Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.08 KB, 90 trang )


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT





NGUYN TH NGC LAN







CHế ĐịNH TRả Hồ SƠ Để ĐIềU TRA Bổ SUNG CủA TòA áN
TRÊN CƠ Sở THựC TIễN CủA TòA áN THàNH PHố Hà NộI

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04



LUN VN THC S LUT HC




Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN TT VIN





H NI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Ngọc Lan


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ
SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN 7
1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình
sự Việt Nam 7
1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự 7
1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam 9
1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố
tụng hình sự Việt Nam 13
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự 13
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án 20
Chương 2: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 26
2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án 26
2.1.1. Một số quy định cụ thể 26
2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung 29
2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung 40
2.1.4. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 42


2.1.5. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong trả hồ sơ để
điều tra bổ sung 43
2.2. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn
thành phố Hà Nội 47
2.2.1. Tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn
thành phố Hà Nội 47
2.2.2. Lý do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung 49
2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung 60

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 66
3.1. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hƣớng hoàn thiện việc trả
hồ sơ điều tra bổ sung 66
3.2. Nâng cao ý thức công vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ
có chức danh tƣ pháp trong việc nghiên cứu vận dụng các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung 71
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố
tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử 72
3.4. Tăng cƣờng quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án 74
3.5. Tăng cƣờng công tác tập huấn và rút kinh nghiệm nghiệp vụ 76
3.6. Tăng cƣờng kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều
tra, truy tố 77
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự
BKS: Biểm kiểm soát
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS: Tố tụng hình sƣ
TTLN: Thông tƣ liên ngành







DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Bảng thống kê các vụ án tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm
sát để điều tra bổ sung (từ năm 2009 đến năm 2013)
48





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau trong đó xét xử vụ án hình sự đóng một vai trò quan trọng. Tại phiên
tòa, tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập đƣợc trong giai đoạn điều
tra, truy tố đều đƣợc đƣa ra xét xử công khai thông qua việc xét hỏi và tranh
luận. Trên cơ sở đó, Tòa án ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy
định của pháp luật. Việc xét xử công bằng, nghiêm minh sẽ góp phần bảo vệ
chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể;
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm. Thông qua việc xét xử, đặc biệt là các phiên tòa

công khai sẽ góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống
tội phạm cũng nhƣ các vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên không phải trƣờng hợp nào Tòa án cũng có thể xét xử phù
hợp với quy định của pháp luật nếu chỉ thông qua những tài liệu, chứng cứ
mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đƣợc, qua thẩm vấn công khai
tại phiên tòa mà có rất nhiều trƣờng hợp không thu thập đƣợc đầy đủ tài liệu
chứng cứ để kết luận về tội phạm, ngƣời phạm tội hoặc quá trình điều tra,
truy tố còn vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc có căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác, có ngƣời đồng phạm khác. Do vậy,
Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm
khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ hạn chế
đƣợc oan, sai, bỏ lọt tội phạm, từ đó bảo đảm hơn nữa quyền con ngƣời,
quyền công dân.


2
Khi nghiên cứu chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành
cho thấy nhiều bất cập cần phải đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để thể
hiện rõ hơn chức năng của từng cơ quan tố tụng, để có sự nhận thức thống
nhất khi áp dụng pháp luật, tránh trƣờng hợp một hồ sơ vụ án hình sự bị trả đi
trả lại nhiều lần ảnh hƣởng đến thời hạn giải quyết vụ án hình sự, gây tốn kém
chi phí tố tụng, ảnh hƣởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách
tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hƣớng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và

các văn kiện khác của Đảng về cải cách tƣ pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong đó
có chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là rất cần thiết. Do vậy, việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định trả điều tra bổ sung của Tòa
án không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn
là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa
án thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định trả điều tra bổ sung nói chung và chế định trả điều tra bổ sung
của Tòa án nói riêng luôn thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng. Chế định này đƣợc nghiên cứu trong một số tác phẩm của một
số nhà khoa học, nghiên cứu dƣới dạng các bài viết, bài báo, chuyên đề…
Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt
Nam cho đến nay: GS. TSKH Lê Cảm – TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ


3
biên), “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền”; PGS.TS Võ Khánh Vinh, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự”; PGS.TS. Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát
hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay”; Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối
cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc
Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên đề về
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự”; Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về
điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu Hậu,
“Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu
cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê

Ngọc Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác
giả Nguyễn Đình Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra
bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp
khắc phục việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số
2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, “Một số vấn đề về
hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử phúc thẩm”,
Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm, “Hoàn thiện quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ
sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc, “Bàn về chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Thái
Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về
yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 11/2013; Tác giả


4
Lê Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung đối với Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp
chí kiểm sát số 6/2013; Tác giả Lê Tấn Cƣờng, “Giải pháp để hạn chế việc
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số
10/2014; Tác giả Đào Anh Tới, “Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ
sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014…
Các công trình trên, vấn đề trả điều tra bổ sung đƣợc đề cập đến ở các
mức độ khác nhau. Có những công trình đề cập đến ý nghĩa, nội dung của chế
định này trong Bộ luật TTHS. Nhƣng cũng có những công trình mà tác giả
không đồng tình với việc quy định việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Với những lập luận của các tác giả này thì xu hƣớng thiên về giữ nguyên chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có hạn chế một số điều kiện. Nhìn chung

các công trình nêu trên còn tản mạn, chƣa có công trình nào tập trung phân
tích đƣợc một cách cơ bản vai trò, ý nghĩa, hậu quả pháp lý của trả hồ sơ điều
tra bổ sung của Tòa án, chƣa giải đáp tổng thể về thực tiễn cũng nhƣ những
giải pháp thực hiện trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự mà hiện nay,
việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS đang tính đến, khi vị trí pháp lý của tòa
án đã khác so với trƣớc khi có Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến việc trả điều tra bổ sung của Tòa án. Đánh giá thực trạng,
nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
của chế định này trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:


5
- Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của Tòa án trong hệ thống cơ quan tƣ
pháp hình sự và quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án.
- Nêu và phân tích thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội;
- Nêu giải pháp hoàn thiện, kiến nghị xung quanh tình trạng trả hồ sơ
để điều tra bổ sung.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa
hai cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án và Viện kiểm sát (trên địa bàn
thành phố Hà Nội);
- Số liệu và tƣ liệu về việc trả điều tra bổ sung của Tòa án từ năm 2009
đến năm 2013.

4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về công tác tƣ pháp và cải cách tƣ pháp.
Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong nghiên cứu luận văn gồm:
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu tại chỗ;
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp;
- Phƣơng pháp so sánh;
- Phƣơng pháp thống kê hình sự;
- Phƣơng pháp khảo sát thực tế;
- Phƣơng pháp lịch sử…
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn nêu đƣợc một số điểm về cơ sở lý luận về trả hồ sơ điều tra
bổ sung trong cơ chế mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và Tòa án đƣợc xác
định là cơ quan xét xử thực hiện quyền tƣ pháp.


6
- Nêu đƣợc những bất cập của chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung qua
thực tiễn xét xử ở Hà Nội.
- Kiến nghị xung quanh chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Tòa án
Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định trả hồ
sơ điều tra bổ sung












7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ
ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN

1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình
sự Việt Nam
Để nghiên cứu chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong
tố tụng hình sự Việt Nam, cần xuất phát từ đặc trƣng của mô hình tố tụng
hình sự mà Việt nam đã áp dụng.
Mô hình tố tụng hình sự, theo cách hiểu chung nhất, là sự khái quát cao
những đặc trƣng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố
tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ
chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện
các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử) [26].
Nhƣ vậy, xem xét, đánh giá về mô hình tố tụng hình sự đƣợc tiến hành
trên các yếu tố cơ bản nhƣ: Địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực
hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; các mục tiêu, nhiệm vụ tố tụng

đặt ra cần hƣớng tới; phƣơng pháp, thủ tục tố tụng đƣợc áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự
Trên thế giới trƣớc đây và hiện nay tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng
hình sự khác nhau trong đó có hai loại mô hình tố tụng chủ yếu là mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn (mô hình tố tụng hình sự xét hỏi) và mô hình tố tụng
hình sự tranh tụng. Ngoài ra còn tồn tại mô hình tố tụng hình sự kết hợp giữa
thẩm vấn và tranh tụng.
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là huy động các cơ


