Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

LUẬN VĂN: Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 138 trang )











LUẬN VĂN:

Chế định miễn trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam












mở đầu





1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và được thể hiện
bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế hình
sự khác nhau của Nhà nước do luật hình sự quy định. Tuy nhiên, trên thực tế không
phải tất cả các tội phạm và các trường hợp phạm tội đều giống nhau. Do đó, để công
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc phân loại
tội phạm, luật hình sự Việt Nam cũng đồng thời phân hóa các trường hợp phạm tội,
các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, nhanh chóng,
chính xác và công bằng. Đặc biệt, sự phân hóa các trường hợp phạm tội và người
phạm tội còn thể hiện ở chỗ không phải tất cả các trường hợp phạm tội hay tất cả
những người phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là trường hợp khi có
đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định, thì một người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc cũng có
thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của pháp
luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối
với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến
khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt,
hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Miễn trách nhiệm
hình sự cũng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ với chế định trách nhiệm hình sự. Bởi
vì, giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm hình sự và áp dụng đúng đắn chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong thực tiễn sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan
áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích
của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
ở nước ta, đến Bộ luật hình sự năm 1985, chế định miễn trách nhiệm hình
sự mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức, còn trước đó tuy chưa được




ghi nhận với tính chất là một chế định độc lập trong pháp luật hình sự nhưng trong
thực tiễn và một số văn bản pháp lý đã thừa nhận và áp dụng với nhiều tên gọi khác
nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố", "tha bổng bị cáo",
"miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội" Có thể liệt kê một số văn bản thời kỳ
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 có đề cập đến vấn đề miễn tránh
nhiệm hình sự như: Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội
phạm trước ngày 19/08/1945; Thông tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng
Chính phủ về đại xá; Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946; Pháp lệnh trừng trị các
tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân ngày 21/10/1970; Thông tư số 03-BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định về các tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng
trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/7/1982; Nghị
quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số
01/HĐTP ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Thông tư liên
ngành số 05/TTLN ngày 02/6/1990 của Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành chính sách đối với
người phạm tội ra tự thú, v.v
Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai luật hình sự Việt Nam với việc thông qua
Bộ luật hình sự năm 1999, các quy định về miễn trách nhiệm hình sự cũng được sửa
đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chế định miễn
trách nhiệm hình sự vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn
diện. Chẳng hạn, Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999
đều chưa ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, hậu
quả pháp lý cụ thể của việc miễn trách nhiệm hình sự là gì? Mặt khác, các trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự lại được quy định rải rác ở các điều luật, các chương
thuộc Phần chung và Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 rõ ràng là chưa




chính xác về mặt khoa học và chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp. Ngoài ra, quá trình
áp dụng pháp luật hình sự cho thấy các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm
hình sự còn nhiều bất cập khi vận dụng vào thực tế, đặc biệt thực tiễn đời sống xã
hội nói chung và thực tiễn pháp lý nói riêng đang tồn tại nhiều trường hợp có thể áp
dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự, nhưng lại chưa được nhà làm luật nước ta
quy định trong Bộ luật hình sự.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt
khoa học các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về miễn trách
nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp
hoàn thiện các quy định của chế định này, cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng những quy định về miễn trách nhiệm hình sự không những có ý nghĩa lý luận -
thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây chính là
lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài "Chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng, có liên quan chặt chẽ
và mật thiết với chế định trách nhiệm hình sự và nhiều chế định khác trong luật hình
sự.
Trước hết, chế định này được ghi nhận trong Bộ luật hình sự của một số
nước trên thế giới như: Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Bộ luật hình sự Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, Bộ luật hình sự Tây Ban Nha, Bộ luật hình sự Thụy Điển…
hoặc trong pháp luật hình sự các nước như: Anh, Cộng hòa Liên bang Đức, cũng
như các nước Hồi giáo… Ngoài ra, ở Liên Xô trước đây cũng đã có công trình
nghiên cứu về chế định này như: "Những vấn đề lý luận của việc tha miễn trách
nhiệm hình sự", Nxb Khoa học, Maxcơva, 1974 của GS Kelina X.G.; "Miễn trách
nhiệm hình sự" trong tuyển tập "Kevin’s English law glossary: Exemption from
criminal liability" của Kevin’s; hoặc "Exemption from criminal liability - General




