năng phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật của Cơ
quan điều tra, Điều tra viên và các chủ thể khác để kiến nghị, sửa chữa, hủy
bỏ các quyết định không có căn cứ pháp luật của Cơ quan điều tra qua đó tìm
ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và các vi phạm pháp luật của các cá nhân, cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội. Từ sự phân tích trên cho thấy: Chức năng của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong xét xử vụ án hình sự. Để hiểu rõ chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử trước hết cần phải nghiên cứu
khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử trong tổng thể của cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hay nói cách
khác là nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước nói
chung, chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói riêng. Như vậy,
có thể khẳng định rằng trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát đồng thời thực
hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật.
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Khi nghiên cứu chức năng của Viện kiểm sát chúng ta hay đề cập đến
khái niệm thực hành quyền công tố, bên cạnh đó lại xuất hiện khái niệm
quyền công tố hay Công tố quyền. Có quan điểm cho rằng: "Thực hành quyền
công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [11]. Đây là
những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cần làm sáng tỏ, nó liên quan
trực tiếp đến chức năng của Viện kiểm sát. Tuy vậy trên thực tiễn lại có nhiều
cách hiểu khác nhau dẫn đến chưa có sự nhận thức một cách thống nhất,
chính thống về các khái niệm, nội dung, chủ thể của hai thuật ngữ trên. Xét về



20
phương diện lý luận cũng như thực tiễn, làm rõ hai thuật ngữ trên sẽ góp
phần hiểu một cách đầy đủ vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong mối quan hệ
tổng thể với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay
chúng ta đang nghiên cứu chức năng, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong
tiến trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Quá trình phát triển và hoàn thiện chế định quyền công tố gắn liền với
sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Tùy từng kiểu Nhà nước trong từng thời
kỳ nhất định và với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội, con người,
yếu tố văn hóa, truyền thống chính trị của mỗi quốc gia để thiết kế một bộ máy
nhà nước khác nhau. Do vậy, quyền công tố cũng có những khác biệt nhất định,
đi đôi với việc hoàn thiện thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia thì việc hoàn thiện chế định quyền công tố cũng ngày càng rõ nét. Ở nước
ta Hiến pháp năm 1980 đề cập đến quyền công tố, thực hành quyền công tố khi
quy định chức năng của Viện kiểm sát tại Điều 138. Cũng tại Điều 137 Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) đã khẳng định lại sự tồn tại của thuật
ngữ quyền công tố, thực hành quyền công tố trong chức năng của Viện kiểm
sát. Vậy quyền công tố và thực hành quyền công tố là gì? Mặc dù các học giả
và các nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật đã tập trung nghiên
cứu, tuy nhiên vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về hai khái niệm trên:
Quan điểm thứ nhất thì đánh đồng "Quyền công tố với chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát" [35, tr. 5].
Quan điểm thứ hai coi "Quyền công tố chỉ là quyền năng, một hình
thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự" [35, tr. 5].
Quan điểm thứ ba coi "Quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy
tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm" [35, tr. 5].



21
Quan điểm thứ tư cho rằng quyền công tố là quyền buộc tội (quyền
truy cứu trách nhiệm hình sự) nhân danh Nhà nước (nhân danh quyền lực
công) đối với kẻ phạm tội.
Quyền này là quyền của Nhà nước giao cho một cơ quan
thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát). Để làm được điều
này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên
cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại
phiên tòa. Và do quyền công tố là truy cứu trách nhiệm hình sự
nhân danh công quyền đối với người phạm tội nên đối tượng của
quyền công tố chỉ là phạm và người phạm tội [35, tr. 5-6].
Quan điểm thứ năm cho rằng: "Công tố là buộc tội, đưa một người ra
trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa" [11, tr. 32].
Quan điểm cuối cùng lại cho rằng: "Quyền công tố là quyền do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ
giai đoạn khởi vụ án đến giai đoạn thi hành án" [16, tr, 14].
Như vậy các quan điểm trên hoặc là đã mở rộng phạm vi quyền công
tố sang cả các lĩnh vực khác; hoặc là đã thu phạm vi quyền công tố trong một
giai đoạn cụ thể là giai đoạn Viện kiểm sát truy tố người phạm tội và thực
hiện chức năng buộc tội tại phiên tòa; hoặc coi quyền công tố là một quyền
năng cụ thể của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Nhìn chung các quan điểm
trên phần nào vẫn có những hạt nhân hợp lý, tuy nhiên các quan điểm trên vẫn
chưa phân định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền công tố,
để làm rõ được khái niệm này trước hết cần phải xuất phát từ các cơ sở lý
luận và thực tiễn sau:
- Quyền công tố là quyền lực công, xuất hiện và gắn liền với sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật: "Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà



