Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật Hình sự Việt Nam (Trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Bình Phước)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 128 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN VĂN THẢO



CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS TRỊNH TIẾN VIỆT



HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Trần Văn Thảo


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN
TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM 9
1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO VỆ AN TOÀN CÔNG CỘNG,
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM

AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM 9
1.1.1. An toàn công cộng, trật tự công cộng - khách thể được bảo vệ bằng luật
hình sự Việt Nam 9
1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ trong luật hình sự Việt Nam 14
1.2. KHÁI NIỆM CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 17
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ 21
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa
lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 21
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 28
Chƣơng 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG
BỘ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 35
2.1. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 35
2.1.1. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
(Điều 202 Bộ luật hình sự) 35
2.1.2. Tội cản trở giao thông đường bộ (Điều 203 Bộ luật hình sự) 42
2.1.3. Tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông không bảo đảm an
toàn giao thông đường bộ (Điều 204 Bộ luật hình sự) 44
2.1.4. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ (Điều 205 Bộ luật hình sự) 47
2.1.5. Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206 Bộ luật hình sự) 50

2.1.6. Tội đua xe trái phép (Điều 207 Bộ luật hình sự) 52
2.2. PHÂN BIỆT CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 55
2.2.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ với tội đua xe trái phép 55
2.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ với tội cản trở giao thông 57
2.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ với tội vô ý làm chết người 58
2.2.4. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội tổ chức đua xe trái phép 59
2.2.5. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội gây rối trật tự công cộng 60
2.3. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 62
2.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 63
2.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 67
2.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 69
Chƣơng 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƢỚC,
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ 75
3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC 75
3.1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phước 75
3.1.2. Tình hình xét xử các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trên
địa bàn tỉnh Bình Phước 78
3.1.3. Một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn xét xử và các nguyên nhân cơ bản 83
3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 1999 CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ 96

3.2.1. Nhận xét chung 96
3.2.2. Nội dung kiến nghị sửa đổi, bổ sung những quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ 100
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 105
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ 105
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ 108
3.3.3. Tổ chức có hệ thống điều khiển hoạt động giao thông đường bộ, quản
lý phương tiện giao thông, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ,
cấp giấy phép lái xe 109
3.3.4. Tăng cường công tác tuần tra, giám sát và xử lý kịp thời mọi vi phạm
an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm minh và kịp thời các vụ án
trong lĩnh vực này 111
KẾT LUẬN 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ và tội đua xe trái phép 56
Bảng 2.2: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ và tội cản trở giao thông 58
Bảng 2.3: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ và tội vô ý làm chết người 59
Bảng 2.4: Sự khác nhau giữa tội đua xe trái phép và tội tổ chức đua xe trái phép 60
Bảng 2.5: Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội đua xe trái phép 61
Bảng 3.1: Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử và hình phạt, nhân thân

người phạm tội về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ trong thời gian 06 năm (2007 - 2012) trên địa
bàn tỉnh Bình Phước 78
Bảng 3.2: Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử và hình phạt, nhân thân
người phạm tội về tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều
kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ trong thời
gian 06 năm (2007 - 2012) trên địa bàn tỉnh Bình Phước 79
Bảng 3.3: Loại tội và số vụ án thực hiện trên địa bàn tỉnh Bình Phước qua
nghiên cứu ngẫu nhiên tổng số 123 bản án 83






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những khởi sắc
đáng mừng và đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội. ở các thành phố lớn nói chung, tỉnh Bình Phước nói riêng, sự
thay đổi khởi sắc thể hiện trên nhiều lĩnh vực đem lại đời sống vật chất và
tinh thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên
thì giao thông vận tải thể hiện rõ nhất qua việc đường sá, cầu cống được xây
dựng mới và xe cộ được mua sắm rất nhiều. Theo số liệu thống kê của Phòng
Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Phước thì hàng tháng, có hàng trăm,
hàng nghìn xe máy và ô tô đăng ký mới trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, đi đôi với sự phát triển hoạt động giao thông vận tải thì tình

