Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Giới hạn xét xử vụ án hình sự, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và các quy phạm trong bộ luật TTHS năm 2003

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.43 KB, 33 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và có hiệu lực cao.” Đây là mục tiêu hàng đầu của chiến lược cải cách tư pháp đã
được Đảng và Nhà nước ta quán triệt tại Nghị quyết 49-NQ/TW về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”. Để thực hiện được mục tiêu này cần phải tiến hành các
nhiệm vụ cải cách tư pháp, như phân định rõ quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố
tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên
và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình; Xác định
rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư
pháp, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
Do đó việc việc quy định rõ giới hạn xét xử vụ án hình sự là một chế định pháp lí
quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền bộ máy
cơ quan tư pháp, giữa cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án.
Giới hạn xét xử là chế định pháp lí quan trọng có liên quan đến nhiều chế định
khác của luật tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm vi mà hội đồng xét xử được
phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn
chế bởi phạm vi những người và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố trong cáo
trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chính giới hạn xét xử này là yếu tố bảo đảm
cho tòa án luôn là tòa án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là cơ
quan thực hiện chức năng buộc tội. Mặt khác chế định này còn đảm bảo được nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, tòa án không được xét xử những
người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh
1
không bị truy tố, không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện
kiểm sát truy tố ...
Tuy nhiên thực tiễn xét xử trong thời gian qua đã cho thấy quy định về giới hạn
xét xử của toà án có nhiều điểm không hợp lí, quy định này cùng với nguyên tắc


“không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”, trong một số trường hợp có ảnh hưởng
tiêu cực đến việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nguyên tắc “Độc lập
xét xử của tòa án”. Mặt khác quy định về giới hạn xét xử mâu thuẫn với nhiều quy
định khác của BLTTHS hiện hành. Những bất cập của giới hạn xét xử và thực tiễn áp
dụng chưa thống nhất đã làm giảm đi hiệu quả của quy định này nói riêng cũng như
của pháp luật tố tụng hình sự nói chung.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn vấn đề giới hạn xét xử vụ án hình
sự, từ thực tiễn áp dụng, đưa ra những giải pháp, yêu cầu hoàn thiện hơn nữa về quy
định giới hạn xét xử vụ án hình sự là vấn đề cấp bách đặt ra về mặt ý nghĩa lý luận và
thực tiễn. Đây là lý do giải thích cho việc quyết định chọn đề tài “Giới hạn xét xử vụ
án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình”.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp, đối tượng nghiên cứu của
niên luận
+ Mục đích nghiên cứu
Mục đích của niên luận là nghiên cứu những vấn đề về Giới hạn xét xử vụ án
hình sự, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và các quy phạm trong bộ luật TTHS năm
2003 về Giới hạn xét xử vụ án hình sự.Qua đó đánh giá những tồn tại, nguyên nhân
của chúng, đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định về Giới hạn xét xử vụ án hình
sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
Đánh giá tính nhân đạo, dân chủ, pháp lý trong quá trình hình thành, phát triển
của luật TTHS Việt Nam trên các quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự từ năm
2
1988 đến nay. Phân tích một số ý kiến về khái niệm giới hạn xét xử vụ án hình sự
cũng như quy phạm trong Bộ luật TTHS 2003 về giới hạn xét xử để xác định những
tồn tại và nguyên nhân của chúng. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp về lập pháp để
hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
+ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của niên luận là : “Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình”

+ Phạm vi nghiên cứu
Niên luận nghiên cứu những vấn đề cụ thể về giới hạn xét xử vụ án hình sự trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
+ Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài đã thực hiện dựa trên các
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp… trên
nền tảng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình biện luận và đánh giá, nghiên cứu các vấn
đề của đề tài này.
3. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của niên luận gồm 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề chung về giới hạn xét xử vụ án hình sự.
Chương 2 : Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng.
Chương 3 : Những phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét
xủ vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm giới hạn xét xử vụ án hình sự
Trong khoa học pháp luật tố tụng hình sự, khái niệm giới hạn xét xử còn có
những ý kiến khác nhau. Các học giả trong nước có một số ý kiến, như sau:
Thứ nhất: Tác giả Đặng Quang Phương cho rằng “Giới hạn xét xử là sự thể hiện
nội dung của vấn đề nguyên tắc độc lập xét xử.” Khái niệm của tác giả chưa hợp lý
khi cho rằng sự phân định phạm vi xét xử của Toà án trong phiên toà sơ thẩm là biểu
hiện của nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Mặc dù nó có quan hệ với nhau nhưng lại khác biệt nhau về nội dung, ý nghĩa, vì giới

