ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HỒNG
CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ-THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI THỊ HỒNG
CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ-THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: TS.Hoàng Thị Minh Sơn
Hà Nội - 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU
Chương 1.
Một số vấn đề chung và quy định của bộ luật tố tụng hình
sự về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
9
1.1.
Khái niệm và đặc điểm của hoa
̣
t động chuẩn bị xét xử
vụ án hình sự
9
1.2.
Vai trò và ý nghĩa của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự
13
1.3.
Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
16
Kết luận chương 1
62
Chương 2.
Thực trạng thực hiện những quy định của bộ luật tố
tụng hình sự về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
64
2.1.
Thực trạng thực hiện những quy định của Bộ Luật tố
tụng Hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
64
2.2.
Thực trạng thực hiện những quy định của Bộ Luật tố
tụng Hình sự về chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự
88
Kết luận chương 2
93
Chương 3.
nguyên nhân hạn chế và giải pháp nâng cao hiệu quả
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
95
3.1.
Nguyên nhân những hạn chế trong hoạt động chuẩn bị
xét xử vụ án hình sự
95
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chuẩn bị xét xử vụ
án hình sự
103
Kết luận chương 3
123
KẾT LUẬN
125
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1.
Thống kê các quyết định trong quá trình chuẩn bị xét
xử, tính theo số vụ án
66
2.2.
Thống kê số vụ án xét xử hình sự phúc thẩm quá hạn
luật định của ngành Toà án Hà Nội
89
2.3.
Thống kê số vụ án đã giải quyết theo trình tự phúc
thẩm của ngành Toà án Hà Nội từ năm 2006 đến
năm 2010
92
DANH MC BIU
S hiu
biu
Tờn biu
Trang
2.1.
S v ỏn c a ra xột x
67
2.2.
Số vụ án Tòa án quyết định trả hồ sơ điều tra bổ
sung
67- 68
2.3.
Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án
69- 70
2.4.
Thống kê số liệu xét xử án hình sự phúc thẩm quá
hạn luật định của ngành Toà án Hà Nội từ năm
2006 tới năm 2010.
89
2.5.
Thống kê số liệu xét xử án hình sự phúc thẩm của
ngành Toà án Hà Nội từ năm 2006 tới năm 2010
92
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1.1.
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
22
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự đƣợc thực hiện
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Với đề tài nghiên cứu khoa học của mình,
tác giả lựa chọn và làm sáng tỏ một số điều của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm
2003 quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Nhƣ vậy, nghiên cứu
và làm rõ quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là một hoạt động
nghiên cứu khoa học luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thực tiễn xét xử
án hình sự của ngành tòa án cũng nhƣ hoạt động xây dựng, áp dụng pháp luật
hình sự và các ngành luật khác có liên quan. Tính đến thời điểm này, trong khoa
học pháp lý không nhiều đề tài nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề lý luận cơ
bản cũng nhƣ thực tiễn áp dụng quy phạm pháp luật về hoạt động chuẩn bị xét
xử vụ án hình sự.
Các quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự của Bộ Luật
tố tụng Hình sự năm 2003 so với quy định trƣớc đó đã có nhiều điểm mới và
cụ thể hơn nhƣng vẫn còn một số hạn chế chƣa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của
thực tiễn xét xử trong quá trình cải cách tƣ pháp. Đây là một hoạt động nghiên
cứu khoa học luật rất có ích, nhất là đối với những ngƣời làm công tác thực
tiễn. Hoạt động này giúp cho các nhà xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật
và đặc biệt hơn cả là đối với những ngƣời làm công tác xét xử có quyết định
đúng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nƣớc, công dân và xã hội. Đó
cũng chính là sự đóng góp không thể thiếu của đề tài luận văn trên chặng
đƣờng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020.
Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học luật tƣơng đối rộng và có sức
hấp dẫn rất lớn đối với tôi vì một số lý do sau:
Thứ nhất, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự quy định trong Bộ
Luật tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003 còn thiếu rõ ràng, cụ thể là một số
2
khái niệm sau đây đƣợc hiểu nhƣ thế nào: Thế nào là chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự? Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự? Bản chất pháp lý và
nội dung hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự? Nguyên nhân một số
vƣớng mắc trong thực tiễn hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự và giải
pháp khắc phục nhƣ thế nào?
Thứ hai, đây là một chế định liên quan đồng thời đến nhiều ngành luật
chứ không chỉ đối với ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Do đó, việc làm
rõ khái niệm này cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều ngành luật khác
nhau. Vì vậy, có thể nói rằng nghiên cứu những quy định của pháp luật về
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là điều kiện cần và đủ đối với hoạt
động xét xử vụ án hình sự.
