Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.16 KB, 87 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HÀ THANH LOAN






HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ,
TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HÀ THANH LOAN






HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ,
TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang




HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn



Hà Thanh Loan











4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
TÙ TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Những khái niệm về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù
9
1.1.1.
Khái niệm và bản chất về hoãn chấp hành hình phạt tù
9
1.1.2.
Khái niệm và bản chất về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
13
1.1.3.
Mục đích và ý nghĩa của việc hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
15
1.2.
Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù với hoãn chấp hành
hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
17
1.2.1.
Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù với hoãn chấp hành
hình phạt tù

17
1.2.2.
Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù với tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù
18
1.3.
Sự phát triển của pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
19
1.3.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1985
20
1.3.2.
Giai đoạn từ 1985 đến nay
21

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOÃN CHẤP HÀNH
HÌNH PHẠT TÙ, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH PHÚ THỌ
24
2.1.
Quy định của pháp luật hình sự về hoãn chấp hành hình phạt
tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
24

5
2.1.1.
Quy định của pháp luật hình sự về hoãn chấp hành hình phạt tù
24

2.1.2.
Quy định của pháp luật hình sự về tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù
33
2.2.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoãn chấp hành
hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
39
2.2.1.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hoãn chấp hành
hình phạt tù
39
2.2.2.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù
45
2.3.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
50
2.3.1.
Tình hình hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù từ năm 2009 đến 2013 tại địa bàn tỉnh Phú Thọ
51
2.3.2.
Những hạn chế, tồn tại trong hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
59

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT VỀ HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ,
TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
62
3.1.
Yêu cầu cải cách tư pháp liên quan đến biện pháp hoãn chấp
hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
62
3.2.
Các giải pháp cụ thể
65
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự
65
3.2.2.
Hoàn thiện tổ chức cơ quan thi hành biện pháp hoãn chấp
hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
68
3.2.3.
Hoàn thiện mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
với cơ quan thi hành biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
69
3.2.4.
Một số giải pháp khác
72

KẾT LUẬN
74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

78

6


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt
tù từ năm 2009 - 2013
53
2.2
Thống kê người bị kết án được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù từ năm 2009 - 2013
55


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thi hành án hình sự ở Việt Nam thì hình phạt tù có thời hạn là
một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất chính sách hình sự và nguyên tắc của
Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời ngăn ngừa người phạm tội tiếp
tục phạm tội, động viên, khuyến khích người phạm tội chứng tỏ khả năng giáo
dục, cải tạo người phạm tội. Hình phạt tù có thời hạn là nhằm tách người

phạm tội ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định khi mà hành
vi phạm tội của họ buộc phải tách họ ra khỏi cộng đồng một thời gian để ngăn
ngừa tội phạm và giáo dục người phạm tội. Về nguyên tắc mọi bản án hình
sự, trong đó có bản án phạt tù sau khi có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành, nhưng thực tế có những trường hợp có nhiều lý do khác nhau mà không
thể bắt buộc người bị kết án phạt tù phải thi hành ngay đúng thời gian quy
định hoặc người bị kết án đã thi hành án được một thời gian nhưng vì những
lý do nhất định mà người bị phạt tù đang chấp hành hình phạt được tạm dừng
việc ở lại trại giam chấp hành hình phạt đó. Những trường hợp này có thể
được hoãn chấp hành hình phạt tù hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
trong một thời gian nhất định.
Hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là
những chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam. Ở một mức độ nào đó,
chế định hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thể
hiện chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta vừa thể hiện một cách sâu
sắc nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, thể hiện
chính sách khoan hồng, dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người.
Nghiên cứu về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù gắn liền với nhu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự, thi hành án hình sự trong cải cách tư pháp, nâng cao đội ngũ cán bộ tư

