Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 133 trang )

đại học quốc gia hà nội
Khoa luật





Lê Thị Hồng Hạnh







Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử-
những vấn đề lý luận và thực tiễn








Luận văn thạc sĩ luật học














Hà Nội - 2009


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đạt được mục đích của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng: khởi tố
vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cña c¸c cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Cơ quan thi hành án đồng thời quy định quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ
án. Mặt khác, BLTTHS còn qui định các nguyên tắc cơ bản với tính chất là
những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối
với một loại hoạt động tố tụng nhất định như hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử Các nguyên tắc của tố tụng hình sự thực chất là những đảm bảo pháp lý
cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời chúng còn là những
đảm bảo pháp lý cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét

xử vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam. Đây cũng là
một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988.
Việc đảm bảo cho nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện trên thực
tế là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định của pháp
luật về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, cũng như giám đốc thẩm và tái thẩm đã
xuất hiện một số vướng mắc nhất định, gây khó khăn cho các cơ quan tiến
hành tố tụng và gây thiệt hại cho những người tham gia tố tụng. Chẳng hạn,
về xét xử sơ thẩm, trong cùng một nội dung nhưng một số điều luật tại các
phần khác nhau trong BLTTHS năm 2003 chưa thực sự thống nhất với nhau,
ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, khiến họ


2
có những phản ứng trước các kết luận trong bản án, quyết định sơ thẩm, dẫn
đến bị cáo kháng cáo, VKS kháng nghị bản án. Trong khi đó các quy định của
pháp luật về xét xử phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Bởi vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện nguyên tắc này là một đòi
hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa khoa
học và còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử cũng còn nhiều bất cập, việc
kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của VKS nhiều khi không có căn cứ mà chỉ
nhằm trì hoãn, dây dưa, kéo dài việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội.
Từ thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu một cách
toàn diện những quy định của pháp luật về nguyên tắc hai cấp xét xử nhằm làm
sáng tỏ về mặt lý luận để áp dụng và thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả nguyên
tắc này trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hình
sự hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Với những lý do đã nêu trên, tôi chọn đề tài "Nguyên tắc thực hiện

chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" để nghiên cứu
trong Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự, nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, thể hiện trong
những cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2004, giáo trình của các trường đại học và rải rác ở
một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Nhà nước và pháp luật như bài viết: "Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến
việc tổ chức Tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
10/2004 của Trần Văn Độ; "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng


3
nguyên tắc đó vào việc tổ chức tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 5/2007 của Trần Văn Độ; "Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử", đăng trên Tạp
chí Luật học, số 6/2007 của Vũ Gia Lâm.
Tuy nhiên, đây là một nguyên tắc mới được qui định cụ thể trong BLTTHS
năm 2003. Do đó, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này nếu so với
các qui định khác của quá trình tố tụng nói chung còn ít. Thiết nghĩ việc tiếp
tục nghiên cứu nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử để khắc phục
những hạn chế, đưa ra những giải pháp phù hợp là một việc làm cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ
thống các quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử, chỉ ra những mâu thuẫn, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật cũng như trong quá trình áp dụng trong thực tiễn. Từ đó đề xuất giải
pháp góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc này.

- Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự.
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam
về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng
thời đối chiếu, so sánh để tìm ra các mâu thuẫn và bất cập trong các quy định
đó. Riêng đối với cấp xét xử phúc thẩm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định của pháp luật về việc phúc thẩm đối với các bản án hình sự sơ thẩm.
+ Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử trong những năm gần đây nhằm tìm ra những khó khăn,
vướng mắc, tồn tại, bất cập khi vận dụng pháp luật.