hình các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ nói riêng và tình hình tai
nạn giao thông đường bộ nói chung gần đây cũng tăng rất nhanh về cả số
lượng vụ việc và mức độ nghiêm trọng đã gây ra những hậu quả lớn về người
và tài sản, làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Theo
thống kê của ủy ban An toàn giao thông Quốc gia những năm gần đây tình
hình các vụ tai nạn giao thông xảy ra nhiều đột biến trên cả ba tiêu chí (số vụ,
số người chết và số người bị thương). Ví dụ: Trong năm 2009, cả nước đã xảy
ra 12.492 vụ tai nạn giao thông, làm chết 11.516 người, bị thương 7.914
người. Trung bình mỗi ngày vẫn có 31 người chết do tai nạn giao thông.
Trong 6 tháng đầu năm 2010 cả nước đã xảy ra hơn 6.500 vụ tai nạn giao
thông, làm chết hơn 5.600 người và bị thương hơn 4.800 người. Điều rất đáng
chú ý là ngoài những con số thống kê trên còn có hơn 18.000 vụ va chạm giao
thông khiến 23.000 người bị thương. Ngoài những thiệt hại rất lớn về tính

2
mạng, xã hội và mỗi gia đình còn phải gánh chịu hậu quả nặng nề do tai nạn
giao thông gây ra Còn nửa tháng đầu năm 2013, cả nước vẫn xảy ra trên 450
vụ tai nạn giao thông, cướp đi sinh mạng của 380 người, làm bị thương 325
người. Bình quân mỗi ngày vẫn xảy ra 30 vụ tai nạn, làm chết 25 người, bị
thương 21 người. Đặc biệt, trong các ngày mùng 3, 7, 8/1, mỗi ngày xảy ra từ
40 - 45 vụ tai nạn, làm chết từ 30 - 40 người và bị thương từ 20 - 43 người.
Vẫn có nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra làm nhiều người chết và bị
thương. Đơn cử như ngày 13/1, tại km 68+560 Quốc lộ 48C thuộc xã Yên
Hòa, huyện Tương Dương (Nghệ An), đã xảy ra vụ tai nạn làm 3 người chết,
2 xe mô tô hư hỏng nặng. Cùng ngày, tại địa phận xã Kỳ Thịnh, huyện Kỳ
Sơn (Hà Tĩnh) đã xảy ra vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng làm 3 người chết
tại chỗ. Vụ tai nạn ngày 14/1, tại Quốc lộ 9D, thuộc địa bàn phường Đông
Lương, Thành phố Đông Hà (Quảng Trị) khiến 2 người chết tại chỗ [64].
Theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển Châu á thì Việt Nam mất tới
885 triệu USD/năm cho chi phí tổn thất về người và vật chất do tai nạn giao

thông gây ra. Đó là chưa kể đến nguồn nhân lực lớn của ngành Y tế dành cho
việc cứu chữa, phục hồi chức năng cho các nạn nhân [61]. Còn xét riêng trên
địa bàn tỉnh Bình Phước, theo số liệu Công an tỉnh và ủy ban An toàn giao
thông tỉnh thì số vụ tai nạn và số người chết, số người bị thương vẫn tăng,
giảm theo hàng năm, tuy nhiên, số vụ va chạm và tai nạn giao thông vẫn xảy
ra với mức độ ngày đáng báo động. Ví dụ: Năm 2007, số vụ tai nạn là 195 vụ,
số người chết là 198 và số người bị thương là 186 người. Đến năm 2012, con
số này có giảm là 161 vụ tai nạn, 360 vụ va chạm, tổng cộng là 521 vụ, số
người chết là 165 người và số người bị thương lại tăng nhiều là 688 người.
Còn theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, số vụ án và
số bị cáo thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ vẫn bị
đưa ra xét xử thường xuyên, tuy nhiên chủ yếu tập trung vào tội vi phạm quy