Defences" của tác giả Suzanne Wennberg, trong sách "Swedish Law in the New
Millennium" do Michael Bogdan chủ biên, Elanders Gotab, Stockholm, 2000
ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này,
đáng chú ý là các công trình sau đây của TSKH. Lê Cảm: 1) Chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Trong sách: Nhà nước và pháp luật Việt
Nam trước thềm thế kỷ XXI, Tập thể tác giả do TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2002); 2) Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy
định tại Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2001); 3)
Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25) trong Bộ luật hình sự
năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2001); 4) Về bản chất pháp lý của
các khái niệm: Miễn trách nhiệm hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải
chịu trách nhiệm hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số
1/2002); 5) Khái niệm, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại và bản chất pháp lý của
các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học pháp lý, số
3(10)/2001); 6) Điều 25 - Miễn trách nhiệm hình sự (Trong sách: Bình luận khoa
học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Tập I. Phần chung, Tập thể tác giả do TS.
Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001).
Ngoài ra, vấn đề miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập ở các mức độ
khác nhau trong các công trình của một số tác giả khác như: 1) Chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa học (KHXH), số 4/1997)
của TS. Nguyễn Ngọc Chí; 2) Về chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình
sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1988) và, Về chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
12/2001) của PGS.TS Phạm Hồng Hải; 3) Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm
hình sự (Tạp chí Luật học, số 5/1997) của TS. Lê Thị Sơn; 4) Một số ý kiến về miễn
trách nhiệm hình sự (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1993) và, Hoàn thiện các quy
định của luật tố tụng hình sự về đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm sát,

số 5/2002) của tác giả Phạm Mạnh Hùng; 5) Những trường hợp được miễn trách
nhiệm hình sự theo Điều 48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số chuyên đề về Bộ



luật hình sự, số 4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 6) Miễn trách nhiệm hình sự
trong trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự (Tạp chí
Kiểm sát, số 1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển Khanh; 7) Phân biệt miễn trách
nhiệm hình sự với miễn hình phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2004) của TSKH
Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 8) Hoàn thiện các quy định về miễn trách nhiệm hình
sự (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2004); Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 (Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số
1/2004)
Tiếp đến, chế định miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập, phân tích
trong một số Giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; 2) Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2001 và 2003 (tái bản lần thứ nhất); 3) Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam, Tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2002; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập
thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2000; 5) Trách nhiệm hình sự và hình phạt. Tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 6) Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự 1999 - Phần chung (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) của ThS. Đinh
Văn Quế
Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới dạng là
các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo
trình, sách tham khảo hay sách bình luận, hoặc mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ khóa
luận tốt nghiệp cử nhân luật. Có nghĩa là cho đến nay trong khoa học luật hình sự của

Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến chế định này một cách tương
đối có hệ thống, tương đối đồng bộ và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ hay một luận án
tiến sĩ luật học. Hơn nữa, nhiều vấn đề lý luận-thực tiễn xung quanh chế định miễn



trách nhiệm hình sự cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện,
chuyên khảo và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định phức tạp có nhiều nội dung liên
quan đến các chế định khác trong Bộ luật hình sự như: trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự & không phải chịu trách
nhiệm hình sự Bởi vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ xem xét và giải
quyết một số vấn đề xung quanh chế định miễn trách nhiệm hình sự như: khái niệm,
bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự; nội dung và
điều kiện áp dụng những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình
sự năm 1999 hiện hành, kết hợp với thực tiễn áp dụng và có tham khảo pháp luật
hình sự của một số nước trên thế giới.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích để làm rõ về mặt khoa học
các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh lập pháp và vấn
đề áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy
phạm của chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, trong luận văn này tác giả tập trung vào
giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
1) Xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm miễn trách nhiệm hình sự,
phân tích các đặc điểm cơ bản và so sánh nó với miễn hình phạt.
2) Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về miễn trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3) Phân tích nội dung, điều kiện áp dụng những trường hợp miễn trách

nhiệm hình sự theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành và thực
tiễn áp dụng các quy định này. Từ đây phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy
định và áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự.



4) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự, những phương hướng cơ bản của
việc hoàn thiện và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định miễn trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời đưa ra mô hình lý luận với sự bổ
sung một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cần phải được nhà làm luật ghi
nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Những cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Những cơ sở lý luận của luận văn là các thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật,
luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các nhà khoa học-
luật gia Việt Nam và nước ngoài, cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước và
những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực
pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc (và) các cơ quan bảo vệ pháp
luật ở Trung ương ban hành có liên quan đến chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, luận văn cũng đã sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm
sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu
như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn
dựa vào số liệu thống kê trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân một số địa phương và các vụ án hình
sự trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên mạng Internet để phân tích, tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề nghiên cứu.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm

rõ khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình
sự, nội dung và điều kiện áp dụng của những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra



các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định này ở khía cạnh lập pháp và
việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Đặc biệt, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa trong chính sách hình sự của
Nhà nước ta và để phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự
các nước, tác giả luận văn kiến nghị bổ sung những trường hợp có thể áp dụng miễn
trách nhiệm hình sự, nhưng lại chưa được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ
luật hình sự. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là
nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập đến
chế định miễn trách nhiệm hình sự trong khoa học luật hình sự Việt Nam, do đó nó
còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học,
cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự
Chương 2: Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về miễn trách nhiệm hình sự