8
quan tố tụng chuyên trách của Nhà nƣớc (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát/
Viện Công tố, Toà án) vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, các cơ quan này
cùng đƣợc giao trách nhiệm chứng minh tội phạm. Thủ tục tố tụng không
nặng về buộc tội hay gỡ tội của một bên tranh tụng, do vậy sẽ tránh đƣợc xu
hƣớng che giấu sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm khả năng kiểm soát
tình hình tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. Hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đƣợc đánh giá là cao hơn so
với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng (đại diện của mô hình này là các nƣớc
theo hệ thống luật lục địa nhƣ Pháp, Italia, Đức…).
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là bảo đảm sự bình
đẳng giữa bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bào chữa (luật sƣ) trong suốt
quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Theo mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì
cơ quan công tố không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà đƣợc coi là một
bên tham gia tranh tụng. Công tố viên cũng nhƣ luật sƣ bào chữa là những
ngƣời có trong tay toàn bộ những chứng cứ của vụ án mà họ tự thu thập đƣợc.
Địa vị tố tụng của Công tố viên, bị cáo, ngƣời bào chữa tại phiên toà sơ thẩm
đƣợc xác định là các bên có quyền bình đẳng nhƣ nhau trong việc sử dụng tất
cả các nguồn lực và phƣơng tiện đƣợc pháp luật cho phép để thực hiện chức

năng của mình. Trong quá trình xét xử, công tố viên và luật sƣ bào chữa tranh
luận công khai, đóng vai trò chính trong việc thẩm vấn, đối đáp lẫn nhau. Các
quan toà chỉ tiếp cận thông tin về vụ án thông qua quá trình tranh tụng giữa
Công tố viên và luật sƣ bào chữa. Nguyên tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình
tố tụng hình sự, kể từ khi bắt đầu cuộc điều tra cho đến khi Toà án ra phán
quyết (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ
Anh, Hoa Kỳ, Canada, Ôxtraylia )
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự xét hỏi kết hợp với tranh tụng là


9
sự giao thoa, tiếp biến giữa các yếu tố tích cực, tiến bộ của mô hình tố tụng
hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng nhằm hƣớng tới việc xây
dựng mô hình tố tụng hình sự có khả năng giải quyết một cách tối ƣu nhiệm
vụ phát hiện và xử lý tội phạm, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền
con ngƣời, quyền công dân. Sự giao thoa giữa các mô hình tố tụng hình sự
đƣợc thực hiện theo hƣớng kết hợp những yếu tố tích cực của mô hình thẩm vấn
và mô hình tranh tụng. Sự kết hợp này theo tỷ lệ nhƣ thế nào giữa các yếu tố là
do sự lựa chọn của các nhà lập pháp trên cơ sở các điều kiện cụ thể về lịch sử,
chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia (điển hình của mô hình này là Liên
Bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…)
1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
Mỗi mô hình tố tụng hình sự trên đây đều có ƣu điểm nhƣợc điểm hạn
chế nhất định. Đối với Việt Nam, mô hình tố tụng hình sự trong quá trình phát
triển chịu ảnh hƣởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự Pháp và mô hình Xô viết
(hai mô hình tố tụng hình sự vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Âu lục
địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn.
Hệ thống pháp luật, hệ thống tƣ pháp của Pháp đã hiện diện ở nƣớc ta
trong khoảng 80 năm - bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tƣ pháp phong
kiến bản xứ - đã ảnh hƣởng sâu sắc đến truyền thống, tƣ duy pháp lý ở nƣớc ta.

Các Bộ luật tố tụng hình sự đƣợc ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc
là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ
Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan tƣ pháp và hệ thống pháp luật nƣớc ta chịu sự ảnh hƣởng mạnh
mẽ của mô hình Xô viết. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hƣởng này đƣợc
thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nƣớc ta ban hành
năm 1988 và vẫn tiếp tục ảnh hƣởng trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.


10
Đến nay, tuy trong quá trình phát triển, Việt Nam đã tiếp thu một số hạt
nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, nhƣng mô hình tố tụng hình
sự ở nƣớc ta cho đến thời điểm ban hành Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn
là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự
hiện hành thể hiện ở một số điểm sau [26].
+ Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp,
xung đột pháp lý giữa các bên, điều này khác với mô hình tố tụng hình sự
tranh tụng. Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm hại tới trật tự công cộng,
lợi ích chung của xã hội và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm giải quyết, việc giải
quyết vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nƣớc. Các cơ
quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đại diện cho Nhà nƣớc
trong giải quyết vụ án hình sự, bị can, bị cáo có vai trò thụ động phụ thuộc rất
lớn vào các cơ quan tiến hành tố tụng và gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngƣời bị hại không có quyền lựa chọn cách
thức giải quyết vụ việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào
ý muốn của ngƣời bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
+ Mục tiêu tố tụng hình sự Việt Nam là tìm ra sự thật, chân lý khách
quan của sự việc, mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng nhƣ thẩm

quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Pháp luật trao trách nhiệm tìm
kiếm chứng cứ, xác định sự thật vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
ngƣời tiến hành tố tụng.
+ Tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng
phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên thực
hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ.