3
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202), theo đó,
trong thời gian 06 năm (2007 - 2012) có 327 vụ án và 340 bị cáo và năm sau
tổng số vụ án và tổng số bị cáo đều cao hơn năm trước; v.v
Do đó, trước thực trạng này, Nhà nước, xã hội và các cơ quan chức
năng trong cả nước nói chung, tỉnh Bình Phước nói riêng đã tiến hành nhiều
giải pháp đồng bộ, quyết liệt và liên tục để ngăn chặn và phòng, chống vi
phạm và tội phạm trong lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ. Tuy nhiên,
một trong những nguyên nhân phát sinh là sự gia tăng tính chất và mức độ
của hành vi vi phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn giao thông đường
bộ nói riêng như: phóng nhanh, vượt ẩu, cẩu thả khi thực hiện các quy định
khác về an toàn trong điều khiển phương tiện nhưng không có giấy phép hoặc
không có bằng lái theo quy định, trong khi say rượu hoặc không chấp hành
hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển giao thông gây ra hậu
quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản cho người khác.
Vì vậy, để góp phần ngăn chặn, phòng ngừa và giảm bớt vi phạm pháp
luật và các tội phạm xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, bảo đảm an

ninh trật tự, an toàn xã hội, an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của
công dân, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ khái niệm và những dấu hiệu pháp
lý hình sự của các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, nghiên cứu so
sánh với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới và đánh giá thực tiễn xét
xử các tội phạm này trong thời gian 06 năm (2007 - 2012) trên địa bàn tỉnh
Bình Phước để thực hiện mục đích trên có ý nghĩa chính trị - xã hội và lý
luận - thực tiễn quan trọng. Đây cũng là lý do để tác giả quyết định lựa chọn
đề tài: "Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn tỉnh Bình Phước)" làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học của mình.

4
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ ở các mức độ khác nhau,
trực tiếp và gián tiếp đã có một số công trình nghiên cứu được công bố, đồng
thời thể hiện trên ba bình diện - luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham
khảo, bình luận, cũng như giáo trình dành cho hệ đại học và một số bài viết
bình luận án như:
* Nhóm thứ nhất (các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học) bao
gồm: 1) Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Thủ đô Hà Nội,
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; 2) Ngô Huy
Ngọc, Những biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm trật tự an toàn
giao thông đường bộ tại thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; 3) Phan Huy Thái, Điều tra các vụ án vi
phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ trên địa bàn
thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1998; 4) Nguyễn Đắc Dũng,
Tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Bắc
Ninh), Luận văn thạc sĩ luật học, 2011 và; 5) Nguyễn Ngọc Anh, Tội đua xe
trái phép trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; v.v
* Nhóm thứ hai (các sách chuyên khảo, tham khảo) bao gồm: 1) ThS.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; 2) ThS. Hoàng Đình Ban, Hoạt động phòng
ngừa tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân

5
dân, Hà Nội, 2008; 3) TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội, 2002; 4) TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; v.v
* Nhóm thứ ba (giáo trình, đề tài, bài viết) bao gồm: 1) GS.TS. Đỗ
Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
(tái bản năm 2007); 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương
XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập II) do GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ
biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 4) TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 -
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Luật
hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010; 5) TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Chương X - Các tội xâm phạm an

toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010; v.v
Ngoài ra, năm 2004 có đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường (Đại học
Luật Hà Nội) của TS. Trương Quang Vinh (chủ trì): Tội tổ chức đua xe trái
phép, tội đua xe trái phép và đấu tranh phòng, chống các tội này trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Tiếp đến là một số bài viết đi sâu vào tranh luận tội danh
cụ thể, xác định lỗi của tội phạm này như: 1) ThS. Lê Văn Luật, Xác định lỗi
trong các vụ án tai nạn giao thông, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2005; 2)
ThS. Huỳnh Quốc Hùng, Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng

6
trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2007; v.v
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số công
trình có phạm vi nghiên cứu rộng, các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ chỉ được đề cập riêng rẽ từng tội bằng bình luận những dấu hiệu
pháp lý hình sự và hình phạt hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học -
phòng ngừa cả nhóm tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, trong khi đó, chưa có công
trình khoa học nào ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học đề cập đến cả nhóm
tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trên một địa bàn cụ thể là tỉnh
Bình Phước. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ,
cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng luôn có ý nghĩa về
lý luận và thực tiễn, đặc biệt phục vụ trực tiếp yêu cầu chính trị - xã hội và
đấu tranh phòng, chống các tội phạm đã nêu trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản của
các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ như: khái niệm và những dấu
hiệu pháp lý hình sự, phân biệt các tội xâm phạm an toàn giao thông đường

bộ với một số tội phạm khác có liên quan trong Bộ luật hình sự, nghiên cứu
so sánh với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới, đồng thời phân tích
thực tiễn xét xử các tội phạm này trong thời gian 06 năm (2007 - 2012) trên
địa bàn tỉnh Bình Phước. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vướng mắc,
tồn tại trong thực tiễn xét xử để kiến nghị hoàn thiện pháp luật và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về các tội phạm này.

7
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Các tội
xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ
sở số liệu địa bàn tỉnh Bình Phước).
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối, chính
sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm,
cũng như trong việc bảo vệ an toàn, trật tự xã hội.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, tổng hợp, so sánh, phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát
thực tiễn, điều tra án điển hình để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình
sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các tội
xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
Cụ thể, đã xây dựng khái niệm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ,
phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự nước ta về

các tội phạm này từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, phân biệt
với một số tội khác hay có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ những quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ và nghiên cứu so sánh với Bộ luật hình sự một số nước; phân tích
thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời
gian 06 năm (2007 - 2012), qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các

8
quy định hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng
như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp
dụng những quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm này ở khía cạnh lập
pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với
việc phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh đó, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục
vụ nghiên cứu và học tập môn học Luật hình sự. Một số đề xuất, kiến nghị
của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập
pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến
các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ, qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này hiện nay và sắp tới ở địa
bàn tỉnh Bình Phước nói riêng và cả nước nói chung.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm an toàn giao
thông đường bộ trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới.
Chương 3: Thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước, hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự

Việt Nam về các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.



9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN
GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BẢO VỆ AN TOÀN CÔNG CỘNG,
TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VÀ QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. An toàn công cộng, trật tự công cộng - khách thể đƣợc bảo vệ
bằng luật hình sự Việt Nam
Đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, an toàn công cộng, trật
tự công cộng được ổn định, giữ vững lại có ý nghĩa củng cố, tăng cường cho
sự vững mạnh và tồn tại của chính quyền nhân dân, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ và tích cực hơn nữa trong công tác đấu tranh có hiệu quả với các loại tội
phạm, phát huy được sức mạnh tổng hợp, đồng bộ của toàn bộ hệ thống chính
trị, trách nhiệm của các Bộ, ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương
trong phòng, chống tội phạm có hiệu quả cao, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, bảo đảm tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ hữu hiệu các lợi ích của Nhà nước, trật tự, an toàn xã hội.
Đặc biệt, yêu cầu này càng được đề cao trong thời kỳ Đảng và Nhà nước
ta tiến hành đổi mới toàn diện theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra.
Theo đó, vấn đề bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng có ý nghĩa hết sức

quan trọng, nó gắn liền với sự nghiệp đổi mới toàn bộ nền kinh tế - xã hội ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, ngay từ khi giành được chính quyền,