1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự và

phân biệt nó với miễn hình phạt
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự



Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của luật
hình sự Việt Nam, có quan hệ chặt chẽ và gắn liền với chế định trách nhiệm hình
sự. Khái niệm, cơ sở và nội dung của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ
khái niệm, cơ sở và nội dung của trách nhiệm hình sự. Cho nên, để tìm hiểu khái
niệm và bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự, thì không thể không xem xét
khái niệm trách nhiệm hình sự và những nội dung xung quanh vấn đề này. Bởi lẽ,
việc nhận thức khoa học đúng đắn về trách nhiệm hình sự sẽ tạo cơ sở vững chắc
cho nhận thức về miễn trách nhiệm hình sự. Do vậy, trước khi đi vào nghiên cứu
khái niệm và bản chất pháp lý của chế định miễn trách nhiệm hình sự cần phải hiểu
khái niệm và một số nội dung cơ bản xung quanh chế định trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam.
Trách nhiệm hình sự là một thuật ngữ pháp lý và được sử dụng đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Là một dạng của trách nhiệm pháp lý, từ
trước đến nay, xung quanh khái niệm "trách nhiệm hình sự" là gì (?) vẫn còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau, mà cụ thể là:
Theo TSKH Lê Cảm thì "trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc
thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định" [7, tr.
122];
Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì định nghĩa: "Trách nhiệm hình sự là một
dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do
Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người
đó đã thực hiện" [54, tr. 14];
Còn GS.TSKH Đào Trí úc lại quan niệm "trách nhiệm hình sự là hậu quả

pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm
về hành vi của mình trước Nhà nước" [75, tr. 41];



Và theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Lê Thị Sơn thì "trách nhiệm
hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác
động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án
tích" [37, tr. 126]
Như vậy, tổng kết các quan điểm trên đây, đồng thời căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, theo chúng tôi dưới góc độ khoa
học luật hình sự khái niệm trách nhiệm hình sự có thể định nghĩa như sau: Trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện
bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước
do luật hình sự quy định đối với người phạm tội. Theo đó, trách nhiệm hình sự là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh (xuất
hiện) khi có sự việc phạm tội và chính vì thế, nó là dạng trách nhiệm pháp lý
nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Trách nhiệm
hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai
bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà
nước, còn bên kia là người phạm tội.
Nghiên cứu trách nhiệm hình sự, không thể không đề cập đến vấn đề cơ sở
và những điều kiện của nó. Bởi lẽ, việc làm rõ các nội dung này là yêu cầu quan
trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như loại trừ việc áp dụng trách nhiệm hình sự
theo nguyên tắc tương tự đã từng được áp dụng trong thực tiễn tư pháp hình sự ở
nước ta trước đây. Hơn nữa, nó còn tạo cơ sở vững chắc cho nhận thức về nội dung
và cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự.
Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, TSKH. Lê Cảm đã đưa ra định

nghĩa của hai khái niệm này: "Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm" và, "Điều kiện của
trách nhiệm hình sự là căn cứ riêng cần và đủ, có tính chất bắt buộc và do luật hình



sự quy định mà chỉ khi nào có tổng hợp tất cả chúng (các căn cứ riêng đó) thì một
người mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [7, tr. 130].
Như vậy, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi người đó có đầy
đủ cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự về một tội phạm. Song, trên
thực tế có một số trường hợp mặc dù có đầy đủ cơ sở và những điều kiện của trách
nhiệm hình sự nhưng khi có căn cứ và những điều kiện nhất định, thì một người đã
phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có thể không phải chịu trách nhiệm
hình sự hoặc cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Cho nên, có thể khẳng
định rằng, khái niệm và cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ khái
niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự.
Là một trong những chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, miễn
trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời qua đó nhằm
động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo
dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng và giúp họ trở thành người có ích
cho xã hội. Hiện nay, cũng giống như khái niệm trách nhiệm hình sự, trong khoa
học luật hình sự xung quanh khái niệm miễn trách nhiệm hình sự vẫn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau, cụ thể là:
- "Miễn trách nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá tiêu cực đối với
người đó dưới hình thức bản án" [94, tr. 31];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của luật hình sự dựa trên cơ
sở xung đột về lợi ích, dùng để chỉ ra rằng không có tội phạm được thực hiện mặc
dù trên thực tế hành vi của một người nào đó đã thỏa mãn cả yếu tố chủ quan và
yếu tố khách quan đối với một loại tội phạm. Nguyên tắc này được nhắc đến như là