8
pháp theo tinh thần nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
và Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02-01-2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24-5-2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ Chính trị đặt ra vấn đề cải cách các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ
quan thi hành án theo hướng xây dựng mô hình thống nhất, tập trung quản lý
công tác thi hành án.
Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn diện của đất nước trên

các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, hiện nay trên thực tế do hệ thống
cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự còn nhiều phân
tán, nhiều đầu mối, chưa tập trung quyền lực nên thiếu sự chỉ đạo điều hành,
kiểm tra thống nhất, quy chế phối hợp giữa các cơ quan còn chưa rõ ràng làm
giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý. Do thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể,
thiếu sự kiểm tra, đôn đốc thường xuyên trong các cơ quan chức năng quản lý
Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự nên dẫn đến tình trạng quản lý
lỏng lẻo, nhiều đối tượng đã bị Tòa án kết án bằng bản án và quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không được thi hành. Trong thi hành
án hình sự việc nghiên cứu từng hình phạt cũng như các biện pháp tha miễn
cụ thể vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ
thống và toàn diện. Pháp luật về thi hành án hình sự còn chưa kịp thời thể chế
hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng, do
chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng các biện pháp tha miễn trong luật
hình sự như hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
nên vẫn còn tình trạng áp dụng không đúng các quy định của chế định này, vi
phạm về nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng dẫn đến giảm hiệu quả trong
công tác thi hành án hình sự.
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu một cách có hệ
thống, tìm hiểu sâu hơn những vấn đề lý luận cơ bản về hoãn chấp hành hình

9
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở đó tiến hành tổng kết
có đầy đủ hơn, đưa ra những kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành
công của thực tiễn công tác hoãn chấp hành phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù, các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành và
giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù ở nước ta hiện nay có ý nghĩa cả
về mặt lý luận và thực tiễn.

Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài "Hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Phú Thọ)" làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ Luật học của mình. Nội dung của đề tài cố gắng
nghiên cứu một cách tổng thể quy định của Pháp luật về hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Đề tài cũng đưa ra những luận
cứ khoa học về thực trạng hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù, thực trạng áp dụng tại địa phương; đồng thời đề ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lĩnh vực thi hành án hình sự đã có một số công trình nghiên cứu
liên quan đến hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
được đề cập, phân tích trong một số Giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
1997; 2) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do
TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái
bản lần thứ nhất); 3) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả
do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,

10
2007; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do
PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000;
5) Trách nhiệm hình sự và hình phạt, của TS. Trịnh Tiến Việt, Nxb chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2013; 6) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 - Phần
chung, của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) v.v
Các bài nghiên cứu trên đã nhận diện và làm sáng tỏ một số vấn đề về khái
niệm, đặc trưng, căn cứ áp dụng và thẩm quyền áp dụng chế định hoãn chấp
hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Bộ luật hình sự

năm 1999 và có những đề xuất, giải pháp để ngày càng hoàn thiện các chế
định trên. Ngoài ra còn phải kể đến các bài viết đăng trên các báo, tạp chí
chuyên ngành Luật như: "Việc áp dụng thời hiệu thi hành bản án hình sự đối
với người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù theo Luật thi hành
án hình sự", của tác giả Đỗ Văn Chỉnh và Phạm Thị Thanh Mai đăng trên tạp
chí Tòa án nhân dân, số 07/2011… Đây là những công trình nghiên cứu toàn
diện cả về lĩnh vực thi hành án hình sự, trong đó có hoãn chấp hành hình phạt
tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên
chưa thể hiện tính chuyên sâu trong nghiên cứu về lĩnh vực hoãn chấp hành
hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trong công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh
vực cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là cơ sở cho việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác thi
hành án hình sự, đặc biệt trong việc thực hiện các biện pháp tha miễn trong
luật hình sự trên cơ sở thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ
thống các quy định của luật hình sự về các điều kiện áp dụng biện pháp hoãn