hạn xét xử là quy định có ý nghĩa rất lớn đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo.
Thứ hai: Phó tiến sĩ Phạm Hồng Hải cho rằng: “Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là phạm vi những người, những hành vi mà hội đồng xét xử sơ thẩm
được xét xử tại phiên toà.” Tác giả đã có sự nhầm lẫn giữa đối tượng xét xử và phạm
vi xét xử của phiên toà sơ thẩm, ở đây đối tượng xét xử của phiên toà sơ thẩm là
những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã
quyết định đưa ra xét xử.
Thứ ba: Phó tiến sĩ Nguyễn Văn Hiện cho rằng Giới hạn xét xử cũng chính là
thẩm quyền xét xử,mà thẩm quyền xét xử thì không chỉ bao hàm trong một điều luật.
Tác giả đã sai khi đồng nhất giữa giới hạn xét xử và thẩm quyền xét xử. Thẩm quyền
xét xử của Toà án là quyền xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật,
do đó xét ở góc độ phạm vi những người, những hành vi thuộc thẩm quyền xét xử của
Toà án thì giới hạn xét xử là nội hàm của khái niệm thẩm quyền xét xử.
4
Nhìn chung những khái niệm nêu trên vẫn chưa đầy đủ, khoa học. Để có cơ sở
khoa học khi đưa ra khái niệm giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được hoàn chỉnh, đầy
đủ và toàn diện, cần nghiên cứu từ (4) vấn đề: a) khái niệm giới hạn xét xử; b) đối
tượng xét xử của phiên toà sơ thẩm; c) phạm vi xét xử của phiên toà sơ thẩm; d) mục
đích của giới hạn xét xử.
- Về khái niệm giới hạn, Đại từ điển Tiếng Việt do GS, TS Nguyễn Như Ý làm
chủ biên giải thích theo nghĩa của danh từ “Giới hạn” là : “phạm vi được quy định,
không thể vượt qua”. Xét xử là chức năng của Toà án. Đây là hoạt động do tòa án tiến
hành theo pháp luật tố tụng, trong đó tòa án, sau khi nghiên cứu một cách khách quan,
toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng
việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan.
- Về đối tượng xét xử: là những bị cáo, những hành vi theo tội danh thuộc phạm
vi mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.
- Về phạm vi xét xử : Phạm vi xét xử của hội đồng xét trong phiên toà sơ thẩm
được quy định đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã

truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử, ngoài ra cùng một điều luật về một tội
danh, Toà án có thể xử theo khoản khác nặng hơn hoặc nhẹ hơn khoản mà Viện kiểm
sát truy tố, Toà án cũng có thể xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy, phạm vi xét xử sơ thẩm là những khoản trong một
điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm được phép xét xử.
- Về mục đích của giới hạn xét xử: ngoài mục đích đảm bảo được chức năng của
toà án là xét xử, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa thì theo quy định về giới hạn của
việc xét xử trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo
tội danh mà viện kiểm sát truy tố; toà án không được xét xử những người chưa bị truy
tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án
không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố,
như vậy trong trường hợp này toà án không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, đây
5
là những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo.
Và, có thể đưa ra khái niệm khoa học: Giới hạn của việc xét xử là phạm vi
những khoản trong một điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm được
phép xét xử đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy
tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và
quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
1.2. Những nguyên tắc áp dụng quy đinh giới hạn xét xử vụ án hình sự
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế là việc thường xuyên nhất quán tuân thủ và chấp hành những quy định
của Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản pháp luật khác phù hợp với Hiến pháp, các
đạo luật từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân. Nội dung của
nguyên tắc này được quy định trong Điều 12 Hiến pháp 1992. Nguyên tắc bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện bằng quy phạm “Mọi hoạt động tố tụng hình
sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải theo quy định của bộ
luật này”(Điều 2 BLTTHS).Theo đó, hoạt động xét xử vự án hình sự ở giai đoạn sơ
thẩm phải theo quy định của BLTTHS.