miễn trách nhiệm hình sự và không phải là miễn hình phạt bởi vì bị cáo không chỉ
tránh khỏi hình phạt mà hơn thế nữa hành vi đó không được coi là tội phạm trong
những điều kiện miễn trừ" [96, tr. 184].



- "Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của luật hình sự Việt
Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc
thực hiện hành vi đó" [10, tr. 7];
- "Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý đối
với một tội phạm do pháp luật quy định" [75, tr. 269];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn kết tội cũng như áp dụng hình
phạt đối với người thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có tội. Nói cách
khác, miễn trách nhiệm hình sự là miễn những hậu quả pháp lý đối với người phạm
tội do pháp luật hình sự quy định" [24, tr. 14];
- "Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là miễn những hậu quả pháp lý về
các tội phạm đối với người thực hiện tội phạm khi có những điều kiện theo quy định
của pháp luật" [20, tr. 109];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc tội một người chịu trách nhiệm
hình sự về tội mà họ đã thực hiện" [32, tr. 321];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không truy cứu trách nhiệm hình sự một
người về việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình sự, thể hiện
trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" [64, tr. 238];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó đã thực hiện" [89, tr. 389];
- "Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội mà người đó đã phạm" [39, tr. 166];
- "Miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có nghĩa là miễn truy
cứu trách nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các hậu quả

tiếp theo do việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn
bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị
mang án tích. Trên thực tế có thể có trường hợp người phạm tội được Tòa án miễn



trách nhiệm hình sự trong giai đoạn xét xử. Trong trường hợp này, miễn trách
nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự
và miễn mang án tích" [61, tr. 19-20]
Như vậy, về cơ bản tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm miễn trách
nhiệm hình sự đều đầy đủ về nội dung, ngắn gọn và điều quan trọng là thống nhất
trong việc khẳng định rõ được nội dung và bản chất pháp lý của nó. Tuy nhiên, để
đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về
mặt pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn và chính sách nhân đạo của Nhà nước,
theo chúng tôi khái niệm miễn trách nhiệm hình sự phải bao gồm các nội dung như:
a) Bản chất pháp lý của nó (miễn trách nhiệm hình sự) là gì; b) Hình thức thể hiện
của nó như thế nào; c) Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào áp dụng; d) Đối tượng
bị áp dụng là ai; và đ) Phải đáp ứng căn cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể nào.
Tóm lại, trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc
phân tích các quy định của pháp luật hình sự có liên quan, dưới góc độ khoa học luật
hình sự, theo chúng tôi khái niệm miễn trách nhiệm hình sự có thể được định nghĩa như
sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt
Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy
thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện luật định.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự
Xuất phát từ khái niệm nêu trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của
pháp luật hình sự hiện hành có liên quan đến miễn trách nhiệm hình sự, chúng tôi có

thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của nó như sau:
Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định phản ánh
rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình
sự Việt Nam nói riêng. Nói một cách khác, miễn trách nhiệm hình sự là một biện



pháp hữu hiệu của Nhà nước để thực hiện chính sách phân hóa và thể hiện phương
châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị
kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo".
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình có nghĩa là không buộc người phạm tội
phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội đó mà lẽ ra nếu không có đầy đủ
căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định để được miễn trách nhiệm hình sự,
thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Điều đó
có nghĩa, trường hợp xét thấy không cần phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng
tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm
tội, đồng thời đáp ứng những điều kiện nhất định thì các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định cho họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, miễn trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi
của họ thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng đối với họ lại có
căn cứ và những điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự trong từng
trường hợp mà pháp luật hình sự hiện hành quy định, cũng như tùy thuộc vào từng
trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đó là tùy nghi (lựa chọn) hay bắt buộc. Nói
một cách khác, không thể áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đối với người không có
hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định
trong luật hình sự và đối với họ không có căn cứ và những điều kiện nhất định.
Thứ tư, miễn trách nhiệm hình sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định phải được thể hiện bằng văn bản. Cụ thể, theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2003, cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra (bằng