Thứ ba, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự đƣợc quy định trong
Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 là sự thể hiện một phần các nguyên tắc
nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Sự
tồn tại những quy định này là cơ sở cho những ngƣời làm công tác trong lĩnh
vực pháp luật có một định hƣớng đúng đắn khi vận dụng, xây dựng pháp luật.
Những ngƣời làm công tác xét xử có một quyết định đúng đắn: Có đƣa vụ án
ra xét xử hay không? Quyết định đình chỉ vụ án hay tạm đình chỉ vụ án?
Quyết định có trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không?. Bên cạnh đó, hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự còn góp phần đảm bảo cho việc thực hiện
nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự, mà nội dung cơ bản của
nguyên tắc này là: Chỉ những ngƣời thực hiện hành vi phạm tội đƣợc quy
định tại Bộ Luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Mọi hành vi
phạm tội phải đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và khách quan theo
đúng pháp luật với mục đích không bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, tránh
làm oan ngƣời vô tội.
3
Thứ tƣ, các báo cáo tổng kết công tác năm của ngành Toà án cả nƣớc
nói chung và ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng những năm
gần đây, khi đề cập đến các vụ án hình sự, quyết định của Toà án bị trả hồ sơ
điều tra bổ sung, hủy bản án sơ thẩm thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
là do một số những ngƣời tiến hành tố tụng còn thiếu kỹ năng nghiệp vụ,
chuyên môn và còn chủ quan trong hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
nên dẫn đến tình trạng huỷ bản án, trả hồ sơ điều tra bổ sung. Nhƣ vậy, để
tránh tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, huỷ bản án sơ thẩm thì những
ngƣời tiến hành tố tụng, mà trong đó thẩm phán đƣợc phân công chủ tọa
phiên tòa là ngƣời chịu trách nhiệm chủ đạo phải có kỹ năng và trình độ
chuyên môn cao trong hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự nói riêng và
xét xử vụ án hình sự nói chung.
Từ những lập luận trên, tôi chọn đề tài “Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự -
Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu và bảo vệ với mong muốn đề tài khoa
học thành công sẽ đồng thời có ý nghĩa trên hai phƣơng diện lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự đã đƣợc một số tác
giả nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau.
Công trình nghiên cứu mang tính đại cƣơng có: 1.GS.TSKH Lê Văn
Cảm chủ trì (2009), Giáo trình tƣ pháp hình sự, Bộ môn tƣ pháp hình sự -
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội; 2.TS.GVC Nguyễn Ngọc Chí chủ biên
(2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật Đại học quốc gia
Hà Nội. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; 3. PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ
biên (2008) Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản lần thứ 4 có sửa
đổi, bổ sung), Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
4
4. TS. Nguyễn Sơn (2004), Phần 5 Chƣơng 2. Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự -
Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự. Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
Công trình nghiên cứu chuyên sâu có: 1.Tác giả Tống Thị Thanh Thanh
(2004), Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luận văn thạc sĩ luật học, Học
viện tƣ pháp. 2. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội.
Các bài viết có: 1. TS. Hoàng Thị Minh Sơn: “Một số quy định của Bộ
Luật tố tụng Hình sự về quyết định của toà án trong hoạt động chuẩn bị xét xử
sơ thẩm và thực tiễn áp dụng”, tạp chí luật học số 7/2009; 2. Vũ Gia Lâm
(2011), “Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử”. Tạp chí Tòa án nhân dân (số
21/T11 - 2011), tr1-7; 3.Nguyễn Đức Lực (2011), “Thẩm quyền xét xử của
Tòa án quân sự – Những vƣớng mắc trong việc xác định thẩm quyền xét xử”,
TAQS khu vực 1 - quân khu 3. Tạp chí Tòa án nhân dân (số 1/T1-2011), tr23,
25 - 27; 4. Đinh Văn Quế (2011), “Phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy định của
bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tạp chí tòa án
nhân dân (số 17/T9 - 2011), tr 16 - 18; 5. Nguyễn Minh Sử (2011), “Kiến nghị
nhằm nâng cao vị thế độc lập của thẩm phán trong hoạt động xét xử”. Tạp chí
Tòa án nhân dân (số 14/T7 - 2011), tr 1- 3.
Các công trình khoa học và bài viết kể trên đều có giá trị to lớn về lý
luận và thực tiễn, nhƣng chƣa có công trình và bài viết nào nghiên cứu một
cách toàn diện, bởi chƣa đề cập đến hoạt động chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận và nội dung cơ bản của hoạt động chuẩn
bị xét xử vụ án hình sự theo Bộ Luật tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003,
5
việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn cũng nhƣ xác định một số bất
cập và nguyên nhân của nó, tác giả đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng chế định này trong hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Mặt lý luận: Xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm cơ bản của hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, đồng thời phân tích và đánh giá những
quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 đối với hoạt động chuẩn bị
xét xử vụ án hình sự.
