Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 97 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGÔ THANH SƠN



BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH LÊ VĂN CẢM


HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Ngô Thanh Sơn

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC
CHỮA BỆNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7
1.1. Vài nét về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể của
tội phạm trong pháp luật hình sự 8
1.1.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự 10
1.1.2 Năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế 16
1.1.3. Năng lực trách nhiệm hình sự trong tình trạng say do dùng rượu hay

dùng chất kích thích mạnh khác 18
1.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa
bệnh trong luật hình sự 19
1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự 19
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự 21
1.3. Sơ lƣợc các quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong lịch
sử lập pháp hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 của nƣớc ta 27
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1985 27
1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta 28
1.4. Các quy định có liên quan về biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong
pháp luật hình sự của một số nƣớc trên thế giới 29



Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH. PHÂN
BIỆT BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH VỚI CÁC CHẾ
TÀI PHÁP LÝ HÌNH SỰ VÀ PHI HÌNH SỰ KHÁC 32
2.1. Khái quát quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
năng lực trách nhiệm hình sự 32
2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp
bắt buộc chữa bệnh 41
2.3. Phân biệt biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong pháp luật hình sự
với các chế tài pháp pháp lý hình sự và phi hình sự khác 53
2.3.1. Với hình phạt 54
2.3.2. Với chế tài hành chính 58


Chƣơng 3: THỰC TIẾN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH 61
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành của các cơ quan tiến hành tố tụng
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến năm 2012 61
3.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự về biện pháp
bắt buộc chữa bệnh 77
3.2.1. Về lập pháp 77
3.2.2. Về thực tiễn 80
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
về biện pháp bắt buộc chữa bệnh 82

KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BPBBCB: Biện pháp bắt buộc chữa bệnh
CSĐT: Cảnh sát điều tra
CHXHCN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
LXLVPHC: Luật xử lý vi phạm hành chính
NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự
PLHS: Pháp luật hình sự
PLXLVPHC: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính

STT: Số thứ tự
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTLT: Thông tư liên tịch
THA: Thi hành án
TNHS: Trách nhiệm hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao











1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, một trong những mục tiêu đề ra và được thể hiện xuyên suốt trong
quá trình lập pháp nói chung và lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng đó
là chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, trừng trị, giáo dục,
cảm hoá người phạm tội, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội trong đó
giáo dục, phòng ngừa tội phạm là chủ yếu. Việc nghiên cứu để đưa ra các cơ chế

pháp lý vừa nhằm đấu tranh phòng và chống tội phạm một cách hữu hiệu, vừa đảm
bảo các quyền và tự do của con người và của công dân trên thực tế bằng các biện
pháp cưỡng chế của hệ thống tư pháp hình sự không chỉ là những nhiệm vụ cơ bản
của hoạt động lập pháp, mà còn là hướng nghiên cứu quan trọng của khoa học pháp
lý nước ta. Bởi lẽ, với chức năng của mình các biện pháp cưỡng chế của hệ thống tư
pháp hình sự có liên quan thiết thực hàng ngày đến một số quyền cơ bản của công
dân - đến các giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung đã nêu trong một xã
hội có tính nhân bản cao [43, tr.3], đồng thời dựa vào đó cho phép đánh giá mức độ
dân chủ và pháp chế trong bất kỳ một quốc gia nào. Trong số các biện pháp cưỡng
chế ấy của hệ thống tư pháp hình sự thì biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh sau
đây gọi là biện pháp bắt buộc chữa bệnh (BPBBCB) trong Bộ luật hình sự có chức
năng rất quan trọng. Với tư cách là chế định độc lập, BPBBCB đã được các nhà làm
luật nước ta ghi nhận tại Điều 43, 44 của Bộ luật hình sự 1999.
Việc quy định BPBBCB trong pháp luật hình sự thể hiện phương châm đúng
đắn trong việc thực hiện chính sách hình sự nước ta đó là sử dụng tối đa, đồng bộ
mọi biện pháp để tác động đến việc giáo dục người phạm tội, hình phạt không phải
là phương tiện, công cụ duy nhất trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Tất cả các biện pháp cưỡng chế hình sự cũng đều nhằm mục đích giáo dục
người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của sự tác
động hình sự đối với tội phạm.

2
Trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong thời gian
qua đã cho thấy, vì các lý do chủ quan và khách quan khác nhau nên Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành nói chung và chế định BPBBCB nói riêng đã bộc lộ những
nhược điểm nhất định trong việc thực hiện chức năng của mình. Do đó, hiện nay để
đảm bảo cho sự vận hành đồng bộ của hệ thống tư pháp hình sự nhằm đạt được hiệu
quả cao trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, việc tiếp tục nghiên cứu
một cách đồng bộ và có hệ thống chế định này là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong bối cảnh các bài viết nghiên cứu có liên quan đến BPBBCB trong luật
hình sự Việt Nam là không nhiều và còn thiếu tính đồng bộ, trong đó đa số chỉ đề
cập một cách khái quát hoặc chỉ phân tích một vài khía cạnh của vấn đề, các cơ
quan chức năng dường như bỏ quên công tác tổng hợp, thống kê tình hình áp dụng
BPBBCB. Mặt khác, trong quá trình thu thập các số liệu có liên quan đến đề tài, khi
tác giả liên hệ với các cơ quan chức năng để được tiếp cận và thu thập số liệu thì
nhận được trả lời: i) Tòa án, Viện kiểm sát: đây là các số liệu không nằm trong chỉ
tiêu thống kê của ngành nên không thể có để cung cấp; ii) Phân viện giám định pháp
y tâm thần phía nam (Biên Hòa - Đồng Nai): đây là các số liệu hạn chế cung cấp
(Phân viện chỉ cung cấp cho các cơ quan chức năng có liên quan khi có yêu cầu)
còn đối với cá nhân như tác giả thì không được cung cấp. Chính vì những lí do đó
mà tác giả đã gặp không ít những khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài, đặc biệt
là trong việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả không
tìm thấy một tài liệu hay ấn phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu của các nhà nghiên
cứu cũng như học giả Việt Nam về vấn đề "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
trong luật hình sự Việt Nam". Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, học giả Việt
Nam có liên quan đến BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam chỉ là những nghiên
cứu dưới góc độ diễn giải, bình luận một cách khái quát đối với BPBBCB trong
công trình nghiên cứu chung về các biện pháp tư pháp theo luật hình sự Việt Nam
như: “Thực trạng quy định của pháp luật hình sự về các biện pháp tư pháp. Thực
tiễn áp dụng và một số đề xuất” [52] hoặc chỉ nhắc lại các quy định của pháp luật