22
nước từ Nhà nước chủ nô đến Nhà nước hiện đại" [16, tr, 118-119]. Nhà nước
ra đời và tồn tại trong một xã hội có giai cấp đối kháng không thể điều hòa
được. Đồng thời bất cứ kiểu Nhà nước nào cho dù sơ khai nhất cũng ban hành
ra pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở các mức độ khác nhau và
để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, trừng phạt những người có ý chí
chống lại giai cấp cầm quyền thông qua việc buộc tội đối với người đã thực
hiện hành vi được coi là tội phạm. Do vậy bản chất của quyền công tố chính
là quyền nhân danh Nhà nước để bảo vệ lợi ích công đó chính là sự buộc tội.
- Thiết chế Nhà nước càng phát triển ở mức độ cao thì sự phân công,
phân nhiệm các chức năng để thực hiện quyền lực công đó càng được phân
công, phân nhiệm một cách rõ ràng và cụ thể. Ở Nhà nước phong kiến trước
đây quyền công tố cũng như quá trình tố tụng của một vụ án hình sự có thể
được giao cho một người vừa có chức năng quản lý hành chính vừa có chức
năng điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình sự. Tuy nhiên xã hội ngày càng
phát triển, sự chuyên môn hóa ngày càng cao thì quyền công tố cũng được
giao cho một cơ quan có chức năng, nhiệm vụ riêng biệt để nhân danh Nhà
nước xử lý người đã thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Cơ quan đó sử
dụng các quyền năng pháp lý nhất định đó được gọi là cơ quan có trách nhiệm
thực hành quyền công tố.
- Quyền công tố cũng như bất kỳ một quyền (hay nhóm quyền) nào
của Viện kiểm sát luôn phải được xem xét trong mối quan hệ với tính đặc thù
của một lĩnh vực pháp luật cụ thể trong hoạt động của Viện kiểm sát. Hay nói
cách khác đây là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Xem xét khái niệm
quyền công tố trong tổng thể lĩnh vực pháp luật hình sự để thấy quyền công tố
là quyền nhân danh quyền lực công để trấn áp, hoặc công khai tố cáo với xã
hội về một hành vị bị coi là vi phạm pháp luật hình sự. Ở đây cần phải hiểu
thuật ngữ công tố với ý nghĩa là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Có nghĩa

là mọi hoạt động để thực hành quyền công tố trước hết phải nhằm mục đích
bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, nghĩa vụ chứng minh tội


23
phạm và người phạm tội thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó ở
các lĩnh vực tố tụng khác nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự.
- Bản chất của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ tố tụng hình sự
trong việc phát hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
được thể hiện ở ba chức năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử. Trong đó chức năng buộc tội là hoạt động truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hình thức
buộc tội là nhân danh Nhà nước (công quyền) giữ vai trò là động lực chính
thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia tố tụng.
Như vậy, công tố là quyền lực thuộc về Nhà nước, là quyền nhân danh
Nhà Nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi bị coi là tội phạm. Quyền này được Nhà nước giao cho một cơ
quan thực hiện trong việc phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ để xác định tội phạm
và đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc
tội đó tại phiên tòa. Qua đó có thể xác định được đối tượng, nội dung, phạm
vi của quyền công tố. Đối tượng công tố là yếu tố mà quyền lực công tố tác
động vào nhằm đạt mục đích cụ thể của quyền công tố, đó có thể là mục đích
buộc tội được người phạm tội để trừng phạt, khôi phục trật tự pháp luật đã bị
xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị…Do vậy quyền công tố là quyền lực nhà nước, do Nhà nước đứng ra
thay mặt xã hội thực hiện việc buộc tội nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và đối tượng của quyền công tố
nhắm tới chính là tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Nội dung

của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi bị coi là
tội phạm. Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra thì
quyền công tố cũng bắt đầu xuất hiện và kết thúc khi bản án hình sự của Tòa
án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc vụ án bị đình