Mặt thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự đối với hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình
sự trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của toàn ngành Tòa án. Thông qua
đó phân tích những tồn tại của việc áp dụng các quy định pháp luật đối với
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Từ việc nghiên cứu và phân tích trên
để xác định nguyên nhân hạn chế và định hƣớng khắc phục đối với hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, các vấn đề lý luận cơ bản của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ
án hình sự.
Thứ hai, quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 về hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự và thực trạng: Thụ lý và nghiên cứu hồ sơ, xác
định thẩm quyền xét xử vụ án, quyết định trong hoạt động chuẩn bị xét xử, áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và một số hoạt động cần thiết khác cho việc
mở phiên tòa.
Phạm vi nghiên cứu
Không nghiên cứu sâu vấn đề lý luận mà tập trung nghiên cứu những
quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng các hoạt
6
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến một
số quy phạm khác của bộ luật hình sự và một số ngành luật có liên quan nhằm
hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ Luật tố
tụng Hình sự Việt Nam năm 2003 trong hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình
sự từ năm 2006 đến nay, tác giả có điểm qua một vài quy phạm pháp luật
trƣớc đó trong tiến trình phát triển của lịch sử lập hiến và lập pháp với tinh
thần kế thừa có chọn lọc và phát triển.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận Triết học Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về vấn đề cải
cách tƣ pháp và xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh
đó, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp diễn dịch, phƣơng pháp quy nạp,
phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng
pháp tổng hợp, phƣơng pháp thống kê.
6. Điểm mới của luận văn
Trên cơ sở nguyên tắc hai cấp xét xử, tác giả nghiên cứu toàn diện hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự ở hai cấp xét xử là: chuẩn bị xét xử sơ
thẩm và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Đây là công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành luật tố tụng hình
sự Việt Nam tƣơng đối có hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự ở cấp độ một luận văn thạc sĩ. Với đề
tài nghiên cứu khoa học của mình, tác giả đã làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Phân tích một cách có hệ thống và tƣơng đối toàn diện vấn đề lý luận và thực
tiễn đối với hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự: khái niệm, bản chất
pháp lý và đặc điểm cơ bản của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, các
quyết định và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Các kỹ năng nghề nghiệp,
7
chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố tụng mà vai trò chính là thẩm phán
chủ tọa phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tuân thủ, chấp hành đúng
pháp luật, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nƣớc, tổ chức, cơ quan và cá
nhân.
Phân tích từng trình tự, thủ tục trong các hoạt động chuẩn bị xét xử vụ
án hình sự với mục đích: Xây dựng định nghĩa, nội dung, tầm quan trọng và
điều kiện áp dụng để có đƣợc sự đánh giá tổng hợp thế mạnh và hạn chế của
chế định này trên phƣơng diện lý luận của Bộ Luật tố tụng Hình sự 2003.
Phân tích việc áp dụng quy phạm pháp luật của Bộ Luật tố tụng Hình
sự Việt Nam năm 2003 về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự trong thực
tiễn hoạt động của tòa án từ năm 2006 đến nay và điểm qua một số quy định
pháp luật về vấn đề này trong lịch sử lập pháp. Qua đó để có đƣợc nhận thức
đúng về thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến xét xử vụ
án hình sự ở nƣớc ta trong quá khứ, hiện tại và có định hƣớng xây dựng pháp
luật trong tƣơng lai. Qua đó cũng nêu và phân tích một số nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng để đƣa ra
một số giải pháp khắc phục. Đồng thời cũng đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ
Luật tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu khoa học luật đồng bộ, đề
cập một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003.
Mặt thực tiễn: Xác định đúng những điều kiện cụ thể của từng trƣờng
hợp áp dụng quy định của pháp luật đối với hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án
8
hình sự trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Đồng thời cũng đề xuất một số giải
pháp về việc đào tạo cán bộ, quy hoạch lại và sắp xếp một số chƣơng, điều
luật liên quan, thêm mới và sửa đổi bổ sung nhằm hoàn thiện các điều luật
này ở khía cạnh lập pháp với mục đích giúp việc chỉ dẫn, áp dụng pháp luật
trong thực tiễn ngày một tốt hơn. Công trình nghiên cứu còn có thể trở thành
nguồn tài liệu tham khảo đối với một số nhà nghiên cứu khoa học luật, những
ngƣời làm công tác xây dựng, nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng pháp luật;
Luật gia, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực pháp luật; Sinh viên, học viên cao
học chuyên ngành tƣ pháp hình sự. Đặc biệt hơn nữa, đó không những là
nguồn tài liệu mà còn là hoạt động thực tiễn gắn liền với công tác xét xử các
vụ án hình sự của toàn ngành Tòa án.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ bìa, lời
cam đoan, mục lục, danh mục bảng, danh mục sơ đồ, danh mục biểu đồ, luận
văn có bố cục ba chƣơng.