11
chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cũng như công
tác, tổ chức thi hành các biện pháp này theo luật hình sự Việt Nam hiện nay,
thực tiễn áp dụng các chế định này tại địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó xác định
những bất cập, hạn chế. Trên cơ sở đó để đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù, đồng thời đưa ra được các giải pháp góp phần hoàn
thiện các quy định của Pháp luật về các chế định này và thực hiện tốt nguyên
tắc nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, chính sách khoan hồng của Nhà

nước đối với người phạm tội.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của công tác
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, phân tích
khái niệm, các đặc điểm cơ bản của hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù, mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức thi hành hoãn
chấp hành hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù với các cơ
quan khác trong tố tụng hình sự. Phân tích nội dung điều kiện, trình tự thủ tục
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, đặc điểm
chung và khác biệt giữa hai chế định này để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và
nội dung cơ bản của hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù. Trong đó có các cơ quan, tổ chức tiến hành thi hành biện pháp
hoãn chấp hành hình phạt tù và các cơ quan, tổ chức tiến hành thi hành biện
pháp tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
- Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở số liệu của địa bàn tỉnh Phú Thọ, tác
giả đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù tại địa phương để từ đó có thể nghiên cứu,
đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong các chế định này. Phân
tích những tồn tại xung quanh việc quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện về

12
cơ quan, tổ chức tiến hành thi hành hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù nhằm đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục hoàn
thiện các quy định của Pháp luật và nâng cao hiệu quả về hoãn chấp hành
hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong qúa trình cải hành tư
pháp hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật

hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2009
đến 2013 trên cơ sở những quy định của Luật hình sự và các quy định pháp
luật khác về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù. Ngoài ra trên cơ sở các quy định của Luật hình sự được Quốc hội nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 21-12-1999, có
hiệu lực từ ngày 01-7-2000, được sửa đổi bổ sung năm 2009, chúng tôi đưa ra
những đánh giá về vấn đề công tác hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về thi hành án hình sự, về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng
như các thành tựu khoa học khác như Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Luật
thi hành án hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một
số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Luận văn còn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, trong đó là các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
lịch sử cụ thể, phương pháp luật so sánh… Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài

13
còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống
nhất có tính chất chỉ đạo của công tác hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về
thực trạng thi hành biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu của địa bàn
tỉnh Phú Thọ từ 2009 - 2013.

- Đưa ra các luận giải khoa học về bản chất, ý nghĩa, yêu cầu trong
việc thi hành biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù theo quy định của luật hình sự ở nước ta trong thời gian tới, đưa
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Luật hình sự và Luật thi hành án
hình sự năm 2010 trong công tác này.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, cán bộ, công chức
là những người thi hành các biện pháp hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù và cơ quan thi hành án hình sự về bản chất, yêu
cầu, ý nghĩa của việc quy định và thi hành biện pháp hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
- Góp phần bổ sung vào các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực thi
hành án hình sự, kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thi hành biện pháp hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, nâng cao hiệu quả trong việc thi
hành các biện pháp này.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thi hành chế
định hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và áp dụng
pháp luật của người, cơ quan có thẩm quyền về thi hành các chế định này.

14
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự về hoãn chấp hành hình
phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và thực tiễn áp dụng tại địa bàn
tỉnh Phú Thọ.

Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.


15
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ,
TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM VỀ HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ,
TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
1.1.1. Khái niệm và bản chất về hoãn chấp hành hình phạt tù
Về nguyên tắc, khi bản án có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng,
người bị kết án phải chấp hành nghiêm chỉnh theo đúng các quy định của
pháp luật về hình phạt. Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận trong Hiến
pháp, điều này thể hiện tầm quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và
thi hành bản án phạt tù có thời hạn nói riêng. Tuy nhiên vì những lý do nhất
định (đặc biệt) thuộc về nhân thân người bị kết án, hoàn cảnh, điều kiện gia
đình hoặc nhu cầu công vụ nên người bị kết án phạt tù chưa thể đi thi hành án
ngay được và người bị kết án có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù.
Nghiên cứu các quy phạm pháp luật hình sự ở nước ta về chế định
hoãn chấp hành hình phạt tù cho thấy kể từ khi thành lập nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến trước khi Bộ luật hình sự đầu tiên được
Quốc hội thông qua năm 1985, vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù chưa được
quy định trong một văn bản pháp luật hình sự nào. Vì vậy, trên thực tế, vấn đề
hoãn chấp hành hình phạt tù chưa được đề cập nghiên cứu ở giai đoạn này.
Lần đầu tiên, vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù được quy định tại Điều 69
Bộ luật hình sự năm 1985. Tại điều luật này đã quy định điều kiện để hoãn