3
đối với chế định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam như: “Biện pháp tư
pháp trong Luật hình sự Việt Nam và vấn đề bảo vệ quyền con người” [24]. Hay chỉ
phân tích một vài khía cạnh về biện pháp này, chẳng hạn “Bàn về áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh” [41] hay “Về bắt buộc chữa bệnh và những thiếu xót cần
khắc phục” [18]. Việc nghiên cứu BPBBCB trong luật hình sự Việt Nam một cách
tổng thể dưới gốc độ quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn
áp dụng biện pháp này của các cơ quan tố tụng trong những năm gần đây trên một

địa bàn cụ thể - địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa được thực hiện thông
qua các công trình nghiên cứu nói trên. Ngoài ra, tác giả cũng tham khảo được một
số quy định của Luật hình sự của một số nước có liên quan đến quy định về
BPBBCB như: Nga, Trung Quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đức.Vì vậy, có
thể khẳng định đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự
Việt Nam” là có tính mới và khoa học của một công trình luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu
Để đem đến một cái nhìn tổng quan về nội dung, vai trò và ý nghĩa của quy
định về "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" tác giả
sẽ nghiên cứu theo cách tiếp cận của phương pháp so sánh những quy định có liên
quan đến BPBBCB với các chế tài pháp lý hình sự và phi hình sự khác; BPBBCB
trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 là đối tượng nghiên cứu chính của tác
giả, những quy định của một vài nước cũng sẽ được tác giả nghiên cứu nhưng chỉ
dừng lại ở mức độ tham khảo và minh họa. Một cách chi tiết hoá, trong phạm vi của
đề tài, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu ba nội dung:
(i) Những vấn đề lý luận về BPBBCB theo luật hình sự Việt Nam: Với nội
dung này, tác giả tập trung làm rõ khái niệm BPBBCB, nội dung của các quy định
có liên quan đến BPBBCB trong pháp luật hình sự Việt Nam, cơ sở lý luận về vấn
đề này của Bộ luật hình sự Việt Nam.
(ii) Thực tiễn áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999: Trong nội dung này, tác giả hướng tới việc nghiên cứu hoạt động áp dụng
BPBBCB trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay

4
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh; cụ thể là kỹ năng cá biệt hoá
quy định về “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999”, khả năng áp dụng biện pháp này của các cơ quan tư pháp hình
sự và tác dụng của việc áp dụng biện pháp này đến hiệu quả của hoạt động đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
(iii) Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng BPBBCB trong

Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999: Trong nội dung này, tác giả hướng tới việc
nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về BPBBCB trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong
việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Qua việc làm rõ những nội dung trên, tác giả mong muốn hoạt động nghiên
cứu của mình sẽ góp phần làm rõ quy định có liên quan đến BPBBCB trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999. Đồng thời luận văn này cũng trình bày một số quy
định có liên quan đến BPBBCB của một vài nước, điều này sẽ giúp cho chúng ta có
thể đánh giá ưu, nhược điểm của các quy định về BPBBCB trong Bộ luật hình sự
hiện hành và học hỏi kinh nghiệm của các nước từ đó giúp cho hoạt động áp dụng
BPBBCB đạt hiệu quả mong muốn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Ở một luận văn Thạc sĩ Luật, đề tài này sẽ nghiên cứu vấn đề về BPBBCB
theo quy định của pháp luật hình sự của Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu
vấn đề BPBBCB trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Nghĩa là đề tài giới hạn
phạm vi nghiên cứu trong khuôn khổ quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 về BPBBCB.
Trong giới hạn của đề tài, tác giả sẽ nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành về BPBBCB và thực tiễn áp dụng biện pháp này trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến 2012.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm đạt được nội dung và mục đích của việc nghiên cứu đề tài sử dụng chủ
yếu hai phương pháp là: phương pháp phân tích - tổng hợp và phương pháp so sánh.