9
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
Tòa án đƣợc xác định là trung tâm của hệ thống tƣ pháp. Do vậy, việc
cải cách tƣ pháp phải bắt đầu từ cải cách nền hành chính tòa án và các thủ tục
tố tụng mà tòa án đang thực hiện.[40].
Tố tụng hình sự nói chung và hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
nói riêng đƣợc quy định từ rất lâu trong lịch sử lập hiến và lập pháp của Việt
Nam.
Khái niệm về thủ tục xử án đã đƣợc nhắc đến khi Bộ Quốc triều Hình
Luật (còn đƣợc gọi là bộ luật Hồng Đức) thời vua Gia Long ra đời. Bộ luật ra
đời trên nền tảng xã hội cũ nhƣng lại có nhiều ý tƣởng tiến bộ về thủ tục xử
án, phƣơng pháp xử án và một số tƣ tƣởng nhân đạo bảo vệ ngƣời già, phụ nữ,
trẻ em và những ngƣời dân lƣơng thiện. Những tƣ tƣởng tiến bộ này đã đƣợc
kế thừa, chọn lọc và phát triển thành nguyên tắc cơ bản, những quy định về
trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình sự của những bộ luật tiếp theo. Bộ Luật
Hồng Đức đƣợc in trong cuốn A341 gồm 13 chƣơng, 722 điều luật. Trong số
13 chƣơng thì có hai chƣơng cuối quy định về thủ tục xử án nhƣng chƣa hoàn
thiện. Mặc dù chƣa có sự phân chia thành từng chƣơng riêng rẽ nhƣng bộ luật
đã thể hiện đƣợc một số khái niệm của luật tố tụng hình sự: Thẩm quyền và
trình tự tố tụng của các cấp chính quyền đƣợc quy định tại Điều 672, đơn kiện
và đơn tố cáo quy định tại các Điều 508, Điều 513 và Điều 698. Đặc biệt là
thủ tục xử án đƣợc quy định tại hai điều 671 và điều 709 bộ quốc triều hình
luật. Mặc dù các khái niệm trên mới chỉ là hình thức đơn giản về hoạt động
xét xử vụ án hình sự nói chung và chuẩn bị xét xử vụ án hình sự nói riêng
nhƣng đã khẳng định rằng ngay từ xa xƣa, cha ông ta đã có những quy định
10
rất nghiêm khắc nhằm “trừng phạt” những ngƣời vi phạm pháp luật và bảo vệ
ngƣời già, trẻ em, phụ nữ và những ngƣời dân lƣơng thiện. [5].
Đến năm 1946 thì khái niệm về việc "tiểu hình" và việc "đại hình" đã
đƣợc quy định lần đầu tiên tại sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức
tòa án và các ngạch thẩm phán. [25]. Thời kỳ này, pháp luật mới chỉ quy định
việc hình và việc hộ để phân biệt giữa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hình
sự và trong lĩnh vực dân sự. Hiến pháp năm 1946 quy định về cơ quan tƣ
pháp thì thuật ngữ “việc hình” vẫn đƣợc sử dụng [14]. Đến năm 1950, thì bên
cạnh thuật ngữ “việc hình”, thuật ngữ “việc phạm pháp” trong hình sự đã đƣợc
nhắc đến tại bản sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 [25]. Năm 1959 thuật ngữ “vụ
án” đƣợc pháp điển hóa khi bản hiến pháp thứ hai của nƣớc Việt Nam ra đời
và đƣợc quy định tại Điều 97 nhƣ sau: Tòa án nhân dân xét xử vụ án hình sự
để trừng phạt những ngƣời phạm pháp. [15]. Trình tự, thủ tục hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; Chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng đã đƣợc quy định rõ hơn khi bản hiến pháp năm
1988 ra đời.[16]. Hiến pháp năm 1992 ra đời trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
và phát triển hơn những bản hiến pháp trƣớc về lĩnh vực này, cụ thể có quy
định: Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của
tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố
tụng.[17].