văn bản) khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 19, Điều 25 và
khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 164); Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án
(bằng văn bản) khi có một trong các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều
19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự (Điều 169) hoặc rút quyết định truy tố và
đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 181), Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ



thẩm trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a
khoản 1 Điều 249).
Thứ năm, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn
trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cụ thể, đó là cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án (các điều 164, 169, 181
và Điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và
những điều kiện do luật định.
Thứ sáu, người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên không phải
chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như:
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt
hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị
coi là có tội). Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta, nhà làm luật
chưa quy định ngoài ra họ có phải chịu một hay nhiều biện pháp cưỡng chế về hình
sự khác hay không? Về vấn đề này, thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn
trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp tác động về mặt
pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác. Cụ thể là: các biện pháp ngăn chặn
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; buộc phải phục hồi lại tình trạng ban
đầu, buộc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự; phạt tiền, cảnh
cáo hoặc buộc thôi việc theo quy định của pháp luật hành chính; đình chỉ hợp đồng
lao động theo quy định của pháp luật lao động hoặc biện pháp kỷ luật Để minh
chứng điều này có thể dẫn ra văn bản hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày

05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự: "Khi
đã miễn trách nhiệm hình sự thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại hình phạt
nào nhưng vẫn có thể quyết định việc bồi thường cho người bị hại và giải quyết
tang vật".
1.1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt



Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành bên cạnh thuật ngữ "miễn
trách nhiệm hình sự", tại một số điều luật cụ thể của Bộ luật hình sự năm 1999 nhà
làm luật nước ta còn sử dụng khái niệm "miễn hình phạt" (Điều 54 và khoản 3 Điều
314 - Tội không tố giác tội phạm), đồng thời giữa hai khái niệm này cũng có liên
quan chặt chẽ mật thiết với nhau. Do đó, việc phân biệt sự giống và khác nhau giữa
chúng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận - thực tiễn.
Hiện nay, trong Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật không ghi nhận
định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn hình phạt và trong khoa học luật hình sự
cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo chúng tôi dưới góc độ khoa
học luật hình sự miễn hình phạt có nghĩa là không buộc người phạm tội phải chịu
hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Về biện pháp này, Điều 54 Bộ luật hình
sự năm 1999 quy định "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường
hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của
Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách
nhiệm hình sự". Theo đó, điều kiện để người phạm tội được miễn hình phạt khi: a)
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; b) Đáng
được khoan hồng đặc biệt và; c) Người đó chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt có một số điểm giống
nhau cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, chúng đều thuộc hệ thống các biện pháp tha miễn trong luật hình
sự nước ta, thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự nói chung và
của luật hình sự Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp dụng đối
với người nào bị coi là có lỗi trong việc thực hiện chính tội phạm đó. Nói một cách
khác, hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện bị pháp luật hình sự cấm
(Bộ luật hình sự quy định là tội phạm).



Thứ ba, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt chỉ có thể áp dụng khi
có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định
tương ứng trong từng trường hợp cụ thể.
Thứ tư, cũng như người được miễn trách nhiệm hình sự, người được miễn
hình phạt không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội hoặc (và) của
việc quyết định hình phạt - án tích.
Thứ năm, cũng như việc miễn trách nhiệm hình sự, bằng các quy phạm có
tính chất nhân đạo của chế định miễn hình phạt, nhà làm luật không phải dùng các
biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự và do đó, sẽ loại trừ được
việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp mặc dù hình phạt có được Tòa án
quyết định đi chăng nữa nhưng trên thực tế là bất hợp lý vì các mục đích của nó
không thể đạt được, đồng thời Nhà nước không cách ly khỏi xã hội những người bị
coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và như vậy, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
họ sớm thích nghi với các yêu cầu của trật tự pháp luật để trở lại cuộc sống bình
thường trong cộng đồng xã hội, phấn đấu làm người lương thiện, có ích cho gia
đình và xã hội.
Ngoài ra, giữa miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt cũng có một số
điểm khác nhau cơ bản dưới đây.
Thứ nhất, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành của nước ta có quy định
chín trường hợp miễn trách nhiệm hình sự (Điều 19; khoản 1, 2 và 3 Điều 25; khoản
2 Điều 69; khoản 3 Điều 80; khoản 6 Điều 289; khoản 6 Điều 290 và khoản 3 Điều
314), thì các trường hợp miễn hình phạt trong Bộ luật này chỉ được ghi nhận tại hai
điều luật mà thôi (Điều 54 và khoản 3 Điều 314).

