ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH TIẾN VIỆT
CHẾ ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRỊNH TIẾN VIỆT
CHẾ ĐỊNH MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 5.05.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TSKH. Lê Văn Cảm
HÀ NỘI - 2004
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ
9
1.1.
Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình
sự và phân biệt nó với miễn hình phạt
9
1.2.
Lược khảo sự hình thành và phát triển của các quy phạm về
miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
22
1.3.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự một
số nước trên thế giới
33
Chương 2: NHỮNG TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG
39
2.1.
Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được quy định
trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999
42
2.2.
Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được quy định
trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999
66
2.3.
Thực tiễn áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự
74
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
92
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự
92
3.2.
Những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự
96
3.3.
Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự
104
KẾT LUẬN
123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
125
PHỤ LỤC
133
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và được thể
hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp
cưỡng chế hình sự khác nhau của Nhà nước do luật hình sự quy định. Tuy
nhiên, trên thực tế không phải tất cả các tội phạm và các trường hợp phạm tội
đều giống nhau. Do đó, để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt
hiệu quả cao, cùng với việc phân loại tội phạm, luật hình sự Việt Nam cũng
đồng thời phân hóa các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác
nhau để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng, chính xác và công bằng.
Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người phạm tội còn thể
hiện ở chỗ không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả những người
phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là trường hợp khi có đầy đủ
căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định, thì một người đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc
cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của
pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm
động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả
năng giáo dục, cải tạo tốt, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích
cho xã hội. Miễn trách nhiệm hình sự cũng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ
với chế định trách nhiệm hình sự. Bởi vì, giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm
hình sự và áp dụng đúng đắn chế định miễn trách nhiệm hình sự trong thực
tiễn sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của Nhà nước,
các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
2
Ở nước ta, đến Bộ luật hình sự năm 1985, chế định miễn trách nhiệm
hình sự mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức, còn trước đó tuy
chưa được ghi nhận với tính chất là một chế định độc lập trong pháp luật hình
sự nhưng trong thực tiễn và một số văn bản pháp lý đã thừa nhận và áp dụng
với nhiều tên gọi khác nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự",
"miễn tố", "tha bổng bị cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội" Có
thể liệt kê một số văn bản thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985 có đề cập đến vấn đề miễn tránh nhiệm hình sự như: Sắc lệnh số 52/SL
ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/08/1945; Thông
tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ về đại xá; Sắc lệnh
số 223/SL ngày 17/11/1946; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày
30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày
21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
ngày 21/10/1970; Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành Sắc luật quy định về các tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng
trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/7/1982;
Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật
hình sự; Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 02/6/1990 của Bộ Nội vụ,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú, v.v
Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai luật hình sự Việt Nam với việc
thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, các quy định về miễn trách nhiệm hình
sự cũng được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy, chế định miễn trách nhiệm hình sự vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu
một cách sâu sắc và toàn diện. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự năm 1985, cũng
như Bộ luật hình sự năm 1999 đều chưa ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái
3
niệm miễn trách nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý cụ thể của việc miễn trách
nhiệm hình sự là gì? Mặt khác, các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự lại
được quy định rải rác ở các điều luật, các chương thuộc Phần chung và Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 rõ ràng là chưa chính xác về mặt khoa
học và chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp. Ngoài ra, quá trình áp dụng pháp
luật hình sự cho thấy các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự
còn nhiều bất cập khi vận dụng vào thực tế, đặc biệt thực tiễn đời sống xã hội
nói chung và thực tiễn pháp lý nói riêng đang tồn tại nhiều trường hợp có thể
áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự, nhưng lại chưa được nhà làm luật
nước ta quy định trong Bộ luật hình sự.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về miễn
trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra
những giải pháp hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng những quy định về miễn trách nhiệm hình sự không
những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề
mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài "Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng, có liên quan
chặt chẽ và mật thiết với chế định trách nhiệm hình sự và nhiều chế định khác
trong luật hình sự.