5
a. Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để diễn giải nội hàm của khái niệm
BPBBCB và để làm rõ các quy định có liên quan của pháp luật hình sự Việt Nam, tác
giả sử dụng phương pháp phân tích trong quá trình trình bày những nội dung này.
Phương pháp phân tích sẽ được sử dụng kết hợp cùng với phương pháp tổng hợp nhằm
giúp cho từng nội dung được trình bày trở nên logic và có căn cứ. Tác giả sẽ tổng hợp

và phân tích các thông tin từ các nguồn khác nhau bao gồm các văn bản pháp quy, các
tài liệu chuyên ngành như các bài nghiên cứu, sách, báo chuyên ngành,
b. Phương pháp so sánh: Với mục đích nghiên cứu các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam liên quan đến BPBBCB với một số chế tài pháp lý hình sự và phi
hình sự vài khác, cũng như trong quá trình nghiên cứu tác giả cũng trình bày một số
quy định có liên quan đến BPBBCB của một vài nước, phương pháp so sánh là
phương pháp thích hợp để thực hiện mục tiêu trên.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
BPBBCB đóng vai trò rất quan trọng trong đó có liên quan đến việc xác định
năng lực trách nhiệm hình sự của người bị áp dụng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài
"Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam" có ý nghĩa
thực tiễn rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay. Song những quy định này vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức
trong thực tiễn khoa học pháp lý tại Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu những quy
định của pháp luật về "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự
Việt Nam" là một nhu cầu bức thiết và mang tính thực tiễn cao hiện nay.
Luận văn này đề cập việc nghiên cứu và đánh giá một cách tương đối toàn
diện về quy định "Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt
Nam" thông qua việc làm rõ khái niệm BPBBCB, điều kiện cần và đủ để áp dụng
biện pháp này và so sánh các căn cứ để áp dụng BPBBCB trong Bộ luật hình sự
Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu cách thức vận dụng biện pháp này
trong thực tiễn trên phạm vi địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để minh chứng cho
tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Với vai trò là biện pháp
cưỡng chế trong pháp luật hình sự, việc nghiên cứu các quy định về "Biện pháp tư

6
pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam " sẽ có ý nghĩa thực tiễn rất
lớn vì nó đưa ra các căn cứ pháp lý cho việc áp dụng BPBBCB trong quá trình đấu
tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục của luận văn

Với mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ được
bố cục thành ba phần gồm Lời nói đầu, phần nội dung gồm ba chương và Kết luận.
Cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và thực tiễn áp dụng trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh.
Kết luận












7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


Trong pháp luật hình sự tội phạm có thể được hiểu một cách ngắn gọn là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Do đó tội phạm trước hết phải là một hành vi. Chính vì vậy, tội phạm bao giờ cũng
được thực hiện bởi chủ thể xác định. Hay nói cách khác, không thể có hành vi xuất
hiện ngoài thế giới khách quan mà không có chủ thể thực hiện. Các tác động trong
thế giới vật chất gây nên những thiệt hại đáng kể như sóng thần, động đất, lũ lụt,
sấm sét, xảy ra trong tự nhiên thì không được coi là hành vi. Theo từ điển giải
thích thuật ngữ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội thì: Hành vi là toàn bộ những
phản ứng, cách xử sự ra bên ngoài của một con người trong một hoàn cảnh cụ thể
[47, tr.23]. Do vậy, tội phạm trước hết phải có chủ thể thực hiện. Luật hình sự trong
mọi thời điểm lịch sử đều xây dựng trên cơ sở nguyên tắc này. Chủ thể của tội phạm
cùng với các yếu tố khác như khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan của tội
phạm cấu thành nên tội phạm. Do đó, để xác định một hành vi nào đó có phải là tội
phạm hay không cần phải xem xét đến việc hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành
tội phạm như nói trên hay không? Nếu không có đầy đủ các yếu tố đó thì không thể
coi đó là tội phạm và do đó không thể truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với
người thực hiện hành vi đó. Mặt khác, để trở thành chủ thể của tội phạm, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý hay vô ý cần phải: có năng
lực TNHS (1), đạt độ tuổi nhất định theo Luật hình sự quy định (2). Đây là hai dấu
hiệu pháp lý bắt buộc trong chủ thể của tội phạm ở mọi cấu thành tội phạm. Trong
đó, đặc điểm có năng lực TNHS là điều kiện cần thiết cho chủ thể có lỗi khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Vì vậy sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu chúng ta nghiên cứu về BPBBCB mà
không đề cập đến những quy định về năng lực TNHS trong pháp luật hình sự Việt
Nam. Do đó trước khi đi vào nghiên cứu về BPBBCB trong BLHS 1999 tác giả

8
muốn cung cấp một cái nhìn tổng quát về năng lực TNHS để từ đó làm nền tảng cho
việc nghiên cứu BPBBCB một cách toàn diện nhất.
1.1. Vài nét về vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể của tội

phạm trong pháp luật hình sự
Khả năng của một người vào tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội họ nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và điều khiển
được hành vi đó thì được xem là có năng lực TNHS.
Do đó, có thể nói năng lực TNHS là năng lực của người có trạng thái sức
khỏe bình thường để hoàn toàn có khả năng nhận thức được tính chất thực tế
(tính nguy hiểm cho xã hội) và tính chất pháp lý (tính chất trái pháp luật hình sự)
của hành vi do mình thực hiện và điều khiển được hành vi ấy. Cũng cần lưu ý
rằng năng lực TNHS không đòi hỏi ở người thực hiện hành vi nhận thức được
tính chất pháp lý của hành vi, cụ thể như các trường hợp sai lầm về pháp luật thì
vẫn phải chịu TNHS. Trong trường hợp này chỉ đòi hỏi ở người thực hiện hành
vi nhận thức về tính thực tế và tính xã hội của hành vi. Năng lực TNHS là khả
năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và khả năng điều
khiển hành vi đó theo những đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Chỉ một người
nhận thức và điều khiển được hành vi của mình trong khi thực hiện tội phạm mới
bị coi là có lỗi và mới có khả năng tiếp thu những biện pháp tác động giáo dục
của xã hội và khi đó Nhà nước mới đặt ra vấn đề giáo dục, cải tạo họ. Một người
mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình trong khi thực hiện tội
phạm thì họ không có lỗi và không có khả năng cải tạo, giáo dục và không thể
trở thành chủ thể của tội phạm [49, tr.105].
Sống trong xã hội luôn luôn vận động và với cấu tạo sinh học đặc biệt vốn có
của con người đã có khuynh hướng hình thành và phát triển năng lực nói trên. Tuy
nhiên, trong thực tế cần phải trải qua quá trình hoạt động và dưới sự tác động nhất
định của giáo dục trong môi trường xã hội thì khả năng đó mới được hình thành một
cách đầy đủ. Đây cũng chính là một trong những lý do của việc quy định độ tuổi
chịu TNHS trong BLHS. Năng lực này có thể bị loại trừ hoàn toàn hay bị hạn chế