Thứ hai, trách nhiệm hình sự có thể được thực hiện bằng hình phạt (nếu
người phạm tội không được miễn trách nhiệm hình sự, mà bị Tòa án áp dụng hình
phạt), nhưng cũng có thể bằng biện pháp có tính cưỡng chế về hình sự khác (nếu
người phạm tội được miễn hình phạt). Còn miễn trách nhiệm hình sự thì đương
nhiên là không áp dụng hình phạt với người phạm tội, tức là không áp dụng biện



pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối với họ, nhưng miễn hình phạt
thì không có nghĩa là không có trách nhiệm hình sự. Nói một cách khác, người được
miễn hình phạt khi họ chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự, còn người
được miễn trách nhiệm hình sự lại đương nhiên được miễn hình phạt.
Thứ ba, khác với miễn trách nhiệm hình sự, điều kiện được miễn hình phạt
áp dụng đối với từng trường hợp cụ thể không được quy định rõ ràng như miễn trách
nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự năm 1999 thì các điều kiện
để miễn hình phạt không khắt khe (chặt chẽ) bằng các điều kiện để miễn trách nhiệm
hình sự. Do đó, dưới góc độ pháp luật hình sự thực định và và thực tiễn áp dụng nó,
chúng ta có thể nhận thấy hành vi phạm tội và nhân thân người được miễn trách
nhiệm hình sự thông thường đều ít nguy hiểm hơn so với hành vi phạm tội và nhân
thân của người được miễn hình phạt.
Thứ tư, nếu hình phạt và việc áp dụng miễn hình phạt đối với người bị kết
án chỉ có thể và phải do một cơ quan duy nhất áp dụng - Tòa án, thì trong khi đó
miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, ngoài Tòa án có thẩm quyền áp
dụng ra còn có thể do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền (cơ quan Điều tra
với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát) áp dụng trước khi xét xử tùy
thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể tương ứng.
Và thứ năm, nếu người được miễn trách nhiệm hình sự đương nhiên không
phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện (như:
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng
chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và không bị coi là có tội), nhưng thực tiễn

xét xử cho thấy, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc
nhiều biện pháp tác động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác (như:
pháp luật tố tụng hình sự; pháp luật dân sự; pháp luật hành chính; pháp luật lao động
hoặc biện pháp kỷ luật ) và đã được ghi nhận tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (đã nêu). Trong khi đó, người được miễn hình



phạt tuy đương nhiên được xóa án tích (khoản 1 Điều 64), nhưng họ vẫn có thể bị áp
dụng các biện pháp tư pháp quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (các điều 41-43).
1.1.4. ý nghĩa của việc quy định những trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
Hiện nay, việc nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự là một vấn đề
quan trọng và cấp thiết, không những góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm,
mà còn thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với những người
phạm tội và hành vi do họ thực hiện, qua đó nhằm khuyến khích, động viên người
phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng, hòa
nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, nó có ý nghĩa quan
trọng thể hiện trên các bình diện sau.
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị-xã hội, việc quy định những trường hợp
miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho các cơ quan tư pháp hình
sự có thẩm quyền xác định được chính xác và đúng đắn trường hợp nào người phạm
tội và hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, hoặc không cần thiết
phải áp dụng trách nhiệm hình sự mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm dụng và tùy tiện khi áp dụng, qua
đó tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc công
bằng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Đặc biệt, ngoài việc ghi nhận
trong pháp luật hình sự thực định thì việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trong
thực tiễn cũng chính là một trong những hình thức xã hội hóa giáo dục để quần

chúng nhân dân, cơ quan tổ chức và gia đình người bị kết án tham gia vào việc cải
tạo, giáo dục người phạm tội, giúp đỡ đưa họ trở lại con đường lương thiện, lao
động chân chính và có ích cho xã hội. Điều đó có nghĩa, trường hợp xét thấy không
cần phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà vẫn đảm bảo yêu cầu
đấu tranh phòng và chống tội phạm, có căn cứ chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo
nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng của người phạm tội, đồng thời đáp ứng những
điều kiện nhất định thì các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định cho họ
được miễn trách nhiệm hình sự. Cho nên, "ngoài ý nghĩa nhân đạo và nguyên tắc



mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, thì việc càng có
nhiều căn cứ, điều kiện pháp lý cho việc miễn trách nhiệm hình sự càng làm tăng
thêm các kênh để qua đó nhân dân có thể tham gia vào việc giáo dục người phạm
tội" [78, tr. 54].
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý, biện pháp miễn trách nhiệm hình sự chỉ có
thể được đặt ra đối với người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật
hình sự quy định hành vi đó là tội phạm. Nói một cách khác, nó chỉ áp dụng (hoặc có
thể được áp dụng) đối với người nào mà trong hành vi của họ thỏa mãn những dấu hiệu
của cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng đối với người đó lại có căn cứ pháp lý và những
điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự trong từng trường hợp tương
ứng mà pháp luật hình sự hiện hành quy định, cũng như tùy thuộc vào từng trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự đó có tính chất tùy nghi (lựa chọn) hay có tính chất
bắt buộc.
Ngoài ra, cũng dưới góc độ pháp lý này, người được miễn trách nhiệm hình
sự đương nhiên không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do
mình thực hiện như: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không bị kết tội, không phải
chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, không bị coi là có án tích và
không bị coi là có tội. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải chịu một hay nhiều biện pháp tác
động về mặt pháp lý thuộc các ngành luật tương ứng khác (tố tụng hình sự, hành chính,

dân sự, lao động ) tùy theo từng trường hợp tương ứng cụ thể. Vì vậy, việc cân nhắc
những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự để áp dụng đối với người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội chính là sự đảm bảo của nguyên tắc công bằng giữa các
công dân nói chung, giữa những người phạm tội nói riêng trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Thứ ba, dưới góc độ nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định phản ánh rõ
nét nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. Miễn trách nhiệm hình sự là một biện
pháp hữu hiệu của Nhà nước để thực hiện chính sách phân hóa và thể hiện phương
châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị



kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo". Miễn trách nhiệm hình sự là chế định
luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với chế định trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự Việt Nam. Khái niệm và cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát
từ khái niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự. Cho nên, về điều này đúng như TS
Lê Thị Sơn đã viết: "Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với
người phạm tội thì miễn trách nhiệm hình sự, miễn hậu quả pháp lý của việc phạm
tội cũng chỉ có thể đặt ra đối với người phạm tội. Không thể áp dụng miễn trách
nhiệm hình sự đối với người không có hành vi thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của một
cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự" [61, tr. 19].
Do đó, dưới góc độ này, nhà làm luật đã quy định chặt chẽ cơ sở của trách
nhiệm hình sự tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 đó là "Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Khi đã
thỏa mãn cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự thì một người mới phải
chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng và chống tội phạm, cùng với việc phân loại tội phạm, nhà làm luật nước ta
cũng đồng thời phân hóa trong pháp luật hình sự Việt Nam các trường hợp phạm
tội, các đối tượng phạm tội khác nhau để có đường lối xử lý phù hợp, chính xác và

công bằng. Nếu trường hợp một người có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện
nhất định, thì họ có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc cũng có thể được
miễn trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, điều
đó có nghĩa họ được hưởng chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, khoan hồng để
mở rộng cơ hội quay trở lại con đường lương thiện, làm ăn chân chính và có ích cho xã
hội.
Và bốn là, dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự được nhà làm luật nước ta quy định trong Bộ luật hình sự một cách
đầy đủ, chặt chẽ, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn thì đó cũng là một trong
những cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và hoàn thiện một số chế định khác có
liên quan đến nó như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, hình phạt, miễn hình phạt
Hơn nữa, nó còn thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự trong việc xây



dựng từng chế định của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, qua đó nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.2. Lược khảo sự hình thành và phát triển của các quy phạm về miễn
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
ở nước ta, đến Bộ luật hình sự năm 1985, chế định miễn trách nhiệm hình
sự mới được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức, còn trước đó chưa được ghi
nhận với tính chất là một chế định độc lập trong pháp luật hình sự nhưng trong thực
tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã thừa nhận và áp dụng với nhiều tên gọi
khác nhau như: "xá miễn", "tha miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố", "tha bổng bị
cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả tội" Có thể liệt kê đến một số văn bản
thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 có đề cập đến vấn đề miễn
tránh nhiệm hình sự như: Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số

tội phạm trước ngày 19/08/1945; Thông tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ
tướng Chính phủ về đại xá; Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định tội phạm
về chức vụ; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970; Thông tư số 03-
BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định về các
tội phạm và hình phạt; Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép ngày 10/7/1982; Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của
Bộ luật hình sự; Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 2/6/1990 của Bộ Nội vụ,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn



thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú Đến lần pháp điển hóa lần
thứ hai luật hình sự Việt Nam bằng việc thông qua Bộ luật hình sự năm 1999, các
quy định về miễn trách nhiệm hình sự cũng được sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn
thiện hơn.
Như vậy, sở dĩ trước đây trong pháp luật hình sự thực định có ghi nhận và
thực tiễn xét xử có áp dụng nó là xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo trong chính sách
hình sự của Nhà nước nói chung và luật hình sự Việt Nam nói riêng, từ quan điểm
cho rằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt về hình sự mặc dù là rất quan
trọng trong việc bảo vệ pháp chế, củng cố trật tự pháp luật song không phải là biện
pháp duy nhất mà đòi hỏi ngày càng mở rộng các biện pháp tác động xã hội khác để
đấu tranh phòng và chống tội phạm [38, tr. 10]. Mặt khác, miễn trách nhiệm hình sự
với các tên gọi khác nhau được áp dụng trong thời kỳ này chủ yếu để thực hiện
phương châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng",
"trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo". Tuy nhiên, do yêu cầu bảo vệ nền độc lập

và trật tự an toàn xã hội của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời nên
chưa quy định cụ thể mà các điều kiện áp dụng miễn trách nhiệm hình sự được xác
định tương tự như các điều kiện xử nhẹ hoặc miễn hình phạt được quy định trong
một số điều tại các văn bản pháp lý khác nhau. Chẳng hạn:
- Điều 1 mục 1 Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 - văn bản pháp luật hình
sự đầu tiên của giai đoạn này quy định về đại xá cho một số tội phạm trước ngày
19/08/1945. Theo đó, những người phạm tội trước ngày 19/08/1945 về những loại kể
sau đây đều được hoàn toàn xá miễn: "1. Tội phạm vào luật lệ báo chí; 2. Tội phạm
vào luật lệ hội họp; 3. Tội của thợ thuyền bị phạt do luật lao động; 4. Tội phạm
trong khi đình công; 5. Tội phạm vào luật lệ về quan thuế và thương mại, rượu lậu,
thuốc phiện lậu, muối lậu và các hàng hóa lậu khác; 6. Tội phạm vào luật lệ kiểm
lâm; 7. Tội phạm vào luật lệ kinh tế chỉ huy; 8. Tội vô ý giết người hoặc đánh người
có thương tích; và 9. Tội vi cảnh" [68, tr. 184]. Theo đó, đại xá là một biện pháp
khoan hồng của Nhà nước, có tác dụng tha tội - thường là hoàn toàn và triệt để - cho
hàng loạt những người phạm những tội nhất định nào đó, có ý nghĩa chính trị rất to



lớn, thường chỉ được ban hành vào những dịp có những sự kiện đặc biệt quan trọng
trong đời sống chính trị của đất nước. Như vậy, miễn trách nhiệm hình sự được áp
dụng trong trường hợp xá miễn. Và cũng theo Điều 4 Sắc lệnh số 52/SL này thì
"Những tội được xá miễn đều coi như không phạm bao giờ; quyền công tố sẽ tiêu
hủy, những chính hình và phụ hình mà Tòa án đã tuyên đều bỏ hết. Những tiền phạt
hoặc án phí mà công khố đã thu của tội nhân rồi thì không hoàn lại nữa. Những của
cải đã tịch biên và phát mại rồi cũng không trả lại nữa"
- Mục II trong Thông tư số 314-TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính
phủ về đại xá có nêu "Người đang bị giam mà được đại xá thì được tha ngay.
Những người đã mãn hạn tù hoặc được ân xá, ân giảm và được tha trước đây và
những người này được tha đều được hưởng quyền công dân như ứng cử, bầu cử và
các quyền tự do, dân chủ " [68, tr. 184].

- Điều 2 Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định tội phạm về chức vụ
ghi nhận "Người phạm đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà
chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đưa hối lộ bị công chức cưỡng bách
ước hứa, hay là dùng cách trá ngụy thì người ấy được miễn hết cả tội. Trong trường
hợp này, tang vật hối lộ được hoàn trả" [68, tr. 476]. Như vậy, trong văn bản này,
miễn trách nhiệm hình sự được sử dụng với tên gọi là miễn hết cả tội.
- Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 quy
định về những trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt như sau: "Kẻ
nào phạm tội phản cách mạng nêu ở mục 2 mà tội phạm thuộc vào một hoặc nhiều
trường hợp sau đây thì được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt.
1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm.
2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ những âm mưu
và hành động của mình và của đồng bọn.
3. Cố ý không thi hành đầy đủ hoặc khuyên bảo đồng bọn không thi hành
đầy đủ những âm mưu của bọn cầm đầu phản cách mạng.
4. Có những hành động làm giảm bớt tác hại của tội phạm.

×