10
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo vệ an toàn công
cộng, trật tự công cộng bằng việc ra một số văn bản như: Điều lệ tạm thời số
329-CP ngày 17/9/1954 của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý các loại vũ
khí; Nghị định số 23-CP ngày 24/02/1973 của Hội đồng Chính phủ về việc
tàng trữ và sử dụng vật liệu nổ góp phần tạo ra môi trường xã hội lành mạnh,
ổn định, bảo đảm nền tảng vững chắc để phát triển kinh tế - xã hội, ổn định
cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, hiện nay, để tiếp tục bảo đảm tốt công tác giữ
gìn an toàn công cộng, trật tự công cộng ở nước ta, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
ta phải không ngừng đầu tư cơ sở, vật chất kỹ thuật, đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý có trình độ cao, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Quá trình giữ gìn bảo
đảm an toàn công cộng, trật tự công cộng cũng chính là bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, tài sản và nhiều quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng đều bị xử lý hình sự, việc xử lý phải trên cơ sở giáo dục, thuyết
phục mọi công dân có ý thức chấp hành, nhắc nhở, cảnh cáo, xử lý hành
chính, chúng ta chỉ xử lý hình sự đối với những trường hợp hành vi nguy
hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể hay gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Vì vậy, ranh giới xác định vấn đề trách nhiệm hình sự với các trách nhiệm
pháp lý khác (dân sự, hành chính ) được phân định rõ ràng trên cơ sở tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả tác hại mối
quan hệ xã hội bị xâm hại, cũng như thái độ của người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Thực tế cho thấy các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng đã gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản và tính mạng, sức
khỏe của công dân, ảnh hưởng đến trật tự ở những nơi công cộng, đến hoạt
động chung của xã hội.
Do đó, khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ an toàn công cộng,

trật tự công cộng, Điều 78 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 đã quy

11
định: "Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi
ích công cộng". Ngoài ra, Điều 79 Hiến pháp cũng quy định: "Công dân có
nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội chấp hành tốt những quy tắc sinh hoạt công cộng".
Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh:
"Nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm các
vi phạm pháp luật giao thông. Tăng cường hạ tầng kỹ thuật, phương tiện giao
thông công cộng, năng lực tổ chức giao thông; thực hiện phương án điều tiết
hợp lý cơ cấu và quản lý chất lượng các phương tiện giao thông để giảm tới
mức thấp nhất tai nạn giao thông" [10]; v.v
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giữ gìn an toàn, trật tự công cộng
trong đời sống xã hội, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, hệ thống văn
bản pháp luật, Bộ luật hình sự đã quy định Chương "Các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng" để bảo vệ các lợi ích trên, xử lý các hành
vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao, qua đó bảo đảm mọi sinh hoạt, vui
chơi, giải trí, hoạt động công cộng được an toàn, ổn định và tuân thủ các quy
tắc xã hội và quy tắc của pháp luật. Vì vậy, tôn trọng và bảo vệ "an toàn công
cộng, trật tự công cộng" là “một trong những thước đo, tiêu chí để đánh giá
sự ổn định của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
khả năng quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh giá được
ý thức pháp luật, văn minh pháp lý của công dân” [16].
Tuy nhiên, trong phạm vi nội dung nghiên cứu này, chúng tôi chỉ nêu
khái niệm và những dấu hiệu pháp lý chung của nhóm tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng để chứng minh rằng, cùng với các khách thể
khác, an toàn công cộng, trật tự công cộng cũng là một trong những khách thể
quan trọng được Bộ luật hình sự Việt Nam bảo vệ, tôn trọng và bất kỳ hành vi
nào xâm phạm đến nhóm khách thể này đều bị xử lý theo các quy định về

những tội phạm tương ứng của Bộ luật hình sự.