9
nếu tình trạng hoạt động của hệ thần kinh trung ương bị rối loạn do bệnh tật. Bởi
những lý do đó mà ngoài việc quy định độ tuổi phải chịu TNHS trong pháp luật

hình sự còn có quy định về tình trạng không có năng lực TNHS.
Như đã trình bày và phân tích ở phần trên, năng lực TNHS của một người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội gồm hai dấu hiệu: thứ nhất, khả năng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi; thứ hai, khả năng điều
khiển hành vi đó.
Thứ nhất, về khả năng nhận thức: bộ não người là cơ sở vật chất vốn có đầu
tiên của con người để hình thành và phát triển ý thức. Tuy nhiên, không phải khi
con người được sinh ra đã có thể nhận thức được về tự nhiên, về xã hội, về chính
bản thân mình mà khả năng này được hình thành là kết của quá trình sống, hoạt
động trong xã hội với một thời gian nhất định. Trong quá trình đó con người được
lao động, học tập, được giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội, con người được
giao lưu học hỏi, qua đó con người tiếp thu được những tri thức, những kinh
nghiệm sống và dần dần mới hình thành nên khả năng nhận thức của mình. Khi con
người có được khả năng nhận thức nhất định thì khi đó con người mới hiểu được
quyền và nghĩa vụ của mình trong cuộc sống cộng đồng, mới hiểu được những đòi
hỏi tất yếu của bản thân họ đối với cuộc sống xã hội, từ đó mới có cơ sở đánh giá
được ý nghĩa thực tế cũng như ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện. Và
hơn nữa, khi họ thực hiện một hành vi đi ngược lại với lợi ích của xã hội, xâm phạm
đến lợi ích của cộng đồng, của người khác và hành vi đó được pháp luật hình sự quy
định là tội phạm thì họ mới có thể nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà họ đã thực hiện. Để đánh giá được nhận thức này cần phải đánh giá
thông qua nhận thức của con người đó về các yếu tố của hành vi, những yếu tố tạo
nên tính nguy hiểm của hành vi cũng như tính chất xã hội của hành vi đó. Chẳng
hạn như: kiến thức, trình độ chuyên môn; cách thức mà người đó tiến hành; kinh
nghiệm sống; công cụ, phương tiện mà người đó sử dụng; đối tượng mà người đó có
hành vi tác động xâm phạm, Có thể nói khi nhận thức được những vấn đề đó thì
cũng chính là năng lực nhận thức của người phạm tội khi họ thực hiện tội phạm.

10
Thứ hai, về khả năng điều khiển hành vi: Khả năng điều khiển hành vi được

thể hiện thông qua khả năng được lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi của
mình trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Năng lực điều khiển hành vi của con
người trước hết được thể hiện ở chính năng lực của con người đó có khả năng lựa
chọn, cân nhắc, quyết định và thực hiện các biện pháp xử sự khi họ đứng trước
những biện pháp xử sự khác nhau trong đó có cả biện pháp xử sự hợp pháp hoặc
không hợp pháp và trong đó có cả biện pháp xử sự gây thiệt hại hoặc không gây
thiệt hại. Và trong trường hợp đó nếu người đó lựa chọn biện pháp xử sự gây thiệt
hại cho xã hội thì họ phải chịu TNHS về sự tự lựa chọn của mình. Do vậy, khả năng
điều khiển hành vi của người phạm tội có thể hiểu là khả năng cân nhắc, lựa chọn
và quyết định thực hiện hành vi. Và khả năng này xuất phát từ khả năng nhận thức
của người phạm tội.
Tuy nhiên, không phải ai khi được sinh ra, lớn lên và đạt đến một độ tuổi
nhất định cũng đều có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển được hành vi của
mình mà thực tế trong cuộc sống có một số trường hợp hai khả năng này có thể bị
loại trừ hoặc bị giảm sút do mắc các loại bệnh làm rối loạn hệ thần kinh trung ương.
Vì lý do đó mà trong khoa học Luật hình sự còn tồn tại tình trạng không có năng lực
TNHS và TNHS hạn chế.
1.1.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Như đã phân tích, người có trạng thái tâm sinh lý hoàn toàn bình thường sẽ
có năng lực TNHS khi đạt đến độ tuổi nhất định (tuổi chịu TNHS). Tuy nhiên, năng
lực này có thể sẽ không có hay có thể bị loại bỏ một phần hoặc toàn bộ do mắc một
số bệnh gây rối loạn hoạt động của não bộ. Vì vậy, có thể nói người không ở trong
tình trạng không có năng lực TNHS và TNHS hạn chế thì được xem là người có
năng lực TNHS. Trong thực tiễn áp dụng Luật hình sự việc kiểm tra điều kiện này
chỉ đặt ra đối với những trường hợp khi có căn cứ, chứng cứ nhất định để nghi ngờ
về hoạt động tâm thần của người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.
Để xác định một người không có năng lực TNHS, thông thường có hai dấu
hiệu để xác định: thứ nhất, dấu hiệu y học (mắc bệnh); thứ hai, dấu hiệu tâm lý (mất
khả năng nhận thức hay khả năng điều khiển hành vi).


