Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN ĐỨC HIẾU





NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN ĐỨC HIẾU





NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí







HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
6
1.1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trƣớc tòa án
6

1.1.1. Khái niệm
6
1.1.2. Vị trí
11
1.1.3. Ý nghĩa
16
1.2. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án
19
1.2.1. Bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ
20
1.2.2. Bình đẳng trong việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
29
1.2.3. Bình đẳng trong tranh luận
31
1.3. Cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án
34

1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
38
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945- đến năm 1988
38
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay
40
1.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc tòa án trong luật tố tụng
hình sự một số nƣớc
43
1.5.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
44
1.5.2. Cộng hòa liên bang Đức
46
1.5.3. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản
50
1.5.4. Cộng hòa Liên bang Nga
53
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG
ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
57
2.1. Quy địnhcủa pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trƣớc tòa án
57
2.1.1. Nhóm các điều luật quy định về quyền của những người tham gia tố
57
tụng
2.1.2. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật
60

2.1.3. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
việc đưa ra yêu cầu
62
2.1.4. Nhóm các điều luật thể hiện nội dung bảo đảm quyền bình đẳng trong
tranh luận
65
2.2. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đẳm quyền bình đẳng trƣớc tòa án
67
2.2.1. Giai đoạn từ năm 1989 - 2002
67
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
69
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC
BẢO ĐẢM ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
79
3.1. Đánh giá nguyên nhân của thực trạng
79
3.1.1. Nguyên nhân từ pháp luật
80
3.1.2. Nguyên nhân từ những người tiến hành tố tụng và những người tham
gia tố tụng.
85
3.1.3. Nguyên nhân từ điều kiện vật chất, cơ sở kinh tế
87
3.2. Định hƣớng nâng cao hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trƣớc tòa án
89
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả
93
KẾT LUẬN

101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HSST Hình sự sơ thẩm
HSPT Hình sự phúc thẩm
GĐT Giám đốc thẩm
TT Tái thẩm
HĐTP Hội đồng thẩm phán
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
TAND Toà án nhân dân
NQ Nghị quyết
TW Trung ương

















DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU


Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm của ngành Tòa án từ 1989 – 2002 (tr67)
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm của ngành Tòa án từ 2003 – 2007 (tr68)
Bảng 2.3 Bảng tổng hợp số liệu xét xử án hình sự của cấp phúc thẩm cải
sửa, hủy án sơ thẩm của ngành Tòa án từ 2003 - 2007



DANH MỤC BẢNG


STT
Bảng
Nội dung
Trang
1.
2.1.
Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án từ 1989 –
2002
69
2.
2.2.

Bảng tổng hợp số liệu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của ngành Toà án từ 2003 –
2007
70
3.
2.3.
Bảng tổng hợp số liệu xét xử án hình sự của cấp phúc
thẩm cải sửa, huỷ án sơ thẩm của ngành Toà án từ
2003 - 2007
72


1
MỞ ĐẦU

1- Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền bình đẳng trước tòa án không những thể hiện quyền bình đẳng
của công dân trước pháp luật, trước các cơ quan công quyền mà còn là sự bảo
đảm cho những người tham gia tố tụng được bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án.
Vì vậy, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 qui định nguyên tắc cơ bản bảo đảm
quyền bình đẳng trước toà án làm cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án.
Tuy nhiên, việc áp dụng và thực thi nguyên tắc này chưa thật hiệu quả,
còn để xảy ra những vi phạm làm ảnh đến tính khách quan của bản án và
quyết định của toà án, làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm…Thực tiễn
xét xử cho thấy, Viện kiểm sát còn có những biểu hiện như: không đáp ứng
yêu cầu của những người tham tố tụng, ít tranh luận hoặc không tranh luận
với bị cáo, với người bào chữa, không tạo điều kiện để họ có thể đưa ra chứng

cứ và lập luận bào chữa. Toà án chưa bảo đảm thực hiện tốt việc tranh luận,
thẩm vấn, đánh giá chứng cứ tại phiên toà, vẫn còn những biêu hiện thiếu dân
chủ trong tranh luận. Thực trạng này chưa phù hợp với mục tiêu của Nghị
quyết 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp "xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án để làm sáng tỏ về mặt khoa học và áp dụng
nguyên tắc này trong thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện
để góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc đã nêu không

2
những có ý nghĩa lý luận- thực tiễn pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề
mang tính cấp thiết. Đây chính là lý do tôi quyết định lựa chọn đề tài
“Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong Luật tố tụng
hình sự- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2- Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1988 và được sửa đổi bổ sung năm 2003, cũng đã có những
bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về nguyên tắc này như:
- Nguyễn Ngọc Chí (2007), Đề cương chi tiết bài giảng : Các nguyên
tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, Tài liệu tập huấn việc thi hành Bộ luật
hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự.
- Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân.
- Phạm Hồng Hải (1998), Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc
tội, NXB Công an nhân dân.