11
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra
quyết định truy tố hoặc không truy tố ngƣời phạm tội. Tại phiên tòa áp dụng
chủ yếu phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn mà không phải là sự đối tụng giữa
bên buộc tội và bên bào chữa. Phƣơng pháp điều tra đƣợc thực hiện dƣới hình
thức xét hỏi. Hội đồng xét xử đặt những câu hỏi về từng tình tiết của vụ án
nhằm xác minh tính trung thực, tính đúng đắn của các chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án; thẩm tra các nhân chứng; xem xét những vật chứng liên quan Sau
việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của
Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự.
+ Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành
các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở mỗi
một giai đoạn thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và gắn với quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể nhƣng đều hƣớng tới mục tiêu chung là làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án. Các giai đoạn tố tụng đƣợc tiến hành gắn liền
và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trƣớc làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau,
giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt đƣợc của giai đoạn tố tụng
trƣớc đó. Việc phân chia các giai đoạn tố tụng gắn với quyền hạn, trách nhiệm
các chủ thể tiến hành tố tụng nhƣ vậy làm cho các hoạt động tố tụng có tính
chuyên nghiệp, tạo nên hiệu quả hoạt động tố tụng đáp ứng yêu cầu điều tra,
xử lý tội phạm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, hạn chế việc
vi phạm quyền của bị can, bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác.

+ Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai
loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Việc phân chia này
khác với mô hình tố tụng tranh tụng gồm bên buộc tội, bên gỡ tội và Tòa án
trung lập. Chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền chứng minh trong vụ án
hình sự, độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Những ngƣời tham gia tố


12
tụng không có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài
liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự,
cơ quan tiến hành tố tụng luôn ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh
giá các chứng cứ đến việc đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc
giải quyết vụ án. Đối lập với vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến
hành tố tụng là vai trò thụ động của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo không đƣợc xem là một bên trong quan hệ tố tụng nhƣ
trong mô hình tố tụng tranh tụng và trên thực tế, nhiều trƣờng hợp gần nhƣ là
đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Việc thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam cũng
giống với mô hình tố tụng hình sự của nhiều nƣớc trên thế giới, tố tụng hình
sự Việt Nam quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng
buộc tội; chức năng bào chữa do ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và ngƣời bào
chữa của họ thực hiện; Tòa án thực hiện chức năng xét xử.
+ Trong tố tụng hình sự Việt Nam luôn tồn tại khái niệm “hồ sơ vụ án
hình sự”, điều này ngƣợc lại với mô hình tố tụng tranh tụng. Hồ sơ vụ án hình
sự đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra,
chứa đựng các tài liệu, chứng cứ về tội phạm và ngƣời phạm tội và đƣợc các
cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của
mình, đồng thời đƣợc bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng.
Với những đặc điểm nêu trên, mô hình tố tụng hình sự nƣớc ta thời gian
qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội

phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bƣớc đáp
ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
trong điều kiện trình độ dân trí cũng nhƣ kinh tế còn thấp.


13
1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình
tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự
Mang đặc điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn nên tồn tại hồ sơ vụ án
hình sự và sự phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn
tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án); ngƣời tiến hành tố tụng (thủ trƣởng, phó thủ trƣởng cơ quan
điều tra, điều tra viên; viện trƣởng, phó viện trƣởng viện kiểm sát,
kiểm sát viên; chánh án, phó chánh án tòa án, thẩm phán, hội thẩm
và thƣ kí tòa án); ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; ngƣời bào chữa; ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời bảo vệ
quyền lợi của đƣơng sự; ngƣời làm chứng; ngƣời giám định và ngƣời
phiên dịch), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự [31, tr. 9].
Giai đoạn tố tụng hình sự là bƣớc của quá trình tố tụng hình sự tƣơng
ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tƣ pháp hình sự của từng loại
chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án
hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp
phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền hợp pháp của công

dân trong tƣ pháp hình sự [1]. Luật tố tụng hình sự chia quá trình tố tụng
thành các giai đoạn sau:


14
Khởi tố vụ án hình sự: là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, trong đó,
cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay
không để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự,
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung và về pháp luật về hình thức của
việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này đƣợc bắt đầu từ khi
nhận đƣợc những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết
thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có
liên quan đến hành vi đó.
Giai đoạn này có ý nghĩa: là sự phản ứng nhanh chóng của Nhà nƣớc
đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một
cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội, là một
giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cƣờng pháp chế, bảo
vệ các quyền và tự do của công dân trƣớc khi khởi tố bị can và áp dụng các
biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng
hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm trong toàn xã hội.
Điều tra vụ án hình sự: là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong
đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và dƣới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án
hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng nhƣ ngƣời có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời
bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và

trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc chuyển toàn


15
bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và
đề nghị truy tố bị can.
Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp
dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội
phạm và ngƣời phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này kể
từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ
quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trƣớc Tòa án hoặc
đình chỉ vụ án hình sự tƣơng ứng. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng, trực
tiếp chứng minh hành vi phạm tội thông qua các chứng cứ đã thu thập đƣợc,
ngăn chặn việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận
trọng, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
Giai đoạn truy tố: trong giai đoạn này Viện kiểm sát căn cứ vào các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm
đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao
gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra
chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trƣớc
Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ
quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của
Viện kiểm sát đƣợc chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm



16
hình sự đúng tội, đúng ngƣời và đúng pháp luật. Đây là chức năng quan trọng
của Viện kiểm sát, góp phần loại trừ những hậu quả tiêu cực trong hai giai
đoạn trƣớc đó cũng nhƣ những hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do
việc xét xử thiếu công minh, không đúng pháp luật.
Giai đoạn xét xử: Ở giai đoạn này Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tƣ
pháp, căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có thẩm quyền
đƣa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để phán quyết về nội dung
vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai
bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục
phúc thẩm nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã đƣợc tuyên và chƣa có hiệu
lực pháp luật nhƣng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và
có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và
cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật,
có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Giai đoạn thi hành án: là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực
hiện bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử là giai đoạn
trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự và chức năng xét
xử thuộc về Tòa án. Tòa án với tính chất là trọng tài kiểm tra toàn diện, khách
quan các chứng cứ, tình tiết vụ án xác định tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội hay không có tội của bị cáo. Đây cũng là giai đoạn quan
trọng để tăng cƣờng pháp chế bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong



17
các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tƣ pháp hình
sự của Nhà nƣớc nói chung. Một điều dễ dàng nhận ra là trong tố tụng thẩm
vấn, Toà án không giữ vai trò trọng tài nhƣ trong tố tụng tranh tụng, mà có vai
trò lớn hơn rất nhiều. Toà án trong tố tụng thẩm vấn đƣợc xem nhƣ cơ quan
thực thi chính sách tƣ pháp hình sự, do đó có sự hợp tác chặt chẽ với Cơ quan
công tố. Điều này lý giải vai trò của Thẩm phán giám sát trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
Vai trò chính của Toà án trong tố tụng thẩm vấn là chủ trì việc xem xét
công khai các kết quả của giai đoạn điều tra, truy tố đƣợc thể hiện trong hồ sơ
vụ án. Quá trình đó đƣợc xem nhƣ là việc kiểm tra lại nội dung hồ sơ vụ án.
Các Thẩm phán xét xử có trách nhiệm đọc, nghiên cứu kỹ lƣỡng hồ sơ vụ án
trƣớc khi xét xử, kiểm tra công khai bị cáo và các nhân chứng trên cơ sở các
tình tiết chứa đựng trong hồ sơ, chú ý đến những gì Công tố viên và Luật sƣ
bào chữa nêu về vụ án và sau đó đƣa ra phán quyết. Những nhận thức về nội
dung vụ án đƣợc hình thành trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có ảnh
hƣởng khá đậm nét với các Thẩm phán trong quá trình xét xử và ra phán
quyết tại phiên toà.
Chức năng xét xử chỉ có thể đạt đƣợc kết quả tốt khi có quá trình chuẩn
bị tốt. Công việc chuẩn bị phải tuân theo một trình tự, thủ tục bắt buộc theo
quy định của Bộ luật TTHS. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án phải thực
hiện một số công việc và trong một khoảng thời gian nhất định theo qui định
pháp luật. Qua quá trình chuẩn bị, tùy từng vụ án cụ thể, Tòa án sẽ có cách
thức giải quyết khác nhau: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Nhƣ
vậy, Tòa án chỉ quyết định đƣa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện, nếu chƣa
đủ các điều kiện theo quy định pháp luật, Tòa án có thể lùi lại một khoảng