Trước hết, chế định này được ghi nhận trong Bộ luật hình sự của một
số nước trên thế giới như: Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Bộ luật hình sự
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Bộ luật hình sự Tây Ban Nha, Bộ luật hình
sự Thụy Điển… hoặc trong pháp luật hình sự các nước như: Anh, Cộng hòa
Liên bang Đức, cũng như các nước Hồi giáo… Ngoài ra, ở Liên Xô trước đây
cũng đã có công trình nghiên cứu về chế định này như: "Những vấn đề lý luận
4
của việc tha miễn trách nhiệm hình sự", Nxb Khoa học, Maxcơva, 1974 của
GS Kelina X.G.; "Miễn trách nhiệm hình sự" trong tuyển tập "Kevin’s English
law glossary: Exemption from criminal liability" của Kevin’s; hoặc
"Exemption from criminal liability - General Defences" của tác giả Suzanne
Wennberg, trong sách "Swedish Law in the New Millennium" do Michael
Bogdan chủ biên, Elanders Gotab, Stockholm, 2000
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề này, đáng chú ý là các công trình sau đây của TSKH. Lê Cảm: 1) Chế định
miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Trong sách: Nhà nước
và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Tập thể tác giả do TSKH Lê
Cảm chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002); 2) Về các dạng miễn
trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999
(Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2001); 3) Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình
sự khác (ngoài Điều 25) trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 2/2001); 4) Về bản chất pháp lý của các khái niệm: Miễn trách
nhiệm hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu trách nhiệm
hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 1/2002); 5)
Khái niệm, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại và bản chất pháp lý của các
biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 3(10)/2001); 6) Điều 25 - Miễn trách nhiệm hình sự (Trong sách: Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Tập I. Phần chung, Tập thể
tác giả do TS. Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001).
Ngoài ra, vấn đề miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập ở các mức
độ khác nhau trong các công trình của một số tác giả khác như: 1) Chế định
miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học
(KHXH), số 4/1997) của TS. Nguyễn Ngọc Chí; 2) Về chế định miễn trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
5
3/1988) và, Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2001) của PGS.TS Phạm Hồng
Hải; 3) Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Luật học,
số 5/1997) của TS. Lê Thị Sơn; 4) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự
(Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1993) và, Hoàn thiện các quy định của luật tố
tụng hình sự về đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2002)
của tác giả Phạm Mạnh Hùng; 5) Những trường hợp được miễn trách nhiệm
hình sự theo Điều 48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số chuyên đề về Bộ
luật hình sự, số 4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 6) Miễn trách nhiệm hình
sự trong trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình
sự (Tạp chí Kiểm sát, số 1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển Khanh; 7) Phân
biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 2/2004) của TSKH Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 8) Hoàn thiện các quy định
về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2004); Về chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Tạp chí Khoa
học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 1/2004)
Tiếp đến, chế định miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập, phân
tích trong một số Giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; 2) Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm
chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất);
3) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002; 4) Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên, Đại học Huế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; 5) Trách nhiệm hình sự
và hình phạt. Tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb
6
Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 6) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 -
Phần chung (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) của ThS. Đinh Văn Quế
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới
dạng là các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách tham khảo hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét
vấn đề ở cấp độ khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay trong
khoa học luật hình sự của Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
đến chế định này một cách tương đối có hệ thống, tương đối đồng bộ và ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ luật học. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý
luận-thực tiễn xung quanh chế định miễn trách nhiệm hình sự cũng đòi hỏi cần
phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên khảo và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định phức tạp có nhiều nội dung
liên quan đến các chế định khác trong Bộ luật hình sự như: trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự & không phải
chịu trách nhiệm hình sự Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem
xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh chế định miễn trách nhiệm hình
sự như: khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn trách
nhiệm hình sự; nội dung và điều kiện áp dụng những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, kết hợp với thực
tiễn áp dụng và có tham khảo pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích để làm rõ về mặt khoa
học các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh lập
pháp và vấn đề áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn
thiện các quy phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, trong luận văn này tác giả tập
trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
7
1) Xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm miễn trách nhiệm
hình sự, phân tích các đặc điểm cơ bản và so sánh nó với miễn hình phạt.
2) Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về miễn
trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành và
thực tiễn áp dụng các quy định này. Từ đây phân tích một số tồn tại xung quanh
việc quy định và áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự.
4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự, những phương hướng cơ
bản của việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định
miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời đưa ra mô
hình lý luận với sự bổ sung một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cần
phải được nhà làm luật ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Những cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của các chuyên
ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội
học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học
trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp
chí của các nhà khoa học-luật gia Việt Nam và nước ngoài, cũng như các văn
bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ
đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân
tối cao hoặc (và) các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên
quan đến chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng một số phương pháp tiếp cận để
làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp
nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp Đồng thời, việc nghiên
8
cứu đề tài còn dựa vào số liệu thống kê trong các báo cáo của Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân một số
địa phương và các vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin
trên mạng Internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và
luận chứng các vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã
làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn trách
nhiệm hình sự, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế
định này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Đặc biệt, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta và để phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp
luật hình sự các nước, tác giả luận văn kiến nghị bổ sung những trường hợp
có thể áp dụng miễn trách nhiệm hình sự, nhưng lại chưa được nhà làm luật
nước ta quy định trong Bộ luật hình sự. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định
có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến chế định miễn trách nhiệm hình sự
trong khoa học luật hình sự Việt Nam, do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu
tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy,
nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự
9
Chương 2: Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo pháp
luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ PHÂN BIỆT NÓ VỚI MIỄN HÌNH PHẠT
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của
luật hình sự Việt Nam, có quan hệ chặt chẽ và gắn liền với chế định trách
nhiệm hình sự. Khái niệm, cơ sở và nội dung của miễn trách nhiệm hình sự
cũng xuất phát từ khái niệm, cơ sở và nội dung của trách nhiệm hình sự. Cho
nên, để tìm hiểu khái niệm và bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự,
thì không thể không xem xét khái niệm trách nhiệm hình sự và những nội dung
xung quanh vấn đề này. Bởi lẽ, việc nhận thức khoa học đúng đắn về trách
nhiệm hình sự sẽ tạo cơ sở vững chắc cho nhận thức về miễn trách nhiệm
hình sự. Do vậy, trước khi đi vào nghiên cứu khái niệm và bản chất pháp lý
của chế định miễn trách nhiệm hình sự cần phải hiểu khái niệm và một số nội
dung cơ bản xung quanh chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam.
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Là một dạng của trách nhiệm pháp
lý, từ trước đến nay, xung quanh khái niệm "trách nhiệm hình sự" là gì (?)
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, mà cụ thể là:
10
Theo TSKH Lê Cảm thì "trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của
việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người
phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự
quy định" [7, tr. 122];
Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì định nghĩa: "Trách nhiệm hình sự là
một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu
quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi mà người đó đã thực hiện" [54, tr. 14];
Còn GS.TSKH Đào Trí Úc lại quan niệm "trách nhiệm hình sự là hậu
quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước" [75, tr. 41];
Và theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Lê Thị Sơn thì "trách
nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải
chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội,
chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư
pháp) và chịu mang án tích" [37, tr. 126]
Như vậy, tổng kết các quan điểm trên đây, đồng thời căn cứ vào các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, theo chúng tôi dưới góc
độ khoa học luật hình sự khái niệm trách nhiệm hình sự có thể định nghĩa như
sau: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và
được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội. Theo đó,
trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách
nhiệm hình sự chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội và chính vì
thế, nó là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách
nhiệm pháp lý nào khác. Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm
vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có
11
các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà nước, còn bên kia là người
phạm tội.
Nghiên cứu trách nhiệm hình sự, không thể không đề cập đến vấn đề
cơ sở và những điều kiện của nó. Bởi lẽ, việc làm rõ các nội dung này là yêu
cầu quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như loại trừ việc áp
dụng trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc tương tự đã từng được áp dụng
trong thực tiễn tư pháp hình sự ở nước ta trước đây. Hơn nữa, nó còn tạo cơ
sở vững chắc cho nhận thức về nội dung và cơ sở của miễn trách nhiệm hình
sự.
Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, TSKH. Lê Cảm đã đưa ra
định nghĩa của hai khái niệm này: "Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm"
và, "Điều kiện của trách nhiệm hình sự là căn cứ riêng cần và đủ, có tính chất
bắt buộc và do luật hình sự quy định mà chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng
(các căn cứ riêng đó) thì một người mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [7, tr.
130].
Như vậy, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi người đó có
đầy đủ cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự về một tội phạm.
Song, trên thực tế có một số trường hợp mặc dù có đầy đủ cơ sở và những
điều kiện của trách nhiệm hình sự nhưng khi có căn cứ và những điều kiện
nhất định, thì một người đã phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc cũng có thể được miễn trách
nhiệm hình sự. Cho nên, có thể khẳng định rằng, khái niệm và cơ sở của miễn
trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của trách nhiệm
hình sự.
Là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam,
miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng
12
và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời
qua đó nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội,
chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và
giúp họ trở thành người có ích cho xã hội. Hiện nay, cũng giống như khái
niệm trách nhiệm hình sự, trong khoa học luật hình sự xung quanh khái niệm
miễn trách nhiệm hình sự vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể là:
- "Miễn trách nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối
với người đó dưới hình thức bản án" [94, tr. 31];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của luật hình sự dựa
trên cơ sở xung đột về lợi ích, dùng để chỉ ra rằng không có tội phạm được
thực hiện mặc dù trên thực tế hành vi của một người nào đó đã thỏa mãn cả
yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đối với một loại tội phạm. Nguyên tắc
này được nhắc đến như là miễn trách nhiệm hình sự và không phải là miễn
hình phạt bởi vì bị cáo không chỉ tránh khỏi hình phạt mà hơn thế nữa hành
vi đó không được coi là tội phạm trong những điều kiện miễn trừ" [96, tr.
184].
- "Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình
sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là
có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [10, tr. 7];
- "Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý
đối với một tội phạm do pháp luật quy định" [75, tr. 269];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn kết tội cũng như áp dụng
hình phạt đối với người thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có
tội. Nói cách khác, miễn trách nhiệm hình sự là miễn những hậu quả pháp lý
đối với người phạm tội do pháp luật hình sự quy định" [24, tr. 14];
13
- "Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý
về các tội phạm đối với người thực hiện tội phạm khi có những điều kiện theo
quy định của pháp luật" [20, tr. 109];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc tội một người chịu trách
nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện" [32, tr. 321];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không truy cứu trách nhiệm hình sự
một người về việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình
sự, thể hiện trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" [64, tr.
238];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện" [89, tr. 389];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm" [39, tr. 166];
- "Miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có nghĩa là miễn
truy cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các
hậu quả tiếp theo do việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước
đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách
nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên thực tế có thể có trường hợp
người phạm tội được Tòa án miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử.
Trong trường hợp này, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu biện
pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn mang án tích" [61, tr. 19-20]
Như vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm miễn
trách nhiệm hình sự đều đầy đủ về nội dung, ngắn gọn và điều quan trọng là
thống nhất trong việc khẳng định rõ được nội dung và bản chất pháp lý của
nó. Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung,
ngắn gọn và nhất quán về mặt pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn và
chính sách nhân đạo của Nhà nước, theo chúng tôi khái niệm miễn trách
nhiệm hình sự phải bao gồm các nội dung như: a) Bản chất pháp lý của nó
14
(miễn trách nhiệm hình sự) là gì; b) Hình thức thể hiện của nó như thế nào; c)
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào áp dụng; d) Đối tượng bị áp dụng là ai;
và đ) Phải đáp ứng căn cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể nào.
Tóm lại, trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với
việc phân tích các quy định của pháp luật hình sự có liên quan, dưới góc độ khoa
học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm miễn trách nhiệm hình sự có thể được
định nghĩa như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của
pháp luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ
hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự
tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự
Xuất phát từ khái niệm nêu trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định
của pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự,
chúng tôi có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của nó như sau:
Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định phản
ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và
pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng. Nói một cách khác, miễn trách nhiệm
hình sự là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước để thực hiện chính sách phân
hóa và thể hiện phương châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp
với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo".