- Vũ Mộc (2002) "Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
nhằm nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác theo tinh thần của Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị", Thông
tin khoa học pháp lý.
Ngoài ra, nguyên tắc còn được đề cập, phân tích trong một số Giáo
trình và sách tham khảo như:
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp.

3

Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả mới ở dưới
dạng là các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách chuyên khảo hay sách tham khảo. Cho đến nay trong
khoa học Luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đề
cập riêng đến nguyên tắc này một cách tương đối đồng bộ và có hệ thống. Đặc
biệt, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh nguyên tắc này cũng đòi hỏi
cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc hơn. Vì vậy, luận
văn sẽ tiếp cận, nghiên cứu tương đối có hệ thống nguyên tắc đảm bảo quyền
bình đằng trước toà án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của nguyên tắc này.
3- Mục đích của đề tài
Với đề tài, này tác giả mong muốn:
- Làm rõ cơ sở lý luận của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp

luật và áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn.
- Đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án trong giai đoạn hiện
nay.
4- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu một số vấn đề sau:
a) Khái niệm, vị trí, ý nghĩa quyền bình đẳng trong tố tụng hình sự.
b) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bình đẳng
trước tòa án trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. So sánh quy định của
một số nước trên thế giới về nội dung nguyên tắc này.
c) Nghiên cứu thực tiễn áp dụng nguyên tắc.

4
d) Đưa ra giải pháp hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước tòa án.
5- Nhiệm vụ nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung
vào giải quyết những nhiệm vụ chính như sau:
a) Phân tích và xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm quyền
bình đẳng trước tòa án và so sánh nguyên tắc này với một số nguyên tắc liên
quan.
b) Nêu được vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc này.
c) Khái quát sự hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước tòa trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. So sánh quy
định của một số nước trên thế giới về nội dung nguyên tắc này. Nghiên cứu
thực tiễn áp dụng nguyên tắc này.
d) Luận chứng cho sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguyên tắc bình đẳng, đánh giá thực tiễn,
nêu được vai trò, ý nghĩa của việc hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước tòa,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003.

6- Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử
và phương pháp tổng hợp, cũng như những thành tựu của khoa học Luật hình
sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật; v.v và các công trình
của các nhà khoa học-luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số vụ án
hình sự trong thực tiễn xét xử và thông tin trên mạng Internet để phân tích và
đánh giá, tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự.

5
7- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh lý luận, thực tiễn của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng
định mối tương quan, bổ trợ trong việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án với các nguyên tắc khác. Qua nghiên cứu
cũng chứng minh được giá trị của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, cũng như ý nghĩa trong quá trình
xét xử, xác định sự thật khách quan của vụ án.
Trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc bình đẳng trước tòa án ở một số
nước trên thế giới và quá trình phát triển của nguyên tắc trong quá trình lập
pháp Việt Nam, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc để đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong
thực tiễn. Đặc biệt, để góp phần phần vào công cuộc cải cách tư pháp tác giả
luận văn kiến nghị bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình
sự, đây là thành tựu của nền pháp lý nhân loại, là nguyên tắc liên quan, bổ trợ
cho nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và góp phần bảo vệ
quyền con người. Luận văn làm rõ tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa

và vai trò chủ động của Kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa. Ngoài ra, điểm
mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định
rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ đề cập đến nguyên tắc bình đẳng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam,
do đó nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ
nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và
sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
8- Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
bao gồm ba chương với kết cấu như sau:

6
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trƣớc tòa án trong tố tụng hình sự
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn áp
dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Tòa án
Chƣơng 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc Tòa án

7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƢỚC TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trƣớc tòa án
1.1.1. Khái niệm
Bình đẳng là một trong những quyền tự nhiên cơ bản của con người, gắn
bó mật thiết với con người trong hoạt động xã hội. Nhân loại đã trải qua đấu
tranh, hy sinh để bảo vệ quyền bình đẳng, nên bảo đảm quyền bình đẳng là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các nhà nước văn minh.