12
Do vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm
các tội phạm đang đề cập có thể định nghĩa như sau:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến các quy định của Nhà nước về an toàn công cộng, trật tự công
cộng, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, cũng như qua đó xâm phạm
đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng.
Từ khái niệm này, có thể chỉ ra những dấu hiệu pháp lý của các tội xâm
phạm an toàn, trật tự công cộng như sau:
* Khách thể của tội phạm: Cùng với việc xâm phạm vào những quy
định của Nhà nước về an toàn, trật tự công cộng, các tội phạm ở Chương này
còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân. Song đây
không phải là khách thể trực tiếp của các tội phạm này. Tùy theo từng tội
phạm cụ thể mà khách thể trực tiếp của tội phạm là xâm phạm đến an toàn
công cộng hay trật tự công cộng.
Căn cứ vào khách thể bị xâm hại và đặc điểm pháp lý của các tội quy
định trong Chương XIX Bộ luật hình sự, chúng ta có thể chia ra thành hai
nhóm sau:
- Nhóm 1: Các tội xâm phạm an toàn công cộng;
- Nhóm 2: Các tội xâm phạm trật tự công cộng.
Những quy định về an toàn công cộng rất đa dạng, phong phú trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm những quy định, điều lệ, nội
quy ở những nơi công cộng trên các lĩnh vực giao thông vận tải (đường
sắt, đường bộ, đường thủy, đường không), trong lao động sản xuất, trong
quản lý vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất độc những quy định này nhằm


13
bảo đảm an toàn tài sản của Nhà nước, của tổ chức, an toàn về tính mạng,
sức khỏe của công dân.
Những quy định về trật tự công cộng được hiểu là những quy định
(thành văn hoặc không thành văn) ở những nơi công cộng như nhà ga, sân
quảng trường, bến tầu, đường phố đông người, công viên những nơi tập
trung đông người liên quan đến nếp sống văn minh, nếp sống xã hội chủ
nghĩa được mọi người biết, thừa nhận và chấp hành.
* Mặt khách quan của các tội phạm: Hành vi khách quan của các
tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội có thể được thực hiện bằng hình thức hành động hoặc không hành
động phạm tội.
Tuy nhiên, đa số các tội phạm được thực hiện bằng các hành động cụ
thể như các tội xâm phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông;
tội tổ chức đua xe trái phép; tội đua xe trái phép; tội tạo ra lan truyền, phát tán
các chương trình vi -rút tin học Nhưng cũng có một số tội phạm được thực
hiện bằng hình thức không hành động như tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ
vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng; v.v
Ngoài ra, cũng đa số các tội trong chương này có cấu thành tội phạm vật
chất, tức là cần có dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, nêu chưa có
dấu hiệu hậu quả thì đã bị xử lý hành chính. Trong Chương này cũng có một số
tội do tính chất nguy hiểm cao và yêu cầu phòng ngừa, ngăn chăn sớm nên
không đòi hỏi phải có dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội như: Tội tổ chức
đua xe trái phép (Điều 206), tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay (Điều
216), tội cản trở giao thông đường không (Điều 217), tội đưa vào sử dụng
phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn (Điều 218); v.v
Tương tự, cũng có một số tội phạm trong cấu thành tội phạm cơ bản có
giả định nếu hành vi đó tuy chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng


14
đã bị xử lý kỷ luật hoặc bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm thì xử lý về hình sự, ví dụ: Tội đua xe trái phép (Điều 207).
* Mặt chủ quan của các tội phạm: Với các tội xâm phạm an toàn công
cộng thì đa số các tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý. Người
phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được; hoặc người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Trong khi đó hầu hết các tội xâm phạm trật tự công cộng lại được
thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính chất
nguy hiểm của hành vi nhưng mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu
quả xảy ra. Ngoài ra, động cơ phạm tội của các tội phạm được quy định
trong Chương này rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm.
* Chủ thể của các tội phạm: Chủ thể của các tội phạm này là những
người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, có một số tội phạm đòi hỏi người thực hiện tội phạm phải có dấu
hiệu chủ thể đặc biệt, ví dụ: người điều khiển phương tiện giao thông; tội điều
động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông; v.v
1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định các tội xâm phạm an toàn giao
thông đƣờng bộ trong luật hình sự Việt Nam
Giao thông vận tải đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, từ
việc giúp cho các quá trình sản xuất diễn ra liên tục và bình thường; phục vụ
nhu cầu đi lại của nhân dân được thuận lợi hơn, cũng như là nhân tố quan
trọng trong phân bố sản xuất và dân cư. Đặc biệt, giao thông vận tải còn bảo
đảm các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương, từ đó thúc đẩy hoạt
động kinh tế, văn hóa, đặc biệt là tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh

15

trên mọi vùng miền của Tổ quốc; v.v Trong giao thông vận tải, giao thông
đường bộ lại giữ một vị trí và vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.
Trong những năm qua, mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp
đã nỗ lực cố gắng và đề ra nhiều giải pháp để kiềm chế gia tăng, tiến tới giảm
dần tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông, nhưng tai nạn giao thông vẫn xảy
ra nghiêm trọng ở mức cao, gây thiệt hại không nhỏ về người, tài sản của Nhà
nước và của nhân dân, trong đó đứng đầu là tai nạn giao thông đường bộ với
ba tiêu chí số người, số vụ và số thiệt hại. Thực trạng này đã là một vấn đề xã
hội hết sức bức xúc và đang làm đau đầu các cơ quan chức năng, các nhà
quản lý ở nước ta hiện nay. Do đó, các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ là nhóm những tội phạm nằm trong nhóm các tội xâm phạm đến an
toàn công cộng, trật tự công cộng và nó cần thiết được ghi nhận trong Bộ luật
hình sự Việt Nam để kịp thời xử lý những người có hành vi xâm phạm an
toàn giao thông đường bộ, nếu đáp ứng các điều kiện nhất định. Vì vậy, ngay
từ khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên - Bộ luật hình sự năm 1985, các nhà
làm luật đã quan tâm đến việc quy định một số hành vi liên quan đến các tội
phạm này trong Bộ luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc điều tra, truy tố, xét xử,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân.
Ngoài ra, ngày 24/02/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ
đã ban hành Chỉ thị số 22-CT/TW "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông" và Nghị quyết số
32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 "Về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm
chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông". Trong hai văn bản này, nội
dung xác định rõ các chủ trương, giải pháp cơ bản và lâu dài, cũng như các
biện pháp cấp bách nhằm kiềm chế việc gia tăng, chặn đứng và đẩy lùi tai nạn
giao thông, qua đó, yêu cầu tất cả các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc

16
và các đoàn thể phải đặt nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông là một trong

những nhiệm vụ chính trị quan trọng trong công tác lãnh đạo, quản lý; tổ chức
quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản này.
Việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông
nói chung và các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ nói riêng theo
quy định của Bộ luật hình sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra
đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm góp phần ngăn chặn, phòng ngừa
và kiềm chế tai nạn giao thông, xử lý các vi phạm ở mức độ nguy hiểm cao
cho xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, tính mạng, sức khỏe của
công dân và các thiệt hại vật chất cho xã hội và công dân.
Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trong
thời gian vừa qua cho thấy mặc dù đã được sửa đổi và đã có văn bản hướng
dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử các vụ án này, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn thường gặp
những vướng mắc, lúng túng trong việc xác định tội danh; áp dụng các tình
tiết định khung tăng nặng hình phạt; đường lối xử lý cụ thể, đặc biệt là tội
phạm hay xảy ra trên địa bàn cả nước nói chung, địa bàn tỉnh Bình Phước nói
riêng là tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ;
v.v Nguyên nhân của tình trạng này một phần do các quy định của pháp luật
hiện hành về các tội phạm này (Bộ luật hình sự và một số văn bản pháp luật
khác có liên quan) đã bộc lộ nhiều điểm không còn phù hợp với thực tiễn.
Mặt khác, các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền về áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự cũng chưa đầy đủ, rõ ràng dẫn đến sự nhận
thức và áp dụng không thống nhất trong thực tiễn giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án, trong khi đó, việc bảo đảm an
toàn công cộng, trật tự công cộng luôn luôn được đặt ra trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh vì sự yên bình của xã hội, sự an toàn của tính mạng, sức khỏe và
tài sản của công dân.