11
Về dấu hiệu y học: Người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và các bệnh này có thể là mãn
tính hoặc đột ngột nhất thời. Trong đó có thể kể đến một số bệnh tâm thần như: tâm
thần kinh niên (là nhóm bệnh tâm thần mang tính liên tục, lâu dài, khó chữa trị, có
xu hướng tiến triển ngày cành nặng) hoặc rối loạn tâm thần tạm thời (đó là những
bệnh tâm thần xuất hiện một cách đột ngột, phát triển nhanh diễn ra trong một thời
gian ngắn, làm rối loạn nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, làm quên từng
phần hoặc hoàn toàn sự kiện xảy ra trong thời gian mắc bệnh và kết thúc bằng việc
hồi phục hoàn toàn (như xung động đốt nhà, xung động trộm cắp ) [49, tr.108].
Ngoài ra còn có các loại bệnh như: Bệnh si ngốc (ngu, đần, thộn) hoặc hoạt động
tinh thần bị rối loạn do các bệnh khác như sốt rét ở nhiệt độ quá cao gây mê sảng,
tình trạng bệnh khác là tình trạng bệnh tật không liên quan đến rối loạn tâm thần
kinh niên hay tạm thời, nhưng cũng ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình, đó là những người mắc bệnh như rối loạn tuần hoàn,
nhiễm khuẫn trong sọ não, u trong sọ não
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy hiện nay có rất nhiều loại
bệnh tâm thần làm cho người mắc bệnh rơi vào trình trạng mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi và trên cơ sở các tài liệu của các nhà nghiên cứu
về tâm thần học bao gồm: [19, tr.10; 40, tr.162; 42, tr.58; 21, tr.11; tài liệu tập huấn
“Giám định pháp y tâm thần toàn quốc lần thứ tư” của Viện Giám định pháp y tâm
thần trung ương, Bộ y tế, Nxb Y học], sau đây chúng tôi trích dẫn một số bệnh điển
hình có thể làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
người mắc bệnh, như:
a) Tâm thần phân liệt
Tên quốc tế của bệnh tâm thần phân liệt là Shizophrenia, là một bệnh loạn
thần nặng và phổ biến,bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư
duy, tri giác và cảm xúc, dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lý và nhân cách theo
kiểu phân liệt, nghĩa là mất dần tính hài hòa, thống nhất gây ra chia cắt trong các
mặt hoạt động tâm thần [21, tr.113]. Các triệu chứng đặc trưng là các rối loạn tư


12
duy, cảm xúc và hành vi bao gồm những triệu chứng âm tính và dương tính, chúng
tác động và chi phối đến hành vi của người bệnh.

Triệu chứng dương tính thường gặp như: hoang tưởng, ảo giác,…

Triệu chứng âm tính thường gặp như: vô cảm, thu hẹp các mối quan hệ xã
hội, cảm xúc cùn mòn, giảm các thích thú và ngôn ngữ nghèo nàn, thu mình lại,…
Mức độ nặng nhất của bệnh tâm thần phân liệt làm cho người bệnh bị mất
hoàn toàn ý chí cũng như không thể kiểm soát được hành vi của mình. Do đó, việc
phạm tội trong trường hợp này, người đó hoàn toàn không có lỗi.
b) Bệnh động kinh
Động kinh (epilepsy; épilepsie) là một quá trình bệnh lý mạn tính đặc trưng
bằng sự xuất hiện của ít nhất hai cơn động kinh cách nhau 24 giờ. Bệnh động kinh
có các biểu hiện lâm sàng dưới đây:
- Về tư duy: trong hình thức, hay gặp tư duy lai dai, khó chuyển chủ đề (đặc
biệt ở những bệnh nhân bị bệnh lâu năm); trong nội dung, thường gặp các định kiến
và ý định muốn trả thù.
- Về hành vi tác phong: Trong các cơn động kinh bệnh nhân có nhiều
biểu hiện rối loạn hành vi tác phong (tùy vào loại cơn động kinh mà có những
biểu hiện đặc trưng).
- Người bệnh bị mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi
trong các trường hợp sau đây:
 Trong cơn động kinh tâm thần
 Cơn xung động động kinh
 Cơn rối loạn ý thức kiểu hoàn hôn (thường xảy ra sau cơn động
kinh toàn bộ cơn lớn)
 Sa sút trí tuệ do động kinh.
Do vậy, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc các trường hợp bị

mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do bệnh động kinh gây ra
thì được xem là không có lỗi.

13
c) Rối loạn tâm thần thực tổn
Theo ngôn ngữ hiện nay thuật ngữ loạn thần thực tổn bao gồm tổn thương
thực thể tại não (nguyên phát) và tổn thương thực thể ngoài não (thứ phát). Để dễ
dàng phân biệt về mặt lâm sàng thì những tổn thương ngoài não có ảnh hưởng đến
chức năng hoạt động của não người ta gọi là loạn thần triệu chứng, còn những tổn
thương trong não gây ra rối loạn tâm thần thì gọi là loạn thần thực tổn.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm thần thực tổn, qua biểu hiện
lâm sàng của bệnh và tùy thuộc vào tiến triển bệnh cơ thể có thể nêu ra các nguyên
nhân sau đây:

Các bệnh nguyên phát tại não: U não, viêm não, áp xe não, tai biến
mạch máu não, teo não, xơ não, chấn thương sọ não

Các bệnh không nhiễm khuẩn: Loét dạ dày tá tràng; teo gan cấp, thoái
hóa gan não (bệnh Wilson); tăng urê huyết; suy tim, nhồi máu cơ tim; loạn dưỡng
do thiếu ăn; thiếu vitamine PP, thiếu iốt