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình có nghĩa là không buộc người phạm
tội phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ ra nếu không
có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định để được miễn trách
nhiệm hình sự, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật hình sự. Điều đó có nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh
15
phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh
chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, đồng thời đáp ứng những
điều kiện nhất định thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định cho
họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, miễn trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với người mà trong
hành vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng đối
với họ lại có căn cứ và những điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình
sự trong từng trường hợp mà pháp luật hình sự hiện hành quy định, cũng như
tùy thuộc vào từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đó là tùy nghi (lựa
chọn) hay bắt buộc. Nói một cách khác, không thể áp dụng miễn trách nhiệm
hình sự đối với người không có hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của một cấu
thành tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự và đối với họ không có
căn cứ và những điều kiện nhất định.
Thứ tư, miễn trách nhiệm hình sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, cơ quan Điều tra ra quyết định đình
chỉ điều tra (bằng văn bản) khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định
tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 164); Viện kiểm
sát ra quyết định đình chỉ vụ án (bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ miễn
trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình
sự (Điều 169) hoặc rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án (Điều
181), Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm trong trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a khoản 1 Điều 249).
Thứ năm, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể,
miễn trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Cụ thể, đó là cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án (các
điều 164, 169, 181 và Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) khi có đầy
đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định.
16
Thứ sáu, người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên không
phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực
hiện (như: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không bị kết tội, không
phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi
là có án tích và không bị coi là có tội). Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự hiện
hành của nước ta, nhà làm luật chưa quy định ngoài ra họ có phải chịu một
hay nhiều biện pháp cưỡng chế về hình sự khác hay không? Về vấn đề này,
thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể
phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành
luật tương ứng khác. Cụ thể là: các biện pháp ngăn chặn theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự; buộc phải phục hồi lại tình trạng ban đầu, buộc bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh cáo
hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp
đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc biện pháp kỷ luật
Để minh chứng điều này có thể dẫn ra văn bản hướng dẫn thống nhất có tính
chất chỉ đạo của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết
số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự: "Khi đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được
quyết định bất kỳ loại hình phạt nào nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi
thường cho người bị hại và giải quyết tang vật".
1.1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt
Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành bên cạnh thuật ngữ
"miễn trách nhiệm hình sự", tại một số điều luật cụ thể của Bộ luật hình sự
năm 1999 nhà làm luật nước ta còn sử dụng khái niệm "miễn hình phạt" (Điều
54 và khoản 3 Điều 314 - Tội không tố giác tội phạm), đồng thời giữa hai
khái niệm này cũng có liên quan chặt chẽ mật thiết với nhau. Do đó, việc
phân biệt sự giống và khác nhau giữa chúng là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn.
17
Hiện nay, trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật không ghi
nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn hình phạt và trong khoa học luật
hình sự cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo chúng tôi dưới
góc độ khoa học luật hình sự miễn hình phạt có nghĩa là không buộc người
phạm tội phải chịu hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Về biện pháp
này, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "Người phạm tội có thể
được miễn hình phạt trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc
biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự". Theo đó, điều
kiện để người phạm tội được miễn hình phạt khi: a) Có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; b) Đáng được khoan
hồng đặc biệt và; c) Người đó chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt có một số điểm
giống nhau cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, chúng đều thuộc hệ thống các biện pháp tha miễn trong luật
hình sự nước ta, thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự nói
chung và của luật hình sự Việt Nam nói riêng.
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp
dụng đối với người nào bị coi là có lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó.
Nói một cách khác, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện bị
pháp luật hình sự cấm (Bộ luật hình sự quy định là tội phạm).
Thứ ba, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp
dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật
hình sự quy định tương ứng trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ tư, cũng như người được miễn trách nhiệm hình sự, người được
miễn hình phạt không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội
hoặc (và) của việc quyết định hình phạt - án tích.