Trong số các quyền thì bình đẳng trước Tòa án, bình đẳng trước pháp
luật là những quyền quan trọng được thế giới ghi nhận: “Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, không có bất kỳ sự phân biệt
nào”(Điều 7-Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền). “Mọi người đều được
hưởng quyền bình đẳng, được xem xét công bằng và công khai bởi một tòa án
độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và nghĩa vụ của họ
cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ” (Điều 10-Tuyên ngôn thế giới
về nhân quyền).
Pháp luật là hệ thống các quy tắc điều chỉnh quan hệ xã hội, là công cụ
quản lý của nhà nước, đồng thời còn là chỗ dựa cho người dân, để họ bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại các hành vi vi phạm. Vì
vậy, bình đẳng trước pháp luật là quyền của công dân mà nhà nước có trách
nhiệm bảo đảm thực thi quyền đó trong thực tế.
Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp trong xã hội và
xử lý các vi phạm pháp luật thông qua hoạt động xét xử bằng việc ra bản án
hoặc quyết định. Hoạt động của Tòa án đòi hỏi phải khách quan, công minh,
xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật để bảo đảm mọi vi phạm pháp
luật đều được xử lý, đồng thời không làm oan người vô tội. Để mục tiêu này

8
trở thành hiện thực trong thực tế thì Tòa án cần phải đảm bảo quyền bình
đẳng của những người tham gia tố tụng trước tòa.
Với ý nghĩa đó thì bình đẳng trước tòa án luôn được coi là nguyên tắc cơ
bản bảo đảm quá trình xét xử diễn ra công bằng, khách quan, chính xác: “Tất
cả mọi người đều bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán”(Điều 14-Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị). Những tuyên ngôn trên chính
là những lời cam kết và là sự công nhận của các quốc gia, các dân tộc tiến bộ
trên thế giới về quyền bình đẳng của con người trước tòa án, trước pháp luật.
Điều đó chứng tỏ, quyền bình đẳng trước Tòa án là một trong những quyền cơ
bản của con người, được toàn thế giới công nhận và bảo đảm để quyền đó

được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh.
Hiến pháp và pháp luật nước ta đã ghi nhận bình đẳng trước tòa án, bình
đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của con người “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật”(Điều 52-Hiến pháp 1992), “Tố tụng hình sự tiến hành
theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”(Điều 5-Bộ luật tố
tụng hình sự 2003).
Ở nhà nước ta các quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng đều xác định vị trí bình đẳng của các công dân không
có sự phân biệt. Bình đẳng trước pháp luật có nghĩa là: khi tham gia tố tụng
hình sự mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Trong cùng một vai
trò của người tham gia tố tụng như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều có quyền và
nghĩa vụ như nhau do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử không ai được loại trừ hoặc được áp dụng những ưu
đãi ngoài quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình giải quyết vụ án
đều phải theo một trình tự, thủ tục thống nhất theo quy định của pháp luật tố

9
tụng hình sự. Tính thống nhất thể hiện ở việc cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng giải quyết vụ án theo trình tự, thủ tục chung trên toàn quốc
và đối với tất cả những người tham gia tố tụng ở tất cả các vụ án khác nhau
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đối với các thủ tục đặc biệt, thủ
tục rút gọn chỉ áp dụng với đối tượng và trong phạm vi luật định, bất kỳ ai,
bất kỳ vụ án nào có đủ điều kiện luật định trong trường hợp đặc biệt thì mới
áp dụng thủ tục đặc biệt. Bất kỳ ai phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự
không phân biệt địa vị, đẳng cấp, giới tính, tôn giáo.
Bình đẳng trước pháp luật là quyền bình đẳng của công dân trước sự điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật, còn bình đẳng trước Tòa án là quyền bình