Các bệnh nhiễm khuẩn: Viêm nội tâm mạc bán cấp (bệnh Osler); bệnh
cúm, thương hàn, viêm phổi, lao phổi; viêm gan, sốt rét ác tính nhiễm trùng hậu sản
Bệnh rối loạn tâm thần thực tổn làm cho người bệnh rơi vào tình trạng bị thu
hẹp dần khả năng nhận thức do não bộ bị ảnh hưởng bởi bệnh tật. Từ đó làm cho
người bệnh có những triệu chứng rối loạn hoang tưởng, rối loạn cảm xúc, ảo
giác,…điều này thường hay dẫn đến khả năng làm cho người bệnh có tình trạng
cảm giác về những việc không có thật đang xảy ra, không nhận thức được tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, đặc biệt là thường sống trong trạng
thái hoang tưởng rất dễ dẫn đến khả năng thực hiện hành vi nguy hiểm cho người

khác và cho bản thân họ. Hậu quả của việc thực hiện hành vi bị quyết định và chi
phối bởi yếu tố bệnh lý làm cho ý thức bị suy giảm. Do đó trong trường hợp này đã
loại trừ yếu tố lỗi của người bệnh khi họ thực hiện hành vi.
d) Rối loạn hoang tưởng
Rối loạn hoang tưởng có tên quốc tế là Delusional Disorder là một dạng rối
loạn tâm thần làm cho người bệnh có những ý tưởng, phán đoán sai lầm, không phù

14
hợp với thực tế khách quan nhưng người bệnh cho là hoàn toàn chính xác, không
thể giải thích phê phán được và chỉ mất đi khi bệnh thuyên giảm.
Các triệu chứng đặc trưng của bệnh rối loạn hoang tưởng:
 Người bệnh có thái độ đa nghi luôn luôn ngờ vực, lo ngại quá đáng việc
bị người khác tấn công. Vì thế, luôn giữ một khoảng cách đối với người đang nói
chuyện với mình. Đôi khi khoảng cách đó được biểu hiện bằng sự khiêm tốn thái
quá, hoặc bằng một sự hung hăng.
 Độc đoán, không có khả năng tự đánh giá bản thân, không cởi mở tiếp
nhận quan điểm của người khác.
 Người bệnh thường đa nghi, kiêu ngạo chuyên quyền, không có tính
khoan dung, luôn coi thường người khác, coi mình là trung tâm.
Có thể chia rối loạn hoang tưởng thành các loại sau đây: hoang tưởng được
yêu, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng bị hại (truy hại),
Trên thực tế, trong các dạng rối loạn hoang tưởng trên đây thì rối loạn hoang
tưởng bị hại (truy hại) chiếm tỉ lệ cao nhất trong số các bệnh nhân bị mắc chứng
bệnh rối loạn hoang tưởng. Do luôn trong trạng thái tâm lý có người âm mưu xác
hại hoặc chống lại mình nên đây là dạng rối loạn hoang tưởng dễ dẫn đến việc thực
hiện tội phạm của người bệnh. Việc sử dụng bạo lực đối với những người mà người
bệnh cho là đang có ý định chống lại mình là do có sự tác động của yếu tố bệnh tật
mang lại (ảnh hưởng của những khiếm khuyết về thần kinh). Do đó, người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh

khác đều làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của người mắc bệnh, mà còn tuỳ thuộc vào tình trạng bệnh của mỗi người và trong
mỗi giai đoạn khác nhau thì khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của
người mắc bệnh được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Để có thể xác định một
người có rơi vào tình trạng không có năng lực TNHS hay không trong thực tế cần
phải dựa vào dấu hiệu thứ hai đó chính là dấu hiệu tâm lý hay còn được gọi là dấu
hiệu pháp lý.

15
Về dấu hiệu tâm lý (dấu hiệu pháp lý): Đây là dấu hiệu nói lên mức độ nghiêm
trọng của sự rối loạn tâm thần với ý nghĩa là hậu quả của một trong các bệnh lý làm
rối loạn thần kinh [50, tr.109]. Tâm lý của người trong tình trạng không có năng lực
TNHS được thể hiện ở hai dấu hiệu: dấu hiệu lý trí và dấu hiệu ý trí. Dấu hiệu về lý
trí của người không có năng lực TNHS được hiểu là ở người đó không có hay mất
khả năng nhận thức đối với hành vi của mình; còn dấu hiệu về ý chí được hiểu là ở
người đó không có hay mất khả năng điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để
xác định một người có ở trong tình trạng có năng lực TNHS hay không. Trong đó,
dấu hiệu y học có vai trò như là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý là hậu quả. Tuy
nhiên, không phải mọi trường hợp khi một người bị mắc bệnh tâm thần cũng đều
mất đi khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Nghĩa là có những
trường hợp mắc bệnh tâm thần có thể làm mất đi khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi, nhưng cũng có trường hợp năng lực này chỉ mất đi theo từng
giai đoạn, không mang tính liên tục và cũng có những trường hợp không làm mất đi
năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của người mắc bệnh.
Khi có căn cứ nghi ngờ về tình trạng năng lực TNHS của một người đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định
với sự giúp đỡ của giám định pháp y tâm thần. Hoạt động giám định pháp y tâm
thần đưa ra kết luận người thực hiện hành vi đó có mắc bệnh hay không, tính chất,
mức độ và ảnh hưởng của bệnh đối với khả năng nhận thức và khả năng điều khiển

hành vi của họ như thế nào, cũng như tình trạng bệnh tật của người đó vào tại thời
điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hay nói cách khác để xác định tình
trạng năng lực TNHS của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải căn
cứ vào kết luận của cơ quan giám định pháp y tâm thần (để kiểm tra người đó có
mắc bệnh tâm thần hay không? Khi thực hiện hành vi có trong trạng thái mắc bệnh
không? Nếu có mắc bệnh thì bệnh đó ảnh hưởng đến năng lực nhận thức và năng
lực điều khiển hành vi của người đó như thế nào ?[30, tr.61].
Trong thực tế, thông thường một người bị mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã

16
hội của hành vi thì cũng mất đi năng lực điều khiển hành vi. Tuy nhiên, cũng có khi
năng lực nhận thức còn tồn tại nhưng không có khả năng điều khiển hành vi, không
có khả năng kiềm chế việc thực hiện những hành vi trái với các chuẩn mực xã hội
do mắc bệnh. Song, cả hai tình trạng nêu trên cũng đều thuộc tình trạng không có
năng lực TNHS.
1.1.2 Năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế
Một người tuy bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác nhưng bệnh đó không
làm cho họ mất đi hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình, có nghĩa là họ vẫn có khả năng đó tuy nhiên ở mức độ không được như
người bình thường khác, nghĩa là trạng thái bệnh của họ nằm trong khoảng giữa của
năng lực TNHS của người bình thường và người không có năng lực TNHS.
Như vậy, nếu do mắc bệnh và bệnh này làm cho năng lực nhận thức hoặc
năng lực điều khiển hành vi bị giảm sút nhưng không mất hoàn toàn, một người
thực hiện tội phạm trong tình trạng ấy thì được coi là có năng lực TNHS hạn chế,
nghĩa là khi phạm tội người đó có mắc bệnh mà bệnh ấy làm cho họ nhận thức một
cách không đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như hậu quả
của hành vi mà họ gây ra thì được xem là người mắc bệnh và bệnh này làm hạn chế
khả năng nhận thức. Tình trạng bệnh làm cho họ trong trạng thái nửa tỉnh, nửa mê
hoặc cũng có thể trong trạng thái nhận thức được đầy đủ hành vi của mình nhưng họ
không thể điều khiển được hành vi (như: muốn nói nhưng không thể nói được;

muốn chống lại nhưng không thể chống lại được) hoặc tuy có điều khiển được hành
vi nhưng hành vi đó không theo như ý muốn của họ (hạn chế về hoạt động cơ học
của cơ thể), ví dụ: Tài xế đang điều khiển xe ôtô lưu thông trên đường bỗng dưng bị
lên cơn sốt cấp tính nên tài xế không đủ sức khỏe để điều khiển xe, dẫn đến tai nạn.
Pháp luật hình sự chỉ thừa nhận và giảm nhẹ hình phạt cho người có bệnh bị
hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nếu như
căn bệnh đó do bẩm sinh hoặc do những tác động khách quan đưa đến, nếu do họ tự
gây ra thì không được giảm nhẹ [35, tr.204]. Thực hiện tội phạm trong tình trạng
năng lực TNHS hạn chế có ảnh hưởng đến mức độ lỗi, vì vậy đó có thể xem xét là

17
tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 46 BLHS hiện
hành: “người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình”. Tuy nhiên, để được xem là tình tiết giảm nhẹ
TNHS thì hành vi mà họ đã thực hiện phải gắn liền với tình trạng hạn chế khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ tại thời điểm thực hiện hành vi,
nghĩa là nếu trong khi thực hiện hành vi phạm tội họ chưa mắc bệnh mà sau khi
thực hiện hành vi phạm tội thì họ mới mắc bệnh hoặc tuy trước đó họ mắc bệnh
nhưng đến khi thực hiện hành vi họ đã khỏi bệnh, sau khi thực hiện hành vi phạm
tội họ lại bị mắc bệnh do tái phát thì trong trường hợp này không được xem là tình
tiết giảm nhẹ TNHS.
Tình trạng năng lực TNHS bị hạn chế và mất năng lực TNHS chỉ khác nhau
ở mức độ ảnh hưởng của bệnh đối với khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của người bệnh tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội. Nếu loại bệnh
đó làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không phải
chịu TNHS, ngược lại tuy có bệnh nhưng chưa làm mất hoàn toàn khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì không thuộc trường hợp được loại trừ
TNHS mà chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Mức độ giảm nhẹ TNHS đối với người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình phụ thuộc vào mức

độ ảnh hưởng của bệnh khi họ thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, không phải
lúc nào và trong mọi trường hợp cũng đều có thể xác định được tỉ lệ ảnh hưởng của
tình trạng bệnh đối với khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, vì
trên thực tế Hội đồng giám định pháp y tâm thần thường chỉ có thể xác định có hay
không có mắc bệnh và nếu có thì bệnh đó có ảnh hưởng đến khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không.
Một vấn đề nữa được đặt ra là việc thực hiện tội phạm trong tình trạng say do
dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, ở mức độ khác nhau, có ảnh hưởng đến
khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi hay không? Người đó có phải
chịu TNHS không ?