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện trong vấn đề giới hạn xét
xử vụ án hình sự thông qua nội dung sau đây:
Trong tố tụng hình sự nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa biểu hiện
ở chỗ cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, những người tiến hành và tham gia tố
tụng phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS. Theo quy định của
Hiến pháp, luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2002 Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành
quyền công tố nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất còn toà án có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của toà án và viện kiểm sát vừa có
điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Ngoài nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế
6
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân
dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của công dâm thì điều 2 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
2002 còn quy định viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi
ích của Nhà nước; của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải xử lí
theo pháp luật. Thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, sau khi nhận được bản
kết luận điều tra và đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, viện kiểm sát xem xét và
quyết định truy tố bị can. Tại phiên toà, viện kiểm sát giữ quyền công tố, thực hiện
việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết định truy tố hoặc có thể
rút toàn bộ quyết định truy tố. Nhưng viện kiểm sát không có quyền quyết định về tội
phạm và hình phạt của bị cáo. Quyết định nhũng vấn đề này thuộc về toà án theo đúng
nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu
lực pháp luật ” (Điều 9 BLTTHS). Thực hiện chức năng của mình, toà án xét xử các
bị cáo trong phạm vi quyết định truy tố của viện kiểm sát. Như vậy giới hạn xét xử là
mối quan hệ giữa viện kiểm sát - cơ quan nhân danh Nhà nước truy tố bị cáo ra trước
toà, thực hành quyền công tố và toà án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử, đây là
mối quan hệ chế ước cần thiết trong tố tụng hình sự để tránh việc lạm quyền và bảo
đảm cho tố tụng đạt hiệu quả. Tóm lại việc tuân thủ quy định về giới hạn xét xử vụ án
hình sự chính là hoạt động đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa của cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng.
1.2.2. Nguyên tắc dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động đặc thù của nhà nước mang bản chấp giai
cấp và bản chất xã hội của Nhà nước. Bởi vì hoạt động này được tiến hành vì lợi ích
giai cấp cầm quyền và lợi ích chung của xã hội. Xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân, vì dân nên các hoạt động tố tụng hình sự phải tuân theo
nguyên tắc dân chủ, nhân đạo XHCN. Tù đó, quy định về giới hạn xét xử vụ án hình
sự cũng phải xuất phát từ lợi ích của con người chứ không thể vì lợi ích của nhà nước.
7
Là những nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc dân chủ và nhân
đạo đòi hỏi pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử phải thể hiện và bảo vệ được
những giá trị xã hội với nội dung sau đây : Theo quy định về giới hạn của việc xét xử
trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
viện kiểm sát truy tố; toà án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không
được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án không
được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố...Với quy
định như vậy giới hạn xét xử đã quy định theo hướng có lợi cho bị cáo, khiến cho việc
xét xử của hội đồng xét xử sơ thẩm không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Do đó có thể nói quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự cũng xuất phát từ lợi
ích con người chứ không thể vì lợi ích của nhà nước, luôn luôn bảo vệ lợi ích hợp
pháp của công dân.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của tố tụng hình sự, là hình
thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm bảo đảm quyền dân chủ trong hoạt động tố
tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nơi riêng. Để
xây dựng một xã hội công bằng, văn minh thì yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng, trước hết là phải bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người
tham gia tố tụng, trong đó không thể không kể đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can,
bị cáo.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận trong điều