Và đến năm 2003, Bộ Luật tố tụng Hình sự mới ra đời sửa đổi, bổ sung
và thay thế bộ luật cũ thì những quy định về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự đƣợc quy định khá rõ ràng. Bộ luật này không chia hoạt động xét xử
vụ án hình sự thành từng giai đoạn riêng biệt, bởi lẽ, xét xử vụ án hình sự là
hoạt động tố tụng hình sự khép kín. Nhƣng từ góc độ nghiên cứu khoa học,
tác giả chia hoạt động xét xử vụ án hình sự thành ba giai đoạn gồm: hoạt động
11
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa và thủ tục tố
tụng sau phiên tòa.
Với vai trò là giai đoạn đầu của quá trình xét xử vụ án hình sự, hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự đƣợc thực hiện từ khi tòa án cấp sơ thẩm
thụ lý hồ sơ vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Hoặc hồ sơ
vụ án có kháng cáo, kháng nghị từ khi tòa án cấp phúc thẩm thụ lý trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, khái niệm chuẩn bị xét
xử vụ án hình sự chƣa đƣợc quan tâm một cách đầy đủ. Các sách, giáo trình,
bài viết và công trình nghiên cứu chuyên sâu mới chỉ phân tích pháp luật và
đƣa ra một số khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm mà chƣa đề cập đến
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, đồng thời cũng chƣa đƣa ra một
khái niệm cụ thể về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự. Đặc biệt, trong Bộ Luật tố
tụng Hình sự năm 2003 cũng không có một quy định pháp luật nào định nghĩa
thế nào là chuẩn bị xét xử vụ án hình sự mà chỉ quy định nội dung của hoạt
động này.
Năm 2004, tác giả Tống Thị Thanh Thanh đã bảo vệ thành công luận
văn với đề tài "Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình". Trong đề tài khoa học
của mình, tác giả đã định nghĩa về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự nhƣ sau: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động do
những ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm các
điều kiện cần thiết để đƣa vụ án ra xét xử. [30]. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền
cũng đƣa ra khái niệm về hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
nhƣ sau: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động do những ngƣời
tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện từ khi tòa án thụ lý vụ án cho đến
khi mở phiên tòa, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết để xét xử những bị
cáo đã bị viện kiểm sát truy tố”. [28]. Với những khái niệm nhƣ trên mới chỉ
12
tổng kết đƣợc hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chứ chƣa đề
cập đến hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Vì vậy, tác giả đƣa ra định nghĩa về hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự nhƣ sau: Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự
đƣợc thực hiện bởi những ngƣời tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án đến khi mở phiên tòa.
Nhƣ vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự phải tuân theo đúng
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quy định này sẽ giúp cho những
ngƣời tiến hành tố tụng, mà chủ thể chính là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa,
ngƣời có quyền điều khiển phiên tòa, quyết định tới sự thành công của phiên
tòa và đƣa ra một quyết định sáng suốt, một bản án công bằng, đúng ngƣời,
đúng tội và đúng pháp luật. Có nhƣ thế thì vụ án mới đƣợc xét xử một cách
khách quan, công khai, minh bạch, bị cáo đƣợc xét xử đúng theo khung hình
phạt tƣơng xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, hạn chế đến mức thấp nhất
không để lọt tội phạm và cũng không làm oan ngƣời vô tội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
Hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự
độc lập trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, bởi lẽ, hoạt động này thỏa mãn
đƣợc đầy đủ các yếu tố nhƣ: Chủ thể và mục đích hoạt động.
Chủ thể chịu trách nhiệm chính trƣớc pháp luật của hoạt động chuẩn bị
xét xử vụ án hình sự là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Mục đích của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là: Quyết định
đƣa vụ án ra xét xử; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; Quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Vì vậy, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự giữ một vai trò đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự của ngành tòa án. Thực
tế cho thấy, nếu không có công việc chuẩn bị xét xử vụ án hình sự thì sẽ
13
không thể có hoạt động xét xử tại phiên tòa. Vì vậy, có thể gọi đây là hoạt
động tố tụng hình sự bắt buộc phải có trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của các cơ quan tiến hành tố tụng mà cơ quan có nhiệm vụ chính trong hoạt
động này là tòa án. Thời điểm bắt đầu của hoạt động này đƣợc tính từ khi tòa
án thụ lý hồ sơ vụ án hình sự đến khi thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra một
trong ba quyết định sau: Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; Quyết
định trả hồ sơ điều tra bổ sung; Quyết định đƣa vụ án ra xét xử công khai, xử
kín hoặc xét xử lƣu động. Thời điểm kết thúc của hoạt động chuẩn bị xét xử
vụ án hình sự đƣợc tính đến ngày mở phiên tòa nếu vụ án đƣợc đƣa ra xét xử;
Nếu ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung thì thời điểm kết thúc là ngày
đƣợc ghi tại quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung và tòa án hoàn trả hồ sơ cho
viện kiểm sát; Nếu ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì thời
điểm kết thúc là ngày ghi tại quyết định.