18
1.1.3. Năng lực trách nhiệm hình sự trong tình trạng say do dùng rượu
hay dùng chất kích thích mạnh khác
Trong thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng say bởi nhiều lý do
khác nhau, có thể say do dùng rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác như ma
túy, cồn, và tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
giữa các tình trạng say này cũng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có những
trường hợp mất hoàn toàn khả năng, có những trường hợp chỉ mất một phần khả
năng do đó đã dẫn đến tình trạng điều khiển hành vi không chính xác. Theo quy
định của pháp luật hình sự hiện hành của nước ta thì những người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say (say do dùng rượu hoặc dùng các chất
kích thích mạnh khác) vẫn phải chịu TNHS. Tuy nhiên, trong khoa học Luật hình sự
hiện nay vấn đề này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Người say rượu vẫn coi là có năng lực TNHS
(mặc dù trong thực tế họ mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
tại thời điểm thực hiện tội phạm). Bởi vì khi tự đặt mình vào trong tình trạng say, họ
là người có năng lực TNHS, nhưng họ đã tự tước bỏ đi khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi của mình, họ tự đặt mình vào trong tình trạng say đó. Chính
vì lý do đó mà họ được xem là người có lỗi đối với tình trạng say của mình nên cũng

có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng đó [45, tr.118-119].
Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Người thực hiện tội phạm trong tình trạng
say do dùng rượu hay dùng chất kích thích mạnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì được coi là rơi vào tình trạng “không
có năng lực TNHS thực tế” do họ không nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và do đó họ không có lỗi khi thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy họ
sẽ không bị truy cứu TNHS [48, tr.12-16; 45, tr.166].
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay vấn đề năng lực TNHS đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say do dùng rượu hay dùng chất
kích thích mạnh khác đã được các nhà nghiên cứu Luật học xem xét ở nhiều góc độ
khác nhau nhưng vẫn chưa thể đi đến thống nhất.

19
1.2. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của biện pháp bắt buộc chữa bệnh
trong luật hình sự
1.2.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự
Tòa án áp dụng hình phạt nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội là
cần thiết nhưng có thể là chưa đủ để xử lý tội phạm. Có những trường hợp cần phải
xử lý một cách triệt để trách nhiệm của người phạm tội vì sự công minh của pháp
luật đồng thời loại bỏ hoàn toàn điều kiện có thể dẫn đến tội phạm trong tương lai
và còn vì mục tiêu xây dựng một xã hội thật sự công bằng, văn minh. Trên thực tế
cũng cho thấy nếu chỉ áp dụng hình phạt thì trong nhiều trường hợp cơ quan tiến
hành tố tụng sẽ không đạt được mục đích nói trên. Cùng với hình phạt các biện
pháp tư pháp nói chung và BPBBCB nói riêng là các biện pháp cưỡng chế hình sự
quan trọng trong đấu tranh phòng chống và ngăn ngừa tội phạm. Nhận thức đúng về
bản chất của biện pháp tư pháp, đặc biệt là BPBBCB sẽ thấy vai trò quan trọng của
loại biện pháp này và sẽ dễ dàng chấp nhận việc quy định chúng trong BLHS. Việc
quy định BPBBCB trong BLHS thể hiện sự đúng đắn trong việc thực hiện một
trong số những nguyên tắc của chính sách hình sự là sử dụng tối đa mọi cách thức,
biện pháp có thể để lập lại trật tự xã hội, hình phạt không phải là công cụ duy nhất.

Việc quy định BPBBCB xuất phát từ chính sách nhân đạo sâu sắc của Nhà nước,
đảm bảo quyền được điều trị về y tế của công dân, đặc biệt là khi họ mắc bệnh đến
mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì tự bản thân họ
không thể lựa chọn được biện pháp chữa bệnh và không có khả năng để chi trả cho
việc chữa bệnh. Đồng thời việc quy định biện pháp này cũng nhằm phòng ngừa khả
năng gây thiệt hại cho trật tự an toàn xã hội [24, tr.29].
Bộ luật hình sự hiện hành không nêu khái niệm thế nào là BPBBCB. Chính
vì nguyên nhân này mà dưới góc độ lý luận hiện nay còn nhiều quan điểm không
thống nhất xung quanh khái niệm về biện pháp tư pháp này, chẳng hạn:
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn thì: “Bắt buộc chữa
bệnh là buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hay đang chấp hành
hình phạt và đang mắc bệnh tới mức mất năng lực TNHS do mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác phải vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh” [23, tr.12].

20
Tác giả Nguyễn Thị Ánh Hồng: “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là
biện pháp buộc người bị mắc bệnh tâm thần đến mức mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi phải vào một cơ sở điều trị chuyên khoa đề bắt buộc
chữa bệnh.” [24, tr.28].
Tác giả Đinh Văn Quế khi bình luận về biện pháp này thì cho rằng: “Bắt
buộc chữa là một biện pháp buộc người phạm tội phải chữa bệnh trong một cơ sở
chuyên khoa y tế do các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tùy theo giai đoạn tố
tụng”

[34, tr.221; 37, tr.292].
Hay“ Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được BLHS quy định, do Tòa
án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình” [ 46, tr.253].
Thiết nghĩ, các quan điểm trên về BPBBCB chưa bao quát hết nội hàm của

BPBBCB. Bởi lẽ, trên thực tế BPBBCB không chỉ được áp dụng đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình mà BPBBCB
còn có thể được áp dụng đối với cả người đang chấp hành hình phạt mà mắc bệnh
tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và người phạm
tội trong khi có năng lực TNHS nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Hay nói cách khác,
đối tượng áp dụng của BPBBCB theo quy định của BLHS hiện hành là người mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình trong hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
hoặc đang chấp hành hình phạt.
Trên cơ sở tham khảo các cơ sở lý luận và tài liệu pháp lý, cũng như nghiên
cứu bản chất pháp lý của quy phạm PLHS Việt Nam hiện hành về BPBBCB quy
định tại Điều 43 của BLHS năm 1999 cho phép đưa ra quan điểm về BPBBCB
trong BLHS (nói chung) như sau:
Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế do Tòa án, Viện kiểm sát tùy

×