132 Hiến pháp 1992, điều 11 BLTTHS, điều 9 Luật tổ chức toà án nhân dân 2002, thể
hiện quan điểm mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con
người của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc này bảo đảm cho bị can, bị cáo được tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa trước việc buộc tội của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Thực hiện nguyên tắc này, bị can, bị cáo, và người bào chữa của họ có
quyền đưa ra các chứng cứ và những yêu cần để chứng minh cho sự vô tội hoặc làm
8
giảm trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Còn nghĩa vụ chứng minh tội phạm luôn
luôn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Chính quá trình chứng minh này là quá trình
tìm ra chân lí của vụ án để trên cơ sở đó xử lí người phạm tội.
Những chân lí của vụ án chỉ có thể được xác định khi quá trình chứng minh có
xem xét đánh giá mọi tình tiết, mọi ý kiến khác nhau bao gồm cả quan điểm buộc tội
và ý kiến bào chữa. Nếu chỉ thiên về hướng buộc tội, không chú ý đến ý kiến bào
chữa thì việc giải quyết vụ án đó phiến diện không khách quan. Trong quá trình giải
quyết vụ án nếu toà án xét xử cả người chưa bị truy tố hoặc xét xử cả hành vi của bị
cáo theo tội danh chưa bị truy tố thì toà án đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, tước đi quyền bào chữa của bị cáo, không cho họ có sự chuẩn
bị ý kiến bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trong trường hợp này toà án xét
xử không có sự tranh luận giữa bên buộc tội và bào chữa nên không thể có cơ sở để
xác định đúng sự thật khách quan của vụ án.
Theo quy định về giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố; toà án không
được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị
cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án không được xét xử theo tội danh nặng hơn
so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố, như vậy trong trường hợp này toà án không
được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, đây là những quy định có ý nghĩa rất lớn trong
việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Mặt khác thực hiện quy định trên đây, nếu
tại phiên toà mà phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì toà
án ra quết định khởi tố vụ án đối với người mới, tội mới. Việc toà án ra quyết định
khởi tố vụ án đối với người mới, tội mới chỉ là sự xác định cụ thể người nào có hành

vi phạm tội và cũng không xét xử người đó nên không vi phạm nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bi cáo.
Điều 196 BLTTHS 2003 quy định Toà án chỉ được phép xét xử những bị cáo
và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa
9
vụ án ra xét xử. Viện kiểm sát truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng, theo
đoạn 3, khoản 1, điều 166, BLTTHS 2003 quy định trong mọi trường hợp, Viện kiểm
sát đều phải giao cáo trạng cho bị can trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra cáo trạng,
ở đây bản cáo trạng giúp định hướng cho hoạt động bào chữa, bên bào chữa chỉ có thể
bào chữa khi biết nội dung cụ thể của sự buộc tội. Ngoài ra theo khoản 1 điều 182,
BLTTHS 2003 thì quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người
đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở
phiên toà, quy định này cáo ý nghĩa giúp bị cáo và người tham gia tố tụng có điều
kiện thực hiện các quyền của mình như : đưa ra yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến
hành tố tụng ...sau khi nhận được quyết định đó.
Với những ý nghĩa như trên, do đó khi quy định giới hạn của việc xét xử luôn
luôn xem xét đến mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo nếu không như vậy sẽ cho phép toà án được xét xử cả người, cả hành vi chưa bị
viện kiểm sát truy tố, kết quả là biến toà án thành cơ quan vừa xét xử vừa buộc tội.
Điều này trái với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Kết luận
Sau khi nghiên cứu từ (4) vấn đề: a) khái niệm giới hạn xét xử; b) đối tượng xét
xử của phiên toà sơ thẩm; c) phạm vi xét xử của phiên toà sơ thẩm; d) mục đích của
giới hạn xét xử. Có thể đưa ra khái niệm khoa học: Giới hạn của việc xét xử là phạm
vi những khoản trong một điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm
được phép xét xử đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa và quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Những nguyên tắc áp dụng quy định giới
hạn xét xử vụ án hình sự bao gồm nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc bảo đảm quyền bào

chữa của bị can, bị cáo.
10
CHƯƠNG II
NHỮNG QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Những quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
giới hạn xét xử vụ án hình sự
Khi xét xử vụ án hình sự, hội đồng xét xử phải căn cứ vào bản cáo trạng của
Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết vụ án về nội dung. Hội đồng xét xử không giải
quyết những vấn đề mà Viện kiểm sát chưa đề cập trong bản cáo trạng. Quy định có
tính nguyên tắc này thể hiện rõ trong Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và
Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Trong BLTTHS 1988, khi nói về giới hạn xét xử có quy
định tại điều 170 Giới hạn của việc xét xử:
“Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.”
Như vậy, theo quy định trên thì việc xét xử của Toà án được hạn chế bởi 3 yếu tố
là: Toà án chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố; Toà án
chỉ xét theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Đồng thời theo quy định của Điều 170
BLTTHS 1988 thì Toà án chỉ được xét xử một vụ án đối với một con người cụ thể khi
có đủ các căn cứ sau:
Thứ nhất, người mà Toà án xét xử phải là người bị Viện kiểm sát truy tố bằng
một bản cáo trạng. Trường hợp trong vụ án có đồng phạm vì lý do nào đó mà một
hoặc một số đồng phạm chưa bị truy tố thì Toà án cũng không có quyền xét xử đối
với kẻ đồng phạm đó. Nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm
11
hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, thì Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố
hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự (Điều 105, BLTTHS1988)
Thứ hai, Toà án chỉ được xét xử những hành vi của bị cáo mà đã bị Viện kiểm
sát truy tố. Còn những hành vi chưa bị Viện kiểm sát truy tố thì Toà án không được