4
+ Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong BLTTHS Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đây là đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối của
Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách nền tư pháp và
nền hành chính quốc gia, xây dựng một xã hội công bằng, pháp chế, văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Nội dung của đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các
văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật có
liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và những bài viết
trên các báo, tạp chí và các bản tổng kết của ngành Tòa án, VKS, cũng như
thực tiễn công tác của bản thân tác giả.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê. Những kết luận và đề

xuất nêu trong luận văn được dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học,
đối chiếu với kết quả khảo sát thực tế, phân tích các báo cáo tổng kết của
ngành tòa án trong những năm gần đây cũng như định hướng phát triển của
ngành tòa án trong những năm sắp tới.
5. Đóng góp mới của luận văn
Đây là luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của
BLTTHS hiện hành về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Kết quả
nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng,
đánh giá đúng thực trạng, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân và giải pháp hoàn thiện.
Do đó, luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào
kho tàng lý luận về luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tài liệu tham khảo bổ ích
cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đề xuất sửa đổi, bổ


5
sung BLTTHS về vấn đề này và những người làm công tác thực tế như công
tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong
Luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.



6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Cơ sở của nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự
Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Quy
chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế) xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, đối với nước ta đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay vẫn tiếp tục kiên định chủ trương xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong đó, mọi
hoạt động của cơ quan nhà nước dù ở cấp nào cũng được thực hiện trên cơ sở
pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền không có nghĩa là chỉ hoàn thiện tổ
chức quyền lực Nhà nước mà còn phải xây dựng tổng thể những nền tảng kinh
tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó, thực hiện pháp luật tố tụng hình sự
theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi phải đề cao nguyên tắc phản ánh được tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và
pháp chế. Muốn đạt được như vậy, bên cạnh việc thực hiện các nguyên tắc như:
Nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật…thì còn phải thực hiện nguyên tắc hai cấp xét
xử, vì nguyên tắc này là một bảo đảm cho quá trình tìm ra sự thật khách quan
của vụ án, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi tội
phạm đều phải bị trừng trị đích đáng theo qui định pháp luật đồng thời không
truy cứu oan người vô tội, tạo điều kiện cho các bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích



7
hợp pháp của mình, góp phần vào việc thực hiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, tất cả vì mục tiêu con người mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Thứ hai, hoạt động xét xử là một hoạt động phức tạp. Ngày nay, trước
những chuyển biến về hoàn cảnh thế giới và trong nước, với xu thế phát triển
ngày càng cao của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến làm phát sinh ra
ngày càng nhiều loại hình tội phạm mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thực tế chỉ
ra rằng, các Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa mặc dù được đào tạo chuyên môn về
luật pháp, có kinh nghiệm xét xử và được bổ trợ những kinh nghiệm thực tế của
02 Hội thẩm nhân dân nhưng có thể vẫn mắc phải những sai lầm do trình độ
nhận thức hoặc cảm tính cá nhân. Để khắc phục được những sai sót có thể xảy
ra đó, pháp luật tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng sau khi xét xử
lần đầu có cơ hội yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại một lần nữa theo thủ tục
phúc thẩm. Tòa án cấp trên với Hội đồng xét xử (HĐXX) có số lượng Thẩm
phán nhiều hơn có kinh nghiệm hơn sẽ là bảo đảm tốt hơn cho vụ án được giải
quyết chính xác, khách quan, công bằng và cũng là cơ hội để Tòa án cấp trên
sửa sai cho Tòa án cấp dưới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng trên thực tế còn có
tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của các Thẩm phán xét xử sơ thẩm.
Thực tế cho thấy, với khả năng các phán quyết của họ có thể sẽ bị Tòa án
phúc thẩm xem xét lại, thậm chí là hủy án sẽ làm cho các Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa ở cấp sơ thẩm thận trọng hơn, cân nhắc kỹ lưỡng, đầu tư nghiên
cứu hồ sơ vụ án để có một quyết định chính xác. Mặt khác, nếu Thẩm phán bị
phát hiện có dấu hiệu sai lầm trong nghiệm vụ sẽ là dấu ấn không tốt cho việc
thăng tiến trong tương lai hoặc tái bổ nhiệm…
Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền
bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình tại phiên tòa, có quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng vì lý do nào

đó, bị cáo không thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên tắc hai