18
Thứ năm, cũng như việc miễn trách nhiệm hình sự, bằng các quy
phạm có tính chất nhân đạo của chế định miễn hình phạt, nhà làm luật không
phải dùng các biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự và do đó,
sẽ loại trừ được việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp mặc dù hình
phạt có được Tòa án quyết định đi chăng nữa nhưng trên thực tế là bất hợp lý
vì các mục đích của nó không thể đạt được, đồng thời Nhà nước không cách
ly khỏi xã hội những người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và
như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm thích nghi với các yêu cầu của
trật tự pháp luật để trở lại cuộc sống bình thường trong cộng đồng xã hội,
phấn đấu làm người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.
Ngoài ra, giữa miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt cũng có
một số điểm khác nhau cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành của nước ta có quy
định chín trường hợp miễn trách nhiệm hình sự (Điều 19; khoản 1, 2 và 3
Điều 25; khoản 2 Điều 69; khoản 3 Điều 80; khoản 6 Điều 289; khoản 6 Điều
290 và khoản 3 Điều 314), thì các trường hợp miễn hình phạt trong Bộ luật
này chỉ được ghi nhận tại hai điều luật mà thôi (Điều 54 và khoản 3 Điều
314).
Thứ hai, trách nhiệm hình sự có thể được thực hiện bằng hình phạt
(nếu người phạm tội không được miễn trách nhiệm hình sự, mà bị Tòa án áp
dụng hình phạt), nhưng cũng có thể bằng biện pháp có tính cưỡng chế về hình
sự khác (nếu người phạm tội được miễn hình phạt). Còn miễn trách nhiệm
hình sự thì đương nhiên là không áp dụng hình phạt với người phạm tội, tức
là không áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối
với họ, nhưng miễn hình phạt thì không có nghĩa là không có trách nhiệm
hình sự. Nói một cách khác, người được miễn hình phạt khi họ chưa đến mức
được miễn trách nhiệm hình sự, còn người được miễn trách nhiệm hình sự lại
đương nhiên được miễn hình phạt.
19
Thứ ba, khác với miễn trách nhiệm hình sự, điều kiện được miễn hình
phạt áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể không được quy định rõ ràng như
miễn trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự năm 1999
thì các điều kiện để miễn hình phạt không khắt khe (chặt chẽ) bằng các điều
kiện để miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, dưới góc độ pháp luật hình sự thực
định và và thực tiễn áp dụng nó, chúng ta có thể nhận thấy hành vi phạm tội và
nhân thân người được miễn trách nhiệm hình sự thông thường đều ít nguy hiểm
hơn so với hành vi phạm tội và nhân thân của người được miễn hình phạt.
Thứ tư, nếu hình phạt và việc áp dụng miễn hình phạt đối với người bị
kết án chỉ có thể và phải do một cơ quan duy nhất áp dụng - Tòa án, thì trong
khi đó miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, ngoài Tòa án có
thẩm quyền áp dụng ra còn có thể do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm
quyền (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát) áp
dụng trước khi xét xử tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng.
Và thứ năm, nếu người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên
không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình
thực hiện (như: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu hình phạt
hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị
coi là có tội), nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn trách nhiệm
hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý
thuộc các ngành luật tương ứng khác (như: pháp luật tố tụng hình sự; pháp luật
dân sự; pháp luật hành chính; pháp luật lao động hoặc biện pháp kỷ luật ) và đã
được ghi nhận tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 về việc Hướng dẫn
áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao (đã nêu). Trong khi đó, người được miễn hình phạt tuy đương
nhiên được xóa án tích (khoản 1 Điều 64), nhưng họ vẫn có thể bị áp dụng các
biện pháp tư pháp quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (các điều 41-43).
1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định những trƣờng hợp miễn trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
20
Hiện nay, việc nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự là một
vấn đề quan trọng và cấp thiết, không những góp phần đấu tranh phòng và
chống tội phạm, mà còn thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta
đối với những người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, qua đó nhằm khuyến
khích, động viên người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo
dục, cải tạo nhanh chóng, hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích
cho xã hội. Do đó, nó có ý nghĩa quan trọng thể hiện trên các bình diện sau.