chấp hành hình phạt tù. Việc Bộ luật hình sự không quy định khái niệm hoãn
chấp hành hình phạt tù đã gây ra không ít cách hiểu khác nhau trong giới luật
học. Vấn đề hoãn chấp hành hình phạt tù tiếp tục được quy định đầy đủ hơn

16
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và sau này được sửa đổi, bổ sung, quy
định cụ thể tại Điều 61 Bộ luật hình sự 1999. Cũng giống như Bộ luật hình sự
1985 và Bộ luật tố tụng hình sự 1988, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng không
đưa ra được khái niệm hoãn chấp hành hình phạt tù mà chỉ quy định về các
điều kiện để được hoãn chấp hành hình phạt tù. Chế định hoãn chấp hành
hình phạt tù nằm trong hệ thống các chế định về chấp hành hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam. Để hiểu khái niệm hoãn chấp hành hình phạt, cần phân
tích và làm rõ các khái niệm " hình phạt", " chấp hành", " hoãn" từ góc độ
Luật hình sự, trên cơ sở đó, phân tích, đưa ra những đặc trưng thuộc về nội
hàm khái niệm của chế định hoãn chấp hành hình phạt tù.
Khái niệm "hình phạt", dưới góc độ luật hình sự là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích
của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án
quyết định. Hình phạt được sử dụng như công cụ hữu hiệu trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm và để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và
của nhân dân. Đối với chế độ xã hội ta, hình phạt bên cạnh mục đích trừng trị
còn có mục đích giáo dục, phòng ngừa và mang đầy đủ bản chất nhân đạo.
Đối với khái niệm "Chấp hành" theo Từ điển Tiếng Việt dùng để chỉ
việc " thi hành, thực hiện những điều quy định trong chính sách pháp luật, kế
hoạch, mệnh lệnh, phán quyết" [15, tr. 187]. Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình
sự thì chấp hành là việc thi hành những quyết định có hiệu lực của cơ quan có
thẩm quyền. Theo đó, những cá nhân bị coi là có tội khi đã có bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật. Trong bản án có hiệu lực đó, người bị kết án phải có
nghĩa vụ chấp hành toàn bộ quyết định của bản án đã tuyên đối với mình.
Khái niệm "hoãn" theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là "chuyển thời

điểm định làm việc gì đó sang thời điểm khác muộn hơn" [15, tr. 550]. Dưới
góc độ luật hình sự thì "hoãn" là tạm dừng, chưa phải chấp hành một quyết
định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành.

17
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 thì nhà làm luật đã sử dụng
thuật ngữ "Hoãn thi hành án phạt tù" để quy định về việc chuyển thi hành án
hình phạt tù cho người bị kết án sang thời điểm muộn hơn. Mặc dù trong điều
luật cụ thể thì các nhà làm luật vẫn sử dụng cụm từ "Hoãn chấp hành hình
phạt". Sau này, tại Bộ luật hình sự 1999 các nhà làm Luật đã sửa đổi thành
cụm từ " Hoãn chấp hành hình phạt tù". Thực tế nghiên cứu và áp dụng pháp
luật hình sự Việt Nam cho thấy, từ trước đến nay chưa hề xuất hiện một định
nghĩa pháp lý về hoãn chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên ở các mức độ khác
nhau, trong khoa học Luật hình sự Việt Nam cũng có những nghiên cứu và
cách hiểu khác nhau về khái niệm hoãn chấp hành hình phạt tù. Theo quan
điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa cho rằng: "Hoãn chấp hành hình phạt tù
là việc chuyển thi hành hình phạt tù sang thời điểm muộn hơn" [34, tr. 313].
Cũng có quan điểm nhấn mạnh ý nghĩa và điều kiện áp dụng khi nêu
"Chế định hoãn chấp hành hình phạt tù thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của
Luật hình sự Việt Nam. Chế định này được áp dụng trong những trường hợp
người bị kết án bị bệnh nặng, là phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ, là người
lao động duy nhất trong gia đình hoặc nhu cầu công vụ"… [12, tr. 451]. Còn
theo quan điểm của TSKH.PGS. Lê Cảm: "Hoãn chấp hành hình phạt tù là
việc tạm dừng lại trong một thời hạn nhất định việc chấp hành hình phạt tù
của người bị kết án nếu người này chưa chấp hành hình phạt đó" [14, tr. 794].
Hay quan điểm của TS.Trịnh Tiến Việt:
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người
bị kết án chuyển việc thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn hơn.
Nói một cách khác, đó là việc cho phép người bị kết án tiếp tục
sống và làm việc ngoài xã hội, chưa buộc người này phải vào trại