8
cấp xét xử tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên tòa
phúc thẩm, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo suy ngẫm, ăn năn hối cải, bồi
thường khắc phục hậu quả nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, kể
cả khi đã có bản án kết tội của Tòa án sơ thẩm. Điều đó thể hiện sự nhân đạo
của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ năm, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo sự phù hợp giữa pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế trong hoạt động xây dựng pháp luật. Khi
xây dựng pháp luật, pháp lệnh, Quốc hội nước ta luôn ưu tiên cho việc ban
hành mới hoặc sửa đổi những qui định hiện hành sao cho phù hợp với Điều
ước quốc tế, Công ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập, đảm bảo cho các văn
bản pháp luật đó được thực hiện. Điều đó có nghĩa là khi Chủ tịch nước hay
người có thẩm quyền ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, Công ước quốc
tế thì các văn bản pháp luật quốc tế này phải được xem là một bộ phận của
Pháp luật quốc gia. Và do đó, nó phải được tồn tại trong tổng thể thống nhất
và phối hợp với pháp luật trong nước. Do đó, việc qui định nguyên tắc hai cấp
xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng là một đảm bảo cho sự
phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày
16/12/1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 trong đó qui định: "Bất cứ
người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xét
xử lại bản án và hình phạt đối với mình theo qui định pháp luật".
Theo tác giả, trên đây là những cơ sở, lý do cơ bản để pháp luật quốc
gia và các văn bản pháp luật quốc tế quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố
tụng hình sự
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

a) Nguyên tắc thực hành hai cấp xét xử được qui định trong các văn
bản pháp luật của các quốc gia và văn bản pháp luật quốc tế, theo đó nguyên
tắc này bao gồm những nội dung sau:


9
Thứ nhất, bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên
tại cấp xét xử sơ thẩm.
Đối với một vụ án hình sự, sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xử
thứ nhất hay còn gọi là cấp xét xử thứ nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS. Điều này có nghĩa là
chỉ khi có cáo trạng truy tố bị can ra Tòa của VKS thì mới có xét xử sơ thẩm.
Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một
phiên tòa hình sự sơ thẩm và được diễn ra theo một thủ tục nhất định được
quy định trong BLTTHS. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào dù đơn
giản hay phức tạp, dù có một hay nhiều bị cáo cũng đều phải diễn ra theo thủ
tục đó.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề
của vụ án, có nghĩa là trong bản án hình sự sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm phải
quyết định bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, áp dụng điểm, điều,
khoản nào trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Nếu có nhiều bị cáo thì áp dụng
điểm, điều, khoản nào đối với từng bị cáo và quyết định hình phạt chính, hình
phạt bổ sung (nếu có). Ngoài ra, HĐXX còn phải quyết định các vấn đề khác
như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng (nếu có), quyết định về phần án phí
hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm (nếu có), đồng thời tuyên bố quyền
kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nói cách khác,
HĐXX cấp sơ thẩm phải phân tích, đánh giá toàn bộ vụ án, trên cơ sở những vấn
đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định có tội,
chứng cứ xác định vô tội, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đánh giá

thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như lên hướng xử lý
vật chứng (nếu có) để đi đến các quyết định trong bản án.
Thứ hai, Bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật. Tất cả các bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ trường


10
hợp nào. Khi có kháng cáo, kháng nghị thì vụ án được xét xử ở cấp xét xử
phúc thẩm. Đây là cấp xét xử thứ hai và bao giờ cũng được tiến hành sau cấp
xét xử sơ thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án
cấp sơ thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là các bản án, quyết định sơ thẩm và
Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên của Tòa án đã
xét xử sơ thẩm.
Như vậy, không phải tất cả các vụ án đều phải trải qua thủ tục sơ thẩm
và phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị thì mới được xét xử ở cấp phúc thẩm. Đối với vụ án có kháng cáo, kháng
nghị thì bản án chưa được đưa ra thi hành ngay trừ trường hợp bị cáo đang bị
tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là
tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng
hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của tòa án
được thi hành ngay (khoản 2 Điều 255) mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo,
kháng nghị, mục đích là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, trả lại tự do cho bị cáo
nếu bị cáo không bị giam giữ về một hành vi khác.
Khi kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ
cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu hoặc tại phiên
tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc VKS có quyền bổ sung, thay đổi kháng
cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, rút một
phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ

kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được định
chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ khi Tòa án phúc thẩm ra quyết
định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Thứ ba, quyền kháng cáo thuộc về bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác với phạm vi và giới hạn do luật quy định. Tòa án tạo điều kiện cho
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền kháng cáo của mình. Bị cáo,
người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án