đẳng của công dân trước một cơ quan nhà nước cụ thể, cơ quan thực hiện
chức năng xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án, xét xử là hoạt động trọng
tâm và Tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án là yêu cầu quan trọng nhất, có ý nghĩa
quyết định nhất trong cả quá trình tố tụng.
Nghị Quyết số 49 NQ/TW của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” nhận định: “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm”. Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 khẳng định “Không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Việc một người bị khởi tố, điều tra, truy tố trước Tòa án chưa thể kết
luận người đó có tội và chưa thể áp dụng trách nhiệm hình sự. Thời điểm thực
hiện trách nhiệm hình sự khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, chỉ
có Tòa án mới có thẩm quyền nhân danh nhà nước tuyên bố một người là có
tội và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ. Thẩm quyền đó được thực hiện
chỉ sau khi thông qua hoạt động xét xử, bằng việc xem xét toàn bộ các chứng
cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa và dựa vào
các quy định của pháp luật, Tòa án mới có căn cứ phán quyết cuối cùng một
người có phải là tội phạm hay không.

10
Như vậy, hoạt động xét xử chính là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình
sự và tòa án có vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng.
Và nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, vừa bảo đảm quyền cơ bản của
con người đồng thời giúp cho việc giải quyết vụ án khách quan, đúng người,
đúng tội. Với ý nghĩa quan trọng đó, Bộ luật tố tụng hình sự ghi nhận: “Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân

chủ trước tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các
quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án ”(Điều 19- Bộ luật tố
tụng hình sự 2003).
Quyền bình đẳng ở đây được xem xét trên hai phương diện:
Thứ nhất, trong cùng một vai trò khi tham gia tố tụng thì quyền và nghĩa
vụ của những người tham gia tố tụng là như nhau. Ví dụ, cùng là bị cáo trong
vụ án, không thể có việc bị cáo này được quyền xuất trình chứng cứ, được
quyền đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa án, còn bị cáo khác lại không
được hưởng các quyền đó.
Thứ hai, đối với các vai trò khác nhau khi tham gia tố tụng: dù là đại diện
cho nhà nước thực hiện chức năng buộc tội (Kiểm sát viên) hay bên gỡ tội (bị
cáo, người đại diện của bị cáo, người bào chữa) và những người tham gia tố
tụng khác thì họ cũng đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án.
Nội dung của nguyên tắc này là phải đảm bảo quyền bình đẳng trong
việc thu thập và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu theo quy
định của pháp luật. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự
luật định, được dùng làm căn cứ xác định có hay không hành vi phạm tội,

11
giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Nếu không đảm bảo quyền bình
đẳng trong việc thu thập và đưa ra chứng cứ sẽ dẫn đến tình trạng nhiều
chứng cứ buộc tội, xét xử phiến diện không khách quan chính xác. Tại phiên
tòa các bên có quyền bình đẳng trong việc đánh giá chứng cứ, được đưa ra các
yêu cầu làm rõ các chứng cứ đã thu thập được và yêu cầu thu thập thêm
chứng cứ mới. Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa các bên có quyền yêu cầu Tòa
án bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nếu như quyền lợi của họ
bị xâm phạm.
Tại phiên tòa các bên có quyền bình đẳng trong tranh luận và được Tòa
án bảo đảm quyền bình đẳng ấy. Tranh luận tức là các bên được trình bày

quan điểm riêng của mình, đưa ra các căn cứ để chứng minh luận điểm của
mình, từ kết quả tranh luận của các bên, những mâu thuẫn trong vụ án được
làm rõ, kết hợp với các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, tòa án sẽ bác
bỏ những quan điểm thiếu căn cứ và đưa ra phán quyết cuối cùng. Tại phiên
tòa, tất cả các chứng cứ tài liệu được xem xét công khai, lập luận của Kiểm
sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được trình
bày và được xem xét toàn diện, để việc tranh luận được hiệu quả, khách quan
thì cần thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng của các bên.
Như vậy, quyền bình đẳng trước tòa án là quyền được tòa án đối xử công
bằng và những người tham gia tố tụng có quyền ngang nhau trong việc thu
thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và góp phần giải quyết vụ
án khách quan, công bằng, chính xác.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chính là việc xác định các cơ
chế, các biện pháp để thực thi và bảo vệ quyền bình đẳng trong thực tế. Bộ
luật tố tụng hình sự chỉ rõ Tòa án có trách nhiệm bảo đảm, tạo điều kiện để
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền bình đẳng.