Trong lĩnh vực tố tụng hành chính, tố tụng dân sự, kinh tế thì hoạt động
chuẩn bị xét xử vụ án cũng đƣợc gọi là một giai đoạn tố tụng độc lập. Sự khác
biệt cơ bản giữa hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự với các hoạt động
chuẩn bị xét xử các vụ án nói trên ở chỗ: Tòa án là chủ thể tiến hành các hoạt
động điều tra, thu thập chứng cứ và đƣơng sự cũng có quyền chứng minh.
[52].
Ngƣợc lại, trong tố tụng hình sự thì các quyền nói trên chỉ có cơ quan
điều tra, viện kiểm sát và tòa án thực hiện. Sự khác biệt này là do tính chất
của vụ án khác nhau đã quy định tính độc lập hay không độc lập của hoạt
động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
1.2. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự
Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự góp phần đáp ứng những yêu cầu về tính
dân chủ và tổ chức quyền lực của nhà nƣớc. Góp phần củng cố thêm ý thức
tuân theo pháp luật của công dân, xác định đúng trách nhiệm của nhà nƣớc
14
với công dân và ngƣợc lại nhằm mục đích thống nhất luật từ trung ƣơng đến
địa phƣơng.
Hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự giúp Tòa án đảm bảo đúng
đƣờng lối định hƣớng của đảng trên cơ sở tuân theo hiến pháp và pháp luật
nhằm đảm bảo cho vụ án đƣợc xét xử đúng pháp luật, khách quan, toàn diện,
đúng ngƣời và đúng tội. Khi xét xử vụ án, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật. Trong quá trình chuẩn bị xét xử vụ án, nếu xét thấy
vụ án có yếu tố chƣa đáp ứng điều kiện theo luật định để đƣa vụ án ra xét xử,
hoặc có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng làm ảnh hƣởng đến việc xác
định sự thật khách quan của vụ án, ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời tham gia tố tụng thì tòa án quyết định đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ
điều tra bổ sung yêu cầu viện kiểm sát và cơ quan điều tra khắc phục những
thiếu sót trong hạn luật định. Hoạt động tiến hành tố tụng hình sự của các cơ
quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng phải
tuân theo quy định của pháp luật nói chung và Bộ Luật tố tụng Hình sự Việt
Nam năm 2003 nói riêng. Ngƣời tiến hành tố tụng phải chịu trách nhiệm về
hành vi và quyết định của mình đối với những quyết định trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Nếu vi phạm pháp luật, thì tùy theo mức độ, có thể bị xử
lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là điều kiện cần và đủ để đƣa
vụ án ra xét xử hoặc tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung đối với vụ án hình sự. Trên cơ sở các quyết định của Cơ quan
Điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan có liên quan khác; hoặc bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị để Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét và đƣa ra quyết định đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự còn giúp Tòa án
xác định đúng thẩm quyền xét xử vụ án hình sự. Nếu phát hiện sai thẩm
15
quyền thì Tòa án phải làm thủ tục chuyển hồ sơ cho đơn vị có thẩm quyền
giải quyết. Trƣờng hợp vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự hoặc cấp
trên thì phải chuyển cho đơn vị có thẩm quyền khi vụ án đã đƣa ra xét xử.
Thông qua hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự, giúp cho Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa nắm vững bản chất vụ án, diễn biến của vụ án để xác
định sự thật của vụ án. Giúp cho các Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng
xét xử, Luật sƣ bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc Luật sƣ, ngƣời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự trong quá trình nghiên cứu hồ sơ cũng có
đƣợc những quan điểm đúng hơn về vụ án góp phần giải quyết vụ án đúng
pháp luật. Giúp cho Thƣ ký Tòa án thực hiện nghiêm túc những quyền và
nghĩa vụ của mình đối với hoạt động tố tụng hình sự và công việc hành chính
theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là nhịp cầu cân
bằng mối quan hệ tố tụng hình sự cũng nhƣ mối quan hệ hành chính giữa ba
cơ quan là Bộ Công an, Viện kiểm sát, Tòa án với nhau và với các cơ quan
hữu quan khác nếu có liên quan đến vụ án.
Đồng thời, hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự cũng giúp cho
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có định hƣớng đúng trong vấn đề giải quyết vật
chứng, xử lý các vấn đề về kinh tế, hành chính, lao động và dân sự trong cùng
một vụ án. Có nhƣ vậy mới đảm bảo tính pháp chế, tôn trọng và bảo đảm các
quyền của công dân cũng nhƣ nguyên tắc xác định sự thật vụ án.[52].