11
hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 231 BLTTHS). Quyền kháng nghị thuộc về
VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng cáo là mười lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa
thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm
yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp
trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp đặc
biệt, có lý do chính đáng thì Tòa án có thể chấp nhận kháng cáo quá hạn.
Việc chấp nhận hay không chấp nhận được quyết định bởi HĐXX gồm ba
Thẩm phán.
Thứ tư, đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn
theo quy định của pháp luật mà không có kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu
lực pháp luật. Khi đó Tòa án sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án ngay đối
với các bị cáo. Bản án Phúc thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu
lực thi hành ngay sau khi bản án được tuyên. Trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tuyên án hoặc từ khi ra quyết định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản
án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án cấp sơ thẩm (và các cơ quan khác theo
quy định của pháp luật) để Tòa án sơ thẩm ra quyết định thi hành án.
Thứ năm, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án
hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản

án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc
thẩm, tái thẩm là hai hình thức của thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm và bị kháng nghị. Nó được thực
hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không
phải là thủ tục nối tiếp của hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Vì vậy, giám
đốc thẩm và tái thẩm không được coi là cấp xét xử thứ ba. Việc kháng nghị
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm thuộc về VKS, Tòa án. Người phạm tội có quyền kháng cáo


12
đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm phải có các căn cứ quy định tại Điều 273, Điều 291 BLTTHS.
b) Phân biệt hai cấp xét xử với xét xử một cấp. Xét xử một cấp là chế
định về xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nghĩa là các bản án chỉ được
xét xử một lần là xét xử sơ thẩm. Cơ chế xét xử một cấp tồn tại từ sau Cách
mạng tháng Tám thành công, ngày 14-2-1946 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số
21/ SL về việc tổ chức Tòa án quân sự (TAQS) quy định: "Tất cả những vụ án
phản cách mạng đều được xét xử một lần và là chung thẩm", việc xét xử này
thuộc thẩm quyền của TAQS. Đây là văn bản đầu tiên xác định sự ra đời của
thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Từ khi ra đời cho đến nay, thủ
tục này được quy định ở nhiều văn bản pháp luật tố tụng khác nhau cụ thể tại
Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/2/1947 về tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt
Nam; Sắc lệnh số 45/SL ngày 24/4/1947; Sắc luật số 01 ngày 15 tháng 3 năm
1976; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1981; Luật Tổ chức
TAND năm 1992 và BLTTHS năm 1988. Từ năm 1960, Tòa án có thẩm
quyền xét xử một lần (chung thẩm) thuộc về Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC). "Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là
chung thẩm và có hiệu lực pháp luật" (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960).

Vì vậy, thủ tục xét xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời
chung thẩm chứ không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước. Sự thay đổi về
tên gọi này là cần thiết vì nó dễ phân biệt với thủ tục chung thẩm nhưng với ý
nghĩa là cấp xét xử thứ hai (sau này gọi là phúc thẩm). BLTTHS năm 1988 ra
đời, thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC
vẫn tồn tại. Tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 1988 quy định: "Tòa hình sự
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự cấp cao xét xử sơ thẩm đồng thời
chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp". Theo Thông tư
liên ngành số 02 ngày 22/12/1982 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC), Bộ Nội vụ, Bộ tư pháp hướng dẫn để xét xử một vụ án hình
sự theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm phải hội đủ các điều kiện cần
và đủ sau:


13
- Bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh chính
trị, tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản công dân, làm cho nhân dân căm phẫn
và yêu cầu chính trị của địa phương là phải trừng trị nghiêm khắc, kịp thời.
- Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh, côn đồ, những tên
chuyên làm ăn phi pháp, những cán bộ nhân viên sa đọa, biến chất.
- Trong vụ án không có nhiều bị cáo, chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ
không còn nghi vấn gì về tội phạm.
- Mức độ tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, cần phải trừng trị bằng
hình phạt cao nhất.
Cho đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời cơ chế một cấp xét xử mới
được thay thế hoàn toàn bởi cơ chế hai cấp xét xử, hủy bỏ thẩm quyền xét xử
sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC.
Theo thủ tục xét xử một cấp, bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung
thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án. Bị cáo và những người có quyền
lợi pháp lý trong vụ án cũng như VKS không được quyền kháng cáo, kháng nghị

bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm theo thủ tục phúc thẩm.
Xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trong thời điểm nhất định đã
góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và trong những năm đầu mới giành chính
quyền. Nó có ưu điểm là làm cho việc xét xử nhất là các vụ án trọng điểm, án
phức tạp nhanh chóng hơn, bản án đã tuyên đảm bảo được tính ổn định, tiết kiệm
được chi phí xét xử cũng như thời gian và công sức. Đặc biệt là phù hợp và có
hiệu quả đối với việc xét xử các phần tử phản cách mạng chống chính quyền
nhân dân, giải quyết dứt điểm các vụ án phản cách mạng đồng thời thể hiện được
quyền lực của chính quyền nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
xã hội và ổn định kinh tế trong những ngày đầu của chính quyền còn non trẻ phải
tiếp quản một xã hội đầy khó khăn và tội phạm. Việc xét xử do TANDTC tiến
hành với đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm


14
nên chất lượng xét xử nhìn chung tốt, đảm bảo xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Song, xét về mặt đảm bảo quyền kháng cáo của người bị kết án nói
riêng, quyền con người nói chung thì thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm cần được xem xét lại. Điều này xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, nếu như nguyên tắc hai cấp xét xử bảo đảm bản án quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định
của pháp luật, điều này có nghĩa là tất cả các bản án, quyết định của Tòa án sơ
thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp
nào đối với bất kỳ bị cáo nào phạm tội vào bất kỳ loại tội nào kể cả tội ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Trong khi đó, đối tượng của xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trước đây
chỉ là đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, do đó, mức hình phạt
tuyên đối với bị cáo thường rất nặng, thậm chí tù chung thân hoặc tử hình mà
người bị kết án lại không có quyền kháng cáo, trong khi người phạm tội ít

nghiêm trọng hơn lại được kháng cáo. Đó là điều bất hợp lý. Hơn nữa, đây lại
là các vụ án có tính phức tạp cao, nếu chỉ xét xử một lần e là khó tránh khỏi
những sơ suất có thể phát sinh mà sau này không có cơ hội để sửa chữa lại.
Thứ hai, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đã vi phạm
nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được quy định tài Điều 131
Hiến pháp và Điều 12 BLTTHS năm 1988 (tức Điều 11 BLTTHS năm 2003).
Theo nguyên tắc này người bị Tòa án đưa ra xét xử có quyền tự bào chữa cho
mình ở cấp sơ thẩm và khi chưa thỏa đáng với bản án, quyết định sơ thẩm thì
có quyền kháng cáo bản án để được xét xử lại ở cấp phúc thẩm nhưng nếu họ
bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm đống thời chung thẩm thì bị cáo sẽ không có
quyền yêu cầu xét xử phúc thẩm, vì thế, quyền tự bào chữa của bị cáo đã
không thể thực hiện được một cách trọn vẹn.
Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm cũng đã vi phạm
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại
Điều 52 Hiến pháp và Điều 4 BLTTHS năm 1988. Với nguyên tắc này, tất cả