17
Như vậy, trên cơ sở này, các nhà làm luật Việt Nam đã quy định thành

những tội cụ thể xâm phạm an toàn giao thông đường bộ trong Bộ luật hình
sự với sáu tội phạm cụ thể quy định tại các điều 202 - 207 làm căn cứ pháp lý
quan trọng để bảo đảm việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, tính mạng,
sức khỏe của công dân luôn luôn được đặt ra trong mọi tình huống, tuy việc
xử lý các hành vi phạm tội là việc làm bất đắc dĩ.
1.2. KHÁI NIỆM CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Trong luật hình sự, tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu nhất. Nội
dung của khái niệm tội phạm đã "thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc
điểm chính trị xã hội cũng như những đặc điểm pháp lý của luật hình sự" [52].
Đồng thời nó còn "được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để
giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và
những trách nhiệm pháp lý khác "[13]. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực
nhất trong xã hội, "xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật,
cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng"[4]. Tội phạm mang
bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã
hội - pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà
nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã
hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người. Đặc
biệt, tội phạm “cũng chịu sự tác động sâu sắc của ý thức pháp quyền được thể
hiện trong pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội phải tuân
theo trật tự pháp luật và sự tác động (điều chỉnh) này lại có tính cưỡng chế cao
thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước”[55].
Tại Điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009, các
nhà làm luật nước ta đã ghi nhận định nghĩa lập pháp của khái niệm tội phạm
như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ

18
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ

quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể coi quy định về tội phạm nêu trên là quy định "có tính
khoa học thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm"[14].
Tuy nhiên, khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập pháp mới chỉ ghi nhận bốn
đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản trong nội hàm khái niệm của Điều 8 Bộ luật hình sự
bao gồm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự; tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; tội
phạm được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý và tội phạm xâm phạm đến các
khách thể được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ. Do đó, nếu nghiên cứu một
cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc nội dung của khái niệm tội phạm
cũng như xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy rằng, theo GS. TSKH. Lê
Văn Cảm, khái niệm này còn thiếu một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản là tội phạm
do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện[4] thì mới phù hợp với lý
luận và bao quát xử lý các trường hợp trong thực tiễn.
Còn về khái niệm các tội xâm phạm an toàn giao thông đường bộ cụ thể
- bao gồm sáu tội - tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ, tội cản trở giao thông đường bộ, tội đưa vào sử dụng các phương
tiện giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn, tội điều động hoặc giao cho
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ,
tội tổ chức đua xe trái phép và tội đua xe trái phép chính là sự cụ thể hóa khái
niệm tội phạm (chung).

19
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, chỉ có định nghĩa
riêng rẽ về từng tội phạm hoặc có tác giả chỉ liệt kê và phân tích sáu tội phạm
này và quan niệm đó là thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn giao thông

đường bộ[23], còn khái niệm cả nhóm tội phạm xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ thì chưa có định nghĩa.
Tuy nhiên, cũng có một tác giả cho rằng: “Các tội xâm phạm an toàn
giao thông đường bộ (hay còn gọi là các tội xâm phạm trật tự giao thông
đường bộ) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định tại các điều
202, 203, 204 và 205 Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách vô ý xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ,
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài
sản của người khác”[35].
Như vậy, theo quan điểm này, các tội xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ (hay còn gọi là các tội xâm phạm trật tự giao thông đường bộ) là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định tại Điều 202 (tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ), Điều 203 (tội
cản trở giao thông đường bộ), Điều 204 (tội đưa vào sử dụng các phương tiện
giao thông đường bộ không bảo đảm an toàn), Điều 205 (tội điều động hoặc
giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông
đường bộ) và các tội phạm này đều được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm này đã thu hẹp nội hàm các tội xâm
phạm an toàn giao thông đường bộ. Bởi lẽ, ngoài những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định tại Điều 202 (tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ), Điều 203 (tội cản trở giao thông đường
bộ), Điều 204 (tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường bộ
không bảo đảm an toàn), Điều 205 (tội điều động hoặc giao cho người không
đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ), các tội xâm

×