24
chỉ theo các quy định của pháp luật. Nó "treo lơ lửng" đối với bất kỳ người
thực hiện hành vi tội phạm nào kể cả tội phạm ẩn nếu còn thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng các
quyền năng pháp lý khác nhau để phát hiện tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội, tìm ra các chứng cứ buộc tội, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình
được Bộ luật Tố tụng hình sự giao cho để khởi động quyền công tố thì cũng
xuất hiện khái niệm thực hành quyền công tố. Đây là khái niệm có liên hệ mật
thiết với nhau bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà
nước với người thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà
nước là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm
tội. Điều đó có nghĩa là phát sinh quyền công tố và có cơ quan dùng các quyết
định cụ thể để thực hiện quyền công tố. Cơ quan được giao thực hiện quyền
công tố chính là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Vậy thực
hành quyền công tố là thực hiện hóa các quyền công tố trong đời sống xã hội.
Việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở mỗi quốc gia khác nhau thì được giao
cho các cơ quan khác nhau, từ đó vị trí, vai trò, phạm vi hoạt động của cơ
quan thực hành quyền công tố ở mỗi nước khác nhau là khác nhau.
Để hiểu một cách đầy đủ về thực hành quyền công tố cần phải xác
định rõ phạm vi của thực hành quyền công tố. Có thể xác định được phạm vi
thực hành quyền công tố trùng với phạm vi của quyền công tố có nghĩa là
phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến

khi bản án hình sự được tòa án xét xử có hiệu lực pháp luật không bị kháng
cáo, kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật. Tuy
nhiên thực tế thì không phải bất kỳ vụ án nào xảy ra các cơ quan bảo vệ pháp
luật cũng có thể phát hiện ra để xử lý một cách kịp thời. Đây là mối quan hệ
giữa khả năng và việc thực hiện hóa khả năng, giữa Nhà nước trao quyền và
việc thực hiện quyền lực đó trên thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


25
Việc xác định rõ khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố là cơ sở
xác định nội dung thực hành quyền công tố. Đó là hoạt động của Viện kiểm
sát trong việc ban hành các quyết định tố tụng, trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra, ra các yêu cầu điều tra đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng…trong việc giải quyết một vụ án
hình sự nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị
coi là tội phạm, bao gồm các hoạt động cụ thể của quyền công tố như khởi tố
vụ án, khởi tố bị can; ban hành các lệnh, quyết định, yêu cầu hay trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra; đọc cáo trạng, xét hỏi, tranh luận, luận tội…
Như vậy: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử" [2, tr. 11].
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự
Thuật ngữ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" lần đầu tiên trong lịch
sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980,
được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981, Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988. Đến thời điểm năm 2001, đã
xuất hiện cụm từ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" - Điều 137 Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân (Viện kiểm sát nhân

dân tối cao) thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [32].
Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 quy định: "Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật" [33]. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 lại tiếp tục
sử dụng cụm từ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật". Mặc dù là những thuật ngữ
được ghi nhận trong nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước và


26
trên thực tế đã được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, nhưng cho đến nay
vẫn chưa có một văn bản pháp lý chính thức nào định nghĩa về "kiểm sát việc
tuân theo pháp luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Như vậy, trong lĩnh
vực tố tụng hình sự, tồn tại đồng thời hai thuật ngữ rất dễ bị nhầm lẫn: "kiểm
sát việc tuân theo pháp luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Trước hết
ta làm rõ khái niệm kiểm sát. Có quan điểm cho rằng kiểm sát các hoạt động
tư pháp: "Là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại chủ thể
kiểm sát - Viện kiểm sát, với quyền năng kiểm sát và phương thức kiểm sát
riêng biệt. Tuy nhiên, kiểm sát ở tầng nghĩa phổ thông, là kiểm tra việc chấp
hành pháp luật của Nhà Nước" [27, tr. 43]. Nếu theo cách hiểu như vậy, trong
tố tụng hình sự, còn có rất nhiều chủ thể khác cũng có quyền và nghĩa vụ
"kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước" và có thể coi là hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Bên cạnh đó chúng ta
cần làm rõ khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự"
và khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự", cho đến
nay, khoa học pháp lý cũng như thực tiễn đời sống chính trị - pháp lý đều thừa
nhận hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền tư pháp, tuy nhiên về
phạm vi, chủ thể thực hiện quyền tư pháp còn có những quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Quyền tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước được thực