giam để chấp hành hình phạt tù [41, tr. 435].
Như vậy, xung quanh việc định nghĩa hoãn chấp hành hình phạt tù,
trong giới nghiên cứu khoa học luật nói chung đã tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, định nghĩa được hoãn chấp hành hình phạt tù một cách

18
chính xác nhất thì trong định nghĩa hoãn chấp hành hình phạt tù phải được
đưa ra cần thể hiện được cả bản chất pháp lý, điều kiện, nội dung cũng như
giới hạn của hoãn chấp hành hình phạt tù.
Về bản chất pháp lý: hoãn chấp hành hình phạt tù phản ánh những đặc
điểm cơ bản sau: Một là, hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định phản
ánh chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta đối với người bị kết án
khi có những lý do nhất định. Hai là, hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa
án cho phép người bị kết án chuyển thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn
hơn. Ba là, hoãn chấp hành hình phạt tù được áp dụng đối với một số đối
tượng nhất định cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã
hội, chưa buộc người này phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù.
Về điều kiện để áp dụng chế định hoãn chấp hành hình phạt tù: từ khái
niệm, bản chất pháp lý của hoãn chấp hành hình phạt tù, chúng ta có thể thấy
một căn cứ chung là khi người bị kết án chưa chấp hành hình phạt tù và tương
ứng với bốn trường hợp (có ít nhất một trong bốn điều kiện tương ứng) để có
thể áp dụng chế định này là:
- Đối với người bị bệnh nặng - có thể được hoãn chấp hành hình phạt
tù cho đến khi sức khỏe được phục hồi.
- Đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con đến 36 tháng tuổi - có thể được
hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
- Đối với người bị kết án là lao động duy nhất mà nếu bắt người này
chấp hành hình phạt đó thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt - có thể được hoãn
chấp hành hình phạt tù đến một năm. (Trừ các tội phạm về xâm phạm an ninh
quốc gia hoặc tội khác là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng).

- Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng và do nhu cầu công vụ -
có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù đến một năm.
Từ những phân tích nghiên cứu trên đây và tham khảo một số quan
điểm về hoãn chấp hành hình phạt tù, đồng thời, trên cơ sở thực tiễn công tác