18
thời gian nhất định; không phải vụ án nào Viện kiểm sát quyết định truy tố là
Tòa án đều phải đƣa ra xét xử. Đây chính là sự chế ƣớc cần thiết trong mối
quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Tại phiên tòa cũng vậy,
nếu có một trong các căn cứ: thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án,
phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay có căn cứ để cho rằng
bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác thì Tòa án có quyền yêu
cầu điều tra bổ sung.
TS. Lê Tiến Châu cho rằng về mặt lý luận, là chủ thể thực
hiện chức năng xét xử, Tòa án phải thật sự khách quan và vô tƣ
trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Tòa án phải là
“trọng tài” trung lập giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Viện kiểm
sát – cơ quan quyết định truy tố có trách nhiệm thu thập, đề xuất
chứng cứ làm cơ sở cho quyết định truy tố của mình và quyết định
cần có những chứng cứ gì, cần bao nhiêu chứng cứ là đủ để chứng
minh. Nếu chứng cứ không đầy đủ, Tòa án sau khi xem xét sự kiện
đã xảy ra cần tuyên bố bị cáo vô tội. Việc Bộ luật tố tụng hình sự
quy định Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh lỗi của bị cáo
bằng cách trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung khi cho rằng thiếu
chứng cứ quan trọng; bị can, bị cáo phạm tội khác là không phù hợp
với nội dung của chức năng xét xử, chƣa phù hợp với việc phân
định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện
chức năng tố tụng. Nhƣ vậy Tòa án lấn sân chức năng buộc tội, làm
thay công việc của công tố [2].
Tuy ý kiến nêu trên có những điểm hợp lý, nhƣng thƣờng áp dụng trong
mô hình tố tụng tranh tụng. Việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhƣ đã
tồn tại trong mô hình tố tụng thẩm vấn ở Việt Nam hiện nay luôn thể hiện


19

đƣợc vai trò tích cực và cho đến nay khi mà Hiến pháp 2013 ra đời thay thế
cho Hiến pháp 1992 thì chế định này càng thể hiện rõ nét hơn ý nghĩa của
mình trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung, và đối với Tòa án nói
riêng, cơ quan nhân danh Nhà nƣớc thực hiện chức năng xét xử.
Điều 102 Hiến pháp 2013 khẳng định “Tòa án là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [23]. So
với Hiến pháp 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực
hiện quyền tƣ pháp. Về các nội dung cụ thể của “quyền tƣ pháp” cho đến hiện
nay vẫn chƣa đƣợc làm rõ nhƣng nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm quyền
tƣ pháp trƣớc hết là quyền xét xử, quyền xét xử là đỉnh cao nhất, hội tụ nhất
của quyền tƣ pháp. Có ý kiến cho rằng quyền tƣ pháp phải đƣợc thể hiện ở tất
cả các giai đoạn trƣớc, trong và sau xét xử, Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý
nên những vấn đề liên quan đến quyền con ngƣời, quyền công dân phải do
Tòa án quyết định. Tòa án: là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp. Khi
thực hiện quyền tƣ pháp, tòa án nhân danh Nhà nƣớc để xét xử, phán quyết
về một vi phạm pháp luật hay một tranh chấp. Phán quyết của tòa án không
phải là sự đánh giá hay phản ứng của hội đồng xét xử mà là hình thức biểu
lộ quan điểm của nhà nƣớc đối với vụ án đó. Đây là đặc trƣng có tính chất
cơ bản, cốt lõi, bao trùm nhất của tòa án, thể hiện tính chính danh của
quyền tƣ pháp. Từ đó, quyền tƣ pháp đƣợc thể hiện qua việc kiểm soát của
tòa án đối với hoạt động điều tra, truy tố, đó là việc thẩm định lại các
chứng cứ, các quyết định tƣ pháp của cơ quan điều tra, viện kiểm sát (quyết
định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ điều tra…). Là
cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, về nguyên tắc, tòa án có trách nhiệm
kiểm soát tính đúng đắn và hợp pháp của các quyết định của cơ quan điều
tra, viện kiểm sát liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân, quyền tài sản
của cá nhân, tổ chức trong hoạt động tƣ pháp.

×