Trên cơ sở đảm bảo sự cân bằng các mối quan hệ pháp luật nói trên thì
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự còn góp phần đảm bảo cân bằng các
mối quan hệ xã hội liên quan, củng cố niềm tin của nhân dân vào nền công lý
nƣớc nhà, giữ vững uy tín của Tòa án trong nhân dân và hình ảnh nền tƣ pháp
Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và khu vực; khẳng định vị trí của pháp
16
luật Việt Nam, nền tƣ pháp Việt Nam và hệ thống xét xử Việt Nam trong mối
quan hệ với hệ thống xét xử quốc tế và khu vực. [51].
Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là khoảng thời gian đảm bảo
cho những ngƣời tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình:
thuê luật sƣ hoặc tự bào chữa, chuẩn bị tâm lý tham gia phiên tòa, có mặt khi
tòa án triệu tập, có quyền khiếu nại nếu thấy quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng chƣa đúng, có quyền xuất trình những chứng cứ mới mà cơ quan điều
tra chƣa có hoặc phiên tòa sơ thẩm chƣa có.
Tóm lại, những quy định trên nhằm giúp hoạt động xét xử vụ án hình
sự đƣợc thực hiện nghiêm túc, tuân theo đúng trình tự quy định của pháp luật.
Đồng thời, hoạt động này cũng có mục đích nhằm nâng cao ý thức pháp luật
và tuyên truyền pháp luật đối với nhân dân.
1.3. Quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003 về hoạt động chuẩn
bị xét xử vụ án hình sự
Để đảm bảo cho việc xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa đƣợc tiến hành
một cách thuận lợi, chuẩn bị xét xử vụ án hình sự có vai trò đặc biệt quan
trọng, giúp cho Thẩm phán đƣợc phân công chủ tọa phiên tòa xác định có đủ
điều kiện để quyết định đƣa vụ án ra xét xử hay không, nếu không thì cần giải
quyết nhƣ thế nào: Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án? Quyết định trả hồ sơ
điều tra bổ sung?. Tuy nhiên, để xem xét điều đó cần xác định một số điều
kiện nhƣ: Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán đƣợc phân công chủ tọa
phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm mục đích phân tích các
chứng cứ mà Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã chuyển có trong hồ sơ vụ án.
Nếu chứng cứ đầy đủ thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải đƣa vụ án ra xét
xử, nếu chƣa đầy đủ thì trả hồ sơ cho Viện kiểm sát yêu cầu điều tra bổ sung.
17
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng thì
trƣớc khi đƣa vụ án ra xét xử công khai, những ngƣời tham gia tố tụng có các
quyền sau:
Bị cáo có quyền đề nghị Tòa án xem xét những quan điểm mà Viện
kiểm sát truy tố, hoặc quyết định mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định để áp
dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp. Các biện pháp đƣợc áp dụng này thƣờng
là ít nghiêm khắc hơn biện pháp ngăn chặn mà Viện kiểm sát đã áp dụng.
Ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể đề nghị Tòa án xử lý vật
chứng nếu vấn đề này chƣa đƣợc Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp
sơ thẩm thực hiện.
Hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự tạo điều kiện cần và đủ cho
việc mở phiên tòa hoặc ra các quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung; tạm đình
chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Bằng hoạt động hoàn thiện các thủ tục nhƣ: Triệu tập
bị cáo, ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng, kiểm tra thời hạn các lệnh giam để nếu
hết hạn thì có thể gia hạn lệnh giam; kiểm tra các lệnh trích xuất bị cáo nếu là
bị cáo đang bị tạm giam; lập kế hoạch xét xử vụ án hình sự, lên lịch phiên tòa,
gửi quyết định đƣa vụ án ra xét xử cho viện kiểm sát cùng cấp và những
ngƣời tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng có liên quan, chuẩn bị phòng xét
xử vụ án và địa điểm xét xử vụ án nếu là vụ án xét xử lƣu động. Thẩm phán
trong cùng Hội đồng xét xử, Hội thẩm, Luật sƣ và ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật về việc nghiên cứu hồ sơ, trao đổi với Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
những quan điểm khác nhau về vụ án nếu thấy cần thiết. Tất cả những công
việc trên là cơ sở cho việc xét xử tại phiên tòa đƣợc thuận lợi và nhanh chóng,
tránh lãng phí thời gian và tiền bạc của nhà nƣớc.