xét xử. Hành vi phạm tội bị truy tố (bao gồm số lượng và tính chất của hành vi) không
phải là hành vi chung chung mà là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong
Bộ luật hình sự. Do vậy hành vi của bị cáo bị truy tố là những hành vi được quy định
thành những tội danh cụ thể của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát truy tố bị can trước
toà án bằng bản cáo trạng. Cáo trạng là một trong bốn quyết định của Viện kiểm sát
sau khi kết thúc điều tra. Bản chất của bản cáo trạng là văn bản tố tụng hình sự, thể
hiện quan điểm của Viện kiểm sát về tội trạng của bị can.
Thứ ba, Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét
xử là một trong bốn quyết định của Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà, sau
thời gian nghiên cứu hồ sơ do pháp luật quy định. Việc quyết đưa vụ án ra xét xử
không có nghĩa là Toà án (Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đã ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử) đồng nhất quan điểm với Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản của Bộ luật
hình sự mà Viện kiểm sát đã viện dẫn trong cáo trạng.
Trong trường hợp Toà án thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc
nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, hay Toà án thấy cần áp dụng khung hình
phạt khác (nặng hơn hoặc nhẹ hơn) khung hình phạt theo tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố thì theo hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao : “ Nếu xét thấy cần xét xử bị
cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, hoặc
áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị, thì
Tòa án không phải báo trước cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng ”.
Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao còn hướng dẫn : “Toà án có quyền áp dụng khoản
của điều luật có khung hình phạt nặng hơn khoản của điều luật mà Viện kiểm sát viện
12
dẫn”. Với những hướng dẫn trên thì Toà án có toàn quyền độc lập quyết định khung
hình phạt (nặng hơn hoặc nhẹ hơn), chuyển tội danh khác (bằng hoặc nhẹ hơn) tội
danh, điều khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nếu Viện kiểm sát không thống nhất
với quyết định của Toà án thì có quyền kháng nghị phúc thẩm.
Còn việc giải quyết sự không thống nhất trong trường hợp Toà án cần xét xử bị
cáo theo tội danh khác nặng hơn chưa được hướng dẫn triệt để; Tại Thông tư liên

ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS, có quy định : “Trước
khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần phải truy tố thêm người, thêm tội hoặc cần xét
xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra
bổ sung và thay đổi cáo trạng. Trường hợp qua xét xử tại phiên tòa mới phát hiện được
tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án ra quyết định khởi tố vụ án và
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong trường hợp Tòa án đề nghị
Viện kiểm sát đổi tội danh nặng hơn và đã trao đổi mà Viện kiểm sá tkhông nhất trí, thì
cả hai bên đều phải báo cáo ngay với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp
trên cần trao đổi ngay để nếu thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu
vẫn không thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà Viện
kiểm sát đã truy tố, không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố ”. Trường hợp hai cơ quan Toà án và Viện kiểm sát bất đồng ý kiến về đổi tội
danh nặng hơn thì cơ bản được giải quyết thông qua sự thương lượng giữa lãnh đạo
của hai cơ quan đang thụ lí vụ án hoặc lãnh đạo của cơ quan cấp trên, ở đây đã có sự
lẫn lộn giữa quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng, dẫn đến việc giải quyết vụ án
không trên cơ sở pháp lý và điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của tố tụng hình sự.
Mặt khác theo hướng dẫn của thông tư liên nghành thì nếu Thủ trưởng hai cơ quan
cấp trên không thống nhất ý kiến thì toà án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là Toà án không được xét xử bị cáo theo tội danh
nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, chính quy định này đã làm ảnh hưởng
13

×