12
Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình
sự, bởi vì bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chính là bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, góp phần giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện, chính xác. Nguyên tắc này không chỉ được ghi nhận
trong tố tụng hình sự Việt Nam mà còn được pháp luật quốc tế ghi nhận. Là
nguyên tắc cơ bản nên nguyên tắc này chi phối hoạt động xây dựng và áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án, mà
hoạt động xét xử là hoạt động trọng tâm của tố tụng hình sự.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án như sau: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự, theo đó Tòa

án là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án”.
1.1.2. Vị trí
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của những người tham gia tố tụng
trước tòa án có vị trí rất quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự, nó tác động,
chi phối các nguyên tắc khác và là định hướng cho hoạt động xây dựng, áp
dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Khẳng định nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình
sự vì nguyên tắc này bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người, đó
là quyền bình đẳng trước Tòa án.
Ngoài ra, nguyên tắc này là phương châm, định hướng chi phối các hoạt
động tố tụng trong giai đoạn xét xử- mà giai đoạn xét xử là giai đoạn quan
trọng nhất, cơ bản nhất của tố tụng hình sự. Tại giai đoạn này, Tòa án với tính
cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện công việc xét xử vụ án, giải quyết

13
những vấn đề bản chất của vụ án bao gồm định tội danh, quyết định hình phạt
đối với người phạm tội [32, tr 176].
Khẳng định nguyên tắc này là nguyên tắc cơ bản không chỉ dừng ở nhận
định cảm tính, mà nhận định như vậy là căn cứ vào tính khách quan, tính khoa
học của nguyên tắc. Đây là kết quả nghiên cứu của khoa học tố tụng hình sự,
nó phản ánh quy luật phát triển khách quan quá trình đấu tranh chống tội
phạm và giải quyết vụ án hình sự. Mục đích của xét xử là xác định sự thật
khách quan của vụ án để quyết định một người có tội hay không có tội và áp
dụng hình phạt tương ứng để giáo dục cải tạo riêng và phòng ngừa tội phạm
chung. Thực tế khách quan đã chứng minh không thể có được phán quyết
chính xác, khách quan nếu không đảm bảo được quyền bình đẳng của những

người tham gia tố tụng trước tòa án. Nếu bên buộc tội có nhiều quyền hơn,
được thiên vị hơn tất yếu dẫn đến việc oan sai, kết án oan người vô tội, ngược
lại quá thiên vị bên bị buộc tội sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, hình phạt sẽ
không tương xứng với hành vi phạm tội. Cả hai khuynh hướng trên đều không
phù hợp với phương châm giải quyết vụ án hình sự vừa phải đảm bảo tính
chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời phải tôn trọng và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì thế, để giải quyết chính xác,
khách quan vụ án cần phải quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án là nguyên tắc cơ bản.
Để nhận định rõ hơn về vị trí của nguyên tắc này có thể so sánh với một
số nguyên tắc khác trong giai đoạn xét xử của tòa án được quy định trong luật
tố tụng hình sự.
Nghiên cứu Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, một số nguyên tắc liên
quan đến hoạt động xét xử không thể là nguyên tắc cơ bản thí dụ: “Nguyên
tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia”(Điều 15), “Nguyên tắc xét
xử công khai” (Điều 18) Các nguyên tắc trên đều rất quan trọng đối với hoạt

14
động xét xử của tòa án, song những nguyên tắc này không cơ bản vì không
chi phối toàn bộ giai đoạn xét xử và áp dụng vẫn có ngoại lệ.
“Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia”: trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán và “trong trường hợp
cần thiết có thể thêm hai Hội thẩm” (Điều 224- Bộ luật tố tụng hình sự). Như
vậy, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia hội đồng xét xử ở phiên tòa sơ thẩm,
phiên tòa phúc thẩm không tham gia và chỉ trong trường hợp cần thiết thì mới
có Hội thẩm.
Đối với “Nguyên tắc xét xử công khai” vẫn có trường hợp ngoại lệ khi
cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật
của đương sự, mặc dù Toà án phải tuyên án công khai.
Qua so sánh với một số nguyên tắc được quy định trong Bộ luật tố tụng

hình sự hiện nay càng thấy được vị trí quan trọng của nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước tòa án. Nguyên tắc này vừa có vị trí quan trọng trong
toàn bộ giai đoạn xét xử, không có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào và việc
không đảm bảo nguyên tắc sẽ dẫn đến việc xét xử không công bằng, thiếu
chính xác.
Là nguyên tắc cơ bản nên nguyên tắc này chi phối các nguyên tắc khác,
tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của các nguyên tắc khác như:
“Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” (Điều 4),
“nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”
(Điều 5), “nguyên tắc xác định sự thật vụ án” (Điều 10), và “nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ bị can, bị cáo” (Điều 11). Quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân cần phải được tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt
trong quan hệ tố tụng hình sự nguyên tắc này càng phải được đề cao, bởi vì tố
tụng hình sự điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến điều tra, truy tố,
xét xử- mỗi hành vi tố tụng, quyết định tố tụng đều tác động trực tiếp đến
quyền và lợi ích của công dân. Chính việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa

15
án cũng là nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của công dân. Nội dung quyền
bình đẳng trước tòa án là mọi người được bình đẳng đưa ra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật, đưa ra yêu cầu và được tranh luận dân chủ trước tòa án. Tòa án phải
xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ sự thật vụ án, phán quyết của tòa án
phải dựa vào các chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả
tranh luận tại phiên tòa, để có phán quyết khách quan, toàn diện, chính xác
cần phải đảm bảo quyền bình đẳng của các bên. Do đó, đảm bảo quyền bình
đẳng trước tòa án vừa thể hiện sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân- trong
đó có quyền được bào chữa, quyền được tranh luận và quyền bình đẳng trước
pháp luật, đồng thời đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án, giải
quyết chính xác vụ án.
Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định “Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của

bản án và quyết định của Tòa án” (Điều 22), theo đó bản án và quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan,
tổ chức và mọi công dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh. Nguyên tắc này
chỉ thực sự có hiệu quả khi bản án, quyết định của tòa án là kết quả của phiên
tòa công bằng, bảo đảm đầy đủ quyền bình đẳng của những người tham gia tố
tụng.
Xét về vị trí của nguyên tắc trong tố tụng hình sự, “Nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án” còn có quan hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác như: “Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9), “Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng”(Điều 14).
Nguyên tắc tại Điều 9 còn được gọi là “Nguyên tắc suy đoán vô tội”
nhằm xác lập, củng cố và bảo vệ quyền tự do, bình đẳng của công dân trong
tố tụng hình sự tránh sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị
can, bị cáo dẫn đến việc giải quyết vụ án thiếu khách quan. Theo quy định
trên, nguyên tắc suy đoán vô tội là: Thứ nhất, trước thời điểm bản án kết tội

16
của tòa án có hiệu lực pháp luật, bị can, bị cáo được coi là chưa có tội. Thứ
hai, không ai ngoài tòa án có quyền khẳng định một người là có tội. Thứ ba,
Tòa án chỉ có thể khẳng định một người là có tội bằng bản án buộc tội theo
theo trình tự, thủ tục của tố tụng hình sự. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng
nhận thức sâu sắc và tuân thủ triệt để nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn đối với
thân phận của bị cáo và đối với việc giải quyết vụ án. Bởi vì, ý thức chủ quan
của người tiến hành tố tụng sẽ công tâm, không định kiến, luôn tạo sự bình
đẳng giữa các bên trong việc xuất trình chứng cứ và tranh luận bình đẳng. Bị
cáo sẽ tránh được định kiến, các chứng cứ buộc tội gỡ tội, các tình tiết tăng
nặng giảm nhẹ và các tình tiết khác về nhân thân được xem xét toàn diện, các
ý kiến tranh luận của bên buộc tội và bên gỡ tội được xem xét công khai,
không thiên lệch.

Nếu như nguyên tắc “Suy đoán vô tội” xóa bỏ định kiến chủ quan luôn
coi bị cáo đã là người có tội và góp phần đảm bảo quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước tòa án, thì nguyên tắc “Bảo đảm sự vô tư của
những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng” lại yêu cầu những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng phải vô tư trong khi thực hiện
nhiệm vụ. Vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ tức là không có động cơ, mục
đích riêng ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án, việc họ thực hiện nhiệm
vụ hoàn toàn theo quy định của pháp luật nhằm mục đích giải quyết vụ án
khách quan, chính xác. Người tiến hành tố tụng không vô tư, vì lợi ích cá
nhân nên bênh vực bên mình được hưởng lợi ích sẽ dẫn đến việc bất bình
đẳng trong quá trình xét xử, các chứng cứ và các ý kiến đối lập sẽ không được
xem xét. Do vậy, bảo đảm sự vô tư cũng góp phần bảo đảm cho sự bình đẳng
của những người tham gia tố tụng trước tòa án.
Từ những phân tích trên cho thấy “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án” có vị trí quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nhận thức
đầy đủ về vị trí của nguyên tắc góp phần áp dụng hiệu quả nguyên tắc trong