19
áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về hoãn chấp hành hình phạt
tù, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về hoãn chấp hành hình phạt tù như sau:
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng lại trong một thời hạn nhất
định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án nếu người này chưa
chấp hành hình phạt tù đó. Từ định nghĩa khoa học của khái niệm hoãn chấp
hành hình phạt tù nêu trên, có thể khẳng định bản chất pháp lý của chế định
này: Hoãn chấp hành hình phạt tù là một chế định nhân đạo của luật hình sự
Việt Nam và được thể hiện ở chỗ - Tòa án quyết định tạm dừng lại việc chấp
hành hình phạt tù đã được tuyên trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối
với người bị kết án (nhưng chưa chấp hành hình phạt đó) trong một thời gian
nhất định khi có đầy đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy
định [1, tr. 795].
1.1.2. Khái niệm và bản chất về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
Tương tự như "Hoãn chấp hành hình phạt tù", khái niệm "tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù" từ trước đến nay cũng chưa được ghi nhận trong
Pháp luật hình sự thực định hiện hành. Nếu như chế định "hoãn chấp hành
hình phạt tù" lần đầu tiên được pháp luật ghi nhận tại Bộ luật hình sự 1985 thì
"Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù" lần đầu tiên được quy định tại Bộ luật
tố tụng hình sự 1988.
Theo Từ điển Tiếng việt, "tạm" có nghĩa là "làm việc gì chỉ trong một
thời gian nào đó, khi có điều kiện thì sẽ có thay đổi" [15, tr. 1099]. "Đình chỉ" có
nghĩa là "ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian" [15, tr. 412].
Dưới góc độ luật hình sự thì "tạm đình chỉ" là tạm dừng lại việc thực hiện một
quyết định nào đó của cơ quan có thẩm quyền mà lẽ ra mình phải bị chấp hành.

Tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, cũng như hoãn chấp hành hình phạt
tù, nhà làm luật đã sử dụng thuật ngữ là "tạm đình chỉ thi hành án hình phạt
tù". Tuy nhiên tại Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
thuật ngữ này đã được sửa đổi thành "tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù".

20
Việc sửa đổi thuật ngữ trên là có cơ sở bởi lẽ, đối với tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù, người bị kết án đã có quyết định thi hành án và đang chấp hành
hình phạt. Khi có đủ các điều kiện theo luật định thì có thể được tạm dừng
việc chấp hành hình phạt đó.
Dưới góc độ khoa học, cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau nêu
ngắn gọn khái niệm, bản chất pháp lý của chế định này. Theo quan điểm của
GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù "là tạm
ngừng chấp hành hình phạt trong khoảng thời gian nhất định" [34, tr. 314].
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm: tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù "là việc tạm dừng trong một thời gian nhất định việc chấp hành hình phạt
tù của người bị kết án khi người này đang chấp hành hình phạt đó" [1, tr. 796].
Hay theo quan điểm của TS. Trịnh Tiến Việt:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho
phép người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam được
tạm dừng việc ở lại trại giam để chấp hành hình phạt, đồng thời họ
được trả tự do nếu không bị giam giữ về một tội phạm khác khi có
những điều kiện cụ thể do Bộ luật hình sự quy định [41, tr. 437].
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù phản ánh những đặc điểm cơ bản
sau: Một là, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là một chế định phản ánh
chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta đối với người bị kết án do
có những lý do nhất định. Như đã khẳng định ở trên, chế định tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù cùng với các chế định về các biện pháp tha miễn trong luật
hình sự thể hiện rõ nét tính nhân đạo, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong
việc xử lý người phạm tội. Hai là, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc

Tòa án cho phép người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam được
tạm dừng việc ở lại trại giam để chấp hành hình phạt. Chúng đều chỉ có thể được
áp dụng đối với người bị kết án trong mỗi trường hợp cụ thể tương ứng. Ba là,
người bị kết án khi được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được trả tự do nếu

21
không bị giam giữ về một tội phạm khác khi có những điều kiện cụ thể do Bộ
luật hình sự quy định. Điều này có nghĩa chế định này không thể được áp dụng
một cách tùy tiện mà chỉ có thể được áp dụng khi có các căn cứ nhất định.
Không chỉ chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù mới có điều
kiện để áp dụng mà tất cả các chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam
đều có những điều kiện riêng để áp dụng. Những điều kiện áp dụng đối với
từng chế định còn thể hiện sự phân hóa trong việc xử lý tội phạm và người
phạm tội. Điều này thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với người
phạm tội, bên cạnh mục đích trừng trị còn có mục đích giáo dục, ngăn ngừa
và cải tạo người phạm tội.
Về bản chất pháp lý của chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
có thể hiểu như sau:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là một chế định nhân
đạo của Luật hình sự Việt Nam và được thể hiện ở chỗ - Tòa án quyết
định dừng lại việc chấp hành hình phạt tù đã được tuyên trong bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người bị kết án đang chấp hành
hình phạt đó trong một thời hạn nhất định khi có đầy đủ căn cứ và
những điều kiện được quy định trong pháp luật hình sự [1, tr. 796].
Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm
hợp lý trong các khái niệm về chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và
những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể rút ra
định nghĩa khoa học về chế định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù như sau:
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc tạm dừng lại trong một thời gian nhất
định việc chấp hành hình phạt tù của người bị kết án đang chấp hành hình phạt đó.