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị-xã hội, việc quy định những trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho các cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền xác định được chính xác và đúng đắn trường hợp
nào người phạm tội và hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa,
hoặc không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự mà vẫn đảm bảo yêu
cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm
dụng và tùy tiện khi áp dụng, qua đó tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc công bằng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Đặc biệt, ngoài việc ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định
thì việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trong thực tiễn cũng chính là một
trong những hình thức xã hội hóa giáo dục để quần chúng nhân dân, cơ quan
tổ chức và gia đình người bị kết án tham gia vào việc cải tạo, giáo dục người
phạm tội, giúp đỡ đưa họ trở lại con đường lương thiện, lao động chân chính
và có ích cho xã hội. Điều đó có nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp
dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu
tranh phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, đồng thời đáp ứng
những điều kiện nhất định thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định cho họ được miễn trách nhiệm hình sự. Cho nên, "ngoài ý nghĩa nhân
đạo và nguyên tắc mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý nghiêm minh,
kịp thời, thì việc càng có nhiều căn cứ, điều kiện pháp lý cho việc miễn trách
21
nhiệm hình sự càng làm tăng thêm các kênh để qua đó nhân dân có thể tham
gia vào việc giáo dục người phạm tội" [78, tr. 54].
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý, biện pháp miễn trách nhiệm hình sự chỉ
có thể được đặt ra đối với người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà luật hình sự quy định hành vi đó là tội phạm. Nói một cách khác, nó chỉ áp
dụng (hoặc có thể được áp dụng) đối với người nào mà trong hành vi của họ thỏa
mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng đối với người đó lại có
căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự
trong từng trường hợp tương ứng mà pháp luật hình sự hiện hành quy định,
cũng như tùy thuộc vào từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đó có tính
chất tùy nghi (lựa chọn) hay có tính chất bắt buộc.
Ngoài ra, cũng dưới góc độ pháp lý này, người được miễn trách nhiệm
hình sự đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc
phạm tội do mình thực hiện như: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không bị
kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác,
không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải
chịu một hay nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương
ứng khác (tố tụng hình sự, hành chính, dân sự, lao động ) tùy theo từng trường
hợp tương ứng cụ thể. Vì vậy, việc cân nhắc những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự để áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội chính là sự đảm bảo của nguyên tắc công bằng giữa các công dân nói chung,
giữa những người phạm tội nói riêng trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ ba, dưới góc độ nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong lĩnh
vực tư pháp hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định
phản ánh rõ nét nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Miễn trách nhiệm
hình sự là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước để thực hiện chính sách phân
hóa và thể hiện phương châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp
22
với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo". Miễn
trách nhiệm hình sự là chế định luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế
định trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam. Khái niệm và cơ
sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của
trách nhiệm hình sự. Cho nên, về điều này đúng như TS Lê Thị Sơn đã viết:
"Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với người phạm tội
thì miễn trách nhiệm hình sự, miễn hậu quả pháp lý của việc phạm tội cũng
chỉ có thể đặt ra đối với người phạm tội. Không thể áp dụng miễn trách nhiệm
hình sự đối với người không có hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của một
cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự" [61, tr. 19].
Do đó, dưới góc độ này, nhà làm luật đã quy định chặt chẽ cơ sở của
trách nhiệm hình sự tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 đó là "Chỉ người
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự". Khi đã thỏa mãn cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm
hình sự thì một người mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cùng với việc phân
loại tội phạm, nhà làm luật nước ta cũng đồng thời phân hóa trong pháp luật
hình sự Việt Nam các trường hợp phạm tội, các đối tượng phạm tội khác nhau
để có đường lối xử lý phù hợp, chính xác và công bằng. Nếu trường hợp một
người có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định, thì họ có thể
không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc cũng có thể được miễn trách nhiệm
hình sự. Nếu người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, điều đó có nghĩa
họ được hưởng chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, khoan hồng để mở rộng
cơ hội quay trở lại con đường lương thiện, làm ăn chân chính và có ích cho xã
hội.
Và bốn là, dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật hình sự
một cách đầy đủ, chặt chẽ, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn thì đó cũng là