Theo quan điểm của một số nƣớc thì tùy thuộc vào kiểu tố tụng mà
hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự đƣợc hiểu khác nhau. Nếu tố tụng
18
tranh tụng thì hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự chỉ đơn giản là hoạt
động xem xét, chuẩn bị các điều kiện để mở phiên tòa nhƣ triệu tập ngƣời làm
chứng, xác định thời gian. Với kiểu tố tụng tranh tụng này thì sẽ đƣợc mở ra
qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa bên buộc tội và gỡ tội. Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa chỉ giữ vai trò nhƣ là trọng tài và không có trách nhiệm tìm ra sự
thật của vụ án. Phán quyết của Thẩm phán chỉ dựa trên các chứng cứ đƣa ra
tại phiên tòa mà không nghiên cứu các chứng cứ trƣớc khi diễn ra phiên tòa.
Nhƣ vậy, sự thật đƣợc xác định dựa vào các chứng cứ mà các bên cung cấp
chƣa chắc đã là sự thật của vụ án. Phiên tòa kiểu này thƣờng phức tạp và kéo
dài vì các hoạt động thẩm vấn ngƣời làm chứng, cũng nhƣ các việc khác đƣợc
tiến hành tại phiên tòa mà không có gì đƣợc khẳng định chắc chắn. Đặc trƣng
của kiểu tranh tụng này là thẩm phán không đƣợc nghiên cứu trƣớc hồ sơ vụ
án. [51].
Tố tụng kiểu thẩm vấn thì vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
đƣợc đề cao. Thẩm phán là ngƣời có trách nhiệm xác định sự thật khách quan
của vụ án. Phiên tòa đƣợc mở ra không phải là sự tranh cãi giữa bên buộc tội
và bên gỡ tội mà là sự tiếp tục điều tra. Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ
trƣớc khi mở phiên tòa, kiểm tra các chứng cứ mà cơ quan điều tra, truy tố đã
thu thập. Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự trong tố tụng thẩm vấn không chỉ
chuẩn bị về hình thức đơn thuần nhƣ kiểu tố tụng tranh tụng mà bao gồm cả
việc nghiên cứu, xem xét nội dung vụ án để thẩm phán có kế hoạch điều tra
tiếp tại phiên tòa. Với hình thức tố tụng này thƣờng bị lên án là không tôn
trọng các quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự vì họ không có nghĩa vụ chứng
minh. Ngoài ra, do đƣợc nghiên cứu hồ sơ trƣớc mà Thẩm phán không vô tƣ,
khách quan và đã có sẵn phán quyết về vụ việc trƣớc khi xét xử. Việc thẩm
tra, tranh luận tại phiên tòa chỉ là hình thức, điều này dẫn đến tình trạng "án
19
phong bì" và "án bỏ túi" hay còn gọi là "án chỉ đạo", là nguyên nhân dẫn đến
những oan sai và tiêu cực trong hoạt động xét xử. [51].
Việt Nam kế thừa có chọn lọc một số mô hình tố tụng nói trên để phù
hợp với lịch sử lập hiến, lập pháp và điều kiện kinh tế - xã hội để quy chuẩn
thành các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự năm 2003. Các cơ quan tiến
hành tố tụng là Tòa án, Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án. Tuy nhiên, việc xác định sự
thật khách quan của vụ án là nhiệm vụ của nhiều chủ thể khác nhƣ Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Luật sƣ, ngƣời giám định, ngƣời
phiên dịch. Trong các chủ thể nói trên thì vai trò của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa là chính, họ là chủ thể có quyền quyết định đối với vụ án.
Nhƣ vậy, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải là ngƣời nghiên cứu hồ sơ
trƣớc khi phiên tòa diễn ra mới có những phán quyết khách quan và đúng
pháp luật. Đồng thời, qua đó phát hiện những thiếu sót trong quá trình điều tra
để quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ
án. Trƣớc khi mở phiên tòa công khai, Tòa án cần tiến hành một số hoạt động
chuẩn bị, vì vậy, chủ thể của hoạt động tƣơng đối đa dạng, họ là những ngƣời
tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ Luật tố tụng Hình sự năm 2003. Tuy
nhiên Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải là ngƣời chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật trong việc tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
Hoạt động nhận hồ sơ từ Viện kiểm sát cũng nhƣ từ Tòa án cấp sơ thẩm
do có kháng cáo, kháng nghị, là nhiệm vụ của bộ phận Thƣ ký Tòa án. Bộ
phận này có thể là một hoặc nhiều thƣ ký, thực hiện dƣới sự phân công, giám
sát và quản lý trực tiếp của Chánh án đối với Tòa án cấp sơ thẩm. Đối với Tòa
án cấp phúc thẩm là ngƣời lãnh đạo phụ trách Tòa hình sự và Chánh tòa hình
sự. Đối với Tòa án nhân dân tối cao là Chánh tòa, phó Chánh tòa phúc thẩm.
Khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nhận đƣợc hồ sơ thì việc bố trí, sắp xếp thời