1.1.3. Mục đích và ý nghĩa của việc hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
Trước khi tìm hiểu mục đích hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù, chúng ta cần hiểu rõ mục đích của hình phạt tù có
thời hạn.

22
Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mục đích của hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người
có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo Pháp luật và các quy tắc trong cuộc
sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo
dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt
tù trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có
mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Trên thực tế, không
phải hành vi phạm tội nào hình phạt được áp dụng và thi hành ngay đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội trong một số trường hợp cũng đem lại lợi
ích xã hội thiết thực đối với việc giáo dục, cải tạo người phạm tội và có hiệu
quả cao trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Vì vậy, mục
đích của hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
ngoài việc mang tính chất hỗ trợ và đan xen cùng với hình phạt trong việc xử
lý tội phạm và người phạm tội được triệt để, đảm bảo nguyên tắc pháp chế,
công bằng và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước, hai chế định
này còn bảo đảm nguyên tắc phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và hình phạt
của người bị kết án khi đáp ứng các điều kiện do luật định, cũng như phản ánh
thái độ tích cực và kết quả cải tạo, giáo dục tốt của những đối tượng này.
Ý nghĩa của việc hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù thể hiện ở chỗ Tòa án vẫn thể hiện được tính kiên quyết, thận
trọng của hình phạt khi áp dụng với người phạm tội nhưng vẫn tạo điều kiện
để họ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với xã hội, tạo điều kiện để họ có

điều kiện chấp hành hình phạt và đạt được mục đích đặt ra của hình phạt.
Xuất phát từ tính chất nhân đạo, tôn trọng quyền con người của chính sách
hình sự nói chung và của chế định hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù nói riêng, việc Tòa án cho người bị kết án hoãn chấp
hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù có ý nghĩa chính trị -
xã hội, pháp lý rất quan trọng.

23
Về mặt thực tiễn, nếu Tòa án áp dụng đúng đắn và chính xác trong
thực tiễn các quy phạm của chế định hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù sẽ đưa đến một loạt các lợi ích xã hội, đó là việc
tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền
và tự do của con người, nâng cao uy tín của ngành Tòa án, tăng thêm lòng tin
của các tầng lớp nhân dân vào tính công minh và sức mạnh của pháp luật.
Về mặt chính trị - pháp lý: với chế định hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, một mặt góp phần đảm bảo cho việc
thực hiện nhất quán nguyên tắc công bằng, mặt khác phản ánh nguyên tắc
nhân đạo, tôn trọng quyền con người của Pháp luật hình sự. Vì pháp luật cần
thiết phải quy định các chế tài để nghiêm trị và răn đe người phạm tội nhưng
không thể thiếu tính nhân đạo; xã hội muốn có công bằng và nhân đạo phải là
một xã hội có hệ thống pháp luật vì con người; xã hội không thể ổn định và
phát triển được nếu như pháp luật không vì con người, nếu pháp luật không
mở lối cho người bị kết án có điều kiện để giáo dục cải tạo, hoàn lương thì vô
hình chung, pháp luật đã bị phản tác dụng.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA THI HÀNH ÁN HÌNH PHẠT TÙ VỚI HOÃN
CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
1.2.1. Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù với hoãn chấp
hành hình phạt tù
Thi hành án phạt tù có thời hạn là buộc người bị kết án phạt tù có thời
hạn chấp hành hình phạt tại trại giam, trại tạm giam trong một thời hạn nhất

định nhằm giáo dục họ trở thành người lương thiện.
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị kết án
chuyển việc thi hành án phạt tù sang thời điểm muộn hơn. Nói một cách khác,
đó là việc cho phép người bị kết án tiếp tục sống và làm việc ngoài xã hội,
chưa buộc người này phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù.
Từ hai khái niệm trên có thể thấy sự khác nhau giữa thi hành án hình
phạt tù và hoãn chấp hành hình phạt tù là về thời hạn chấp hành hình phạt tù.