17
thực tiễn. Đây là nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự, chi phối và
tác động đến các nguyên tắc khác, góp phần đảm bảo hiệu quả trong việc áp
dụng các nguyên tắc khác như: “Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân”, “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật”, “Nguyên tắc xác định sự thật vụ án” và “Nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ bị can, bị cáo”. Đồng thời, nguyên
tắc này cũng có quan hệ mật thiết, gắn bó và cần áp dụng thống nhất, đồng bộ
với các nguyên tắc như: “Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, “Nguyên tắc bảo đảm sự vô
tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng”.
1.1.3. Ý nghĩa
Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án” có ý nghĩa quan

trọng không chỉ đối với những người tham gia tố tụng mà còn có ý nghĩa đối
với cả các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Trước hết, nguyên tắc này bảo đảm quyền và lợi ích của bị cáo và những
người tham gia tố tụng. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quan hệ pháp
luật đặc biệt, bởi lẽ khi một người bị cáo buộc có hành vi phạm tội thì người
đó có thể sẽ bị áp dụng các biện pháp tố tụng nghiêm khắc như: bị khởi tố,
điều tra, truy tố… bị áp dụng các biện pháp điều tra như: khám xét người,
khám chỗ ở, chỗ làm việc, bị tạm giữ đồ vật, bị kê biên tài sản… bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn như: bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Các biện pháp trên
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bị cáo. Bị cáo sẽ bị hạn chế quyền tự
quyền tự do thư tín, quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền tự do thân thể,
ngoài ra bị cáo còn bị ác cảm, bị coi thường bởi dư luận xã hội. Trong giai
đoạn này quyền của bị cáo bị hạn chế rất nhiều, khả năng tự thu thập chứng
cứ gỡ tội cho mình là rất khó.
Nếu kết quả điều tra, truy tố, xét xử chứng minh đúng là bị cáo có tội thì
cũng không phải bàn cãi nhiều. Nhưng kết quả chứng minh bị cáo vô tội hoặc

18
hành vi chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì hậu quả thật quá nặng
nề. Có thể khẳng định không phải mọi trường hợp một người bị khởi tố, truy
tố, xét xử sẽ là người phạm tội! Trường hợp oan, sai hoàn toàn có thể xảy ra,
không phải là hiếm và nguyên nhân thì có rất nhiều. Mặt khác, các cơ quan
tiến hành tố tụng có rất nhiều quyền năng, được trang bị các công cụ, phương
tiện, hỗ trợ cho quá trình điều tra, truy tố xét xử. Trong khi đó, bị cáo bị hạn
chế mọi mặt từ khi bị khởi tố. Mặc dù luật quy định Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát vừa phải làm rõ những chứng cứ xác định có tội, đồng thời cũng tìm
các chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thực tế nghĩa vụ này không phải lúc nào cũng
được thực hiện tận tâm, trọn vẹn, nghiêm túc.
Do đó, pháp luật cần phải bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra tài

liệu, chứng cứ, đưa ra yêu cầu và được tranh luận dân chủ trước tòa. Tại phiên
tòa, những chứng cứ gỡ tội cần được xem xét, những yêu cầu cần được quan
tâm và những lời tranh luận cần được bảo đảm, chỉ khi tòa án bảo đảm quyền
bình đẳng trong việc tranh luận và xem xét chứng cứ thì mới có nhiều căn cứ
để ra bản án chính xác, khách quan. Bảo đảm quyền bình đẳng chính là bảo
đảm quyền được tranh luận, quyền được xuất trình chứng cứ, quyền được
chứng minh sự thật vụ án. Có như vậy thì quyền lợi của bị cáo mới được bảo
đảm, sự thật mới được xác định một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Đối với những người tham gia tố tụng khác như: người bào chữa, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan cũng vậy. Những người này tham gia tố tụng họ cũng có quyền và lợi
ích riêng, họ cần phải được bảo đảm quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng
cứ và được tranh luận bình đẳng để bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, bảo
đảm quyền bình đẳng trước tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

×