hiện qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp lý
của hành vi, quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về quyền, lợi
ích giữa các chủ thể pháp luật, do vậy, chủ thể thực hiện quyền tư
pháp chỉ là Tòa án và hoạt động xét xử [12, tr. 11].
Đây là quan niệm về quyền tư pháp theo nghĩa hẹp.
Cũng có quan điểm cho rằng:
Tư pháp là xét xử, giải quyết các tranh chấp trong xã hội,
thực hiện quyền tư pháp là thay mặt Nhà nước phán quyết về xung đột


27
pháp lý, vi phạm pháp luật do Tòa án tiến hành. Nhưng để đi đến
các phán quyết đó cần có sự tham gia của nhiều cơ quan. Do vậy
hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, các
cơ quan thực hiện một số hoạt động tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư
pháp (giám định tư pháp, công chứng tư pháp, luật sư) [15, tr. 27-28].
Đây là quan niệm về quyền tư pháp theo nghĩa rộng.
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện những chức năng,
thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông
qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước
Pháp quyền biến thành hiện thực, có bốn hình thức cơ bản là: Hoạt
động giải thích các quy phạm pháp luật, hoạt động xét xử (tài
phán), hoạt động kiểm tra tính hợp pháp trong việc áp dụng các chế
tài về hành chính, tố tụng hình sự và hình sự của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, hoạt động xác nhận sự kiện (hành vi) có ý nghĩa pháp lý
trong đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng của
các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội hoặc
làm hạn chế quyền chủ thể tương ứng của các công dân trong quá
trình giải quyết các mối quan hệ xã hội [3, tr. 14].

Các quan điểm nêu trên đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý về
quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và chủ thể thực hiện quyền tư pháp đó là
hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước, gắn với giải quyết vụ án hoặc
các tranh chấp pháp luật, được Nhà nước giao cho các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành, trong đó xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp, kết quả
của việc xét xử là Tòa án ra bản án, kết luận về một sự kiện pháp lý, hành vi
pháp lý của vụ việc. Do vậy, có thể xác định hoạt động tư pháp là: Hoạt động
thực hiện Quyền lực nhà nước về tư pháp, có chủ thể là các cơ quan tư pháp,
bao gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, gắn


28
với quá trình giải quyết vụ án, vụ việc cụ thể và tuân theo những nguyên tắc
đặc thù, những quy trình, thủ tục tố tụng chặt chẽ, bảo đảm việc việc giải quyết
được chính xác, khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng xã
hội. Bên cạnh đó còn xuất hiện khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật".
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tố tụng hình sự là toàn bộ
quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và
thi hành án. Nói cách khác, tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá
nhân, cơ quan, tổ chức nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh
chóng, chính xác và đúng pháp luật. Các hoạt động tố tụng hình sự bao gồm:
- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự:
Là hoạt động của các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Đây
là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện thông qua
hoạt động của người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là những công
chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng,
có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự.

- Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động
của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
(người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của người tham
gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch).
- Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện


29
pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng
Như vậy, trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động tố tụng
hình sự.
Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong lĩnh vực tố tụng hình
sự, có thể coi là các hoạt động tố tụng hình sự, do đó, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự là kiểm sát tất cả các hoạt động của các chủ
thể nêu trên.
Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, quyền lực là hiện tượng
khách quan trong quan hệ xã hội, quyền lực nhà nước dù được tổ chức theo
nguyên tắc nào, phân công hay phân quyền thì hoạt động tư pháp cũng là hoạt
động thực hiện quyền lực nhà nước, một trong những sự giám sát Nhà nước
về tư pháp. "Kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện
kiểm sát, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho
pháp luật tố tụng hình sự thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất" [37, tr. 22]. Về
bản chất thì kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên có một số điểm khác biệt

giữa "kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự" và "kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự" ở phạm vi, đối tượng kiểm sát, cụ thể:
- Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do các cơ
quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp
chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền
lực nhà nước. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự hay
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố tụng hình sự không
chỉ là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm
cả những hoạt động của các cơ quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư
pháp, hoạt động của những người tham gia tố tụng, không mang tính quyền
lực nhà nước.

×