24
Đối với thi hành án hình phạt tù thì ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật
và có quyết định thi hành án hình phạt tù thì người bị kết án phải sống và làm
việc trong trại giam, trại tạm giam một thời gian nhất định đã được ghi trong
bản án của Tòa án, họ bị tước tự do cư trú và đi lại. Còn đối với hoãn chấp
hành hình phạt tù thì khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, Chánh án Tòa án đã
ra quyết định thi hành án hình phạt tù, nếu có quyết định hoãn chấp hành hình
phạt tù, người bị kết án được tiếp tục sinh sống và làm việc ngoài xã hội, chưa
phải vào trại giam để chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định.
Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù và hoãn chấp hành hình
phạt tù được thể hiện khi án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án có quyết
định thi hành án hình phạt tù, nếu vì những lý do nhất định (đặc biệt) thuộc về
nhân thân người bị kết án và có đủ các điều kiện cụ thể mà Bộ luật hình sự
quy định thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất
định. Sau khi hết thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án phải
thi hành án hình phạt tù theo quyết định của Tòa án. Trong thời gian hoãn
chấp hành hình phạt tù hoặc khi hết thời gian hoãn chấp hành hình phạt tù,
người bị kết án có thể được miễn chấp hành hình phạt và không phải thi hành
hình phạt tù nếu có đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
1.2.2. Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù với tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Tòa án cho phép người bị

kết án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam được tạm dừng việc ở lại trại
giam để chấp hành hình phạt, đồng thời họ được trả tự do nếu không bị giam
giữ về một tội phạm khác khi có những điều kiện cụ thể do Bộ luật hình sự
quy định.
Tương tự như hoãn chấp hành hình phạt tù, có thể thấy sự khác nhau
giữa thi hành án hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là về thời
hạn chấp hành hình phạt tù. Đối với thi hành án hình phạt tù thì ngay khi có

25
quyết định thi hành án hình phạt tù thì người bị kết án phải sống và làm việc
trong trại giam, trại tạm giam một thời gian nhất định đã được ghi trong bản
án của Tòa án, họ bị tước tự do cư trú và đi lại. Đối với tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù thì người bị kết án đang chấp hành quyết định thi hành án
hình phạt tù một thời gian, khi có quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù thì người bị kết án được tạm dừng việc thi hành án phạt tù, được trả tự
do, được tiếp tục sinh sống và làm việc ngoài xã hội, chưa phải chấp hành
hình phạt tù còn lại trong một thời gian nhất định.
Mối quan hệ giữa thi hành án hình phạt tù và tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù được thể hiện khi án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án có
quyết định thi hành án hình phạt tù và đang thi hành hình phạt tù tại trại giam,
trại tạm giam, nếu vì những lý do nhất định (đặc biệt) thuộc về nhân thân
người bị kết án và có đủ các điều kiện cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định thì
có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù còn lại trong một thời gian
nhất định. Sau khi hết thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị
kết án phải tiếp tục thi hành án hình phạt tù thời gian còn lại chưa thi hành.
Trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc khi hết thời gian
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án có thể được miễn chấp
hành hình phạt và không phải thi hành hình phạt còn lại nếu có đủ các điều
kiện do pháp luật quy định.
1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOÃN CHẤP HÀNH HÌNH

PHẠT TÙ, TẠM ĐÌNH CHỈ CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CỦA NƯỚC CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Pháp luật về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu dưới khía cạnh
Luật hình sự. Luật hình sự luôn được điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi cho phù
hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Để
giúp cho việc hoàn chỉnh, bổ sung, sửa đổi Luật hình sự, khoa học luật hình

×