15
những người tham gia tố tụng có cùng tư cách tố tụng họ đều có quyền và
nghĩa vụ pháp lý như nhau, không phân biệt bất kỳ ai, nhưng với thủ tục xét
xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, bị cáo và những người có quyền kháng cáo
trong vụ án đều bị tước mất quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, ngược lại với bị
cáo khác nếu bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm họ lại có quyền kháng cáo bản án
sơ thẩm. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trước pháp luật giữa các bị cáo,
quyền của các bị cáo có sự "phân biệt đối xử", không công bằng.
Khắc phục những hạn chế đó, để đảm bảo lợi ích cũng như quyền bào
chữa của bị cáo, cũng như để phù hợp với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, nguyên tắc hai cấp xét xử
ra đời xóa bỏ chế độ xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trước đây.
Như vậy, việc quy định nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử tại Điều 20

BLTTHS năm 2003 với những nội dung cơ bản như đã nêu trên thể hiện sự
tiến bộ trong lập pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nguyên tắc vốn được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm
cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [44, tr. 1217].
Do đó, có thể khẳng định nguyên tắc là cái không thể thiếu trong hoạt
động thực tiễn của con người, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng
hướng và đạt hiệu quả.
Tố tụng hình sự, với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan
nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc
của luật tố tụng hình sự có thể được định nghĩa "là tư tưởng chủ đạo và là
định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như
trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó" [1, tr. 3]


16
Hoạt động xét xử là quy trình Tòa án áp dụng luật vào việc xử lý hành
vi phạm tội nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế, chính trị-xã
hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là
hoạt động trọng tâm của hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động tư pháp nói
chung nên cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của các nguyên tắc luật tố
tụng hình sự mà đặc trưng là nguyên tắc thực hiện cơ chế hai cấp xét xử.
Cấp xét xử được hiểu với nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm
cho rằng cấp xét xử là giai đoạn xem xét lại vụ án tại Tòa án với thẩm quyền
xác định. Theo khái niệm này thì cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng
chung, thể hiện một giai đoạn xét xử trong quy trình giải quyết vụ án hình sự.
Xuất phát từ đây, người ta cho rằng trong pháp luật tố tụng hình sự có các cấp

xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mỗi giai đoạn tương ứng
với một cấp xét xử nhất định. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng cấp xét xử
là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện Quyết định của Nhà nước về xét xử các
vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án,
bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Hiện nay, theo pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện
theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Đó là việc vụ việc mà bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định được Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại theo thủ tục phúc
thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là một thủ tục đặc biệt, xét lại các bản án
và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng
không thể nói chúng là các cấp xét xử khác nhau.
Nguyên tắc hai cấp xét xử quy định Tòa án khi xét xử một vụ án hình
sự phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Bảo đảm đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ
thẩm vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được
cấp sơ thẩm giải quyết


17
- Bảo đảm tối đa quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm
của các đương sự. Đây là các quy định liên quan đến thời hạn kháng cáo,
kháng nghị, liên quan đến quyền hạn của những người tham gia tố tụng…
- Bảo đảm thể hiện đầy đủ rằng phúc thẩm là cấp xét xử. Tính chất của
phúc thầm phải là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà bản
án, quyết định Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
pháp luật qui định nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Với những vấn đề quan trọng trên, nguyên tắc hai cấp xét xử được nhà

làm luật xác định là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
và đã được quy định tại một điều luật cụ thể - Điều 20 Chương II "Những
nguyên tắc cơ bản" BLTTHS năm 2003. Bàn về các nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS Việt Nam, một số tác giả cho rằng: Nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số
giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự. Nói một cách cụ thể hơn, đó là những nguyên tắc
chi phối hoặc là tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hoặc chí ít cũng là một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Như vậy, nếu theo quan điểm này thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử chứ không phải là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quan điểm cuả tác giả
cho rằng với tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của nó đã được nhà làm luật
xác định tại Điều 20 Chương II, chúng ta có thể khẳng định nguyên tắc hai
cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc hai
cấp xét xử như sau:
Nguyên tắc hai cấp xét xử là những tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc
chung trong hoạt động xét xử, được quy định trong Luật tố tụng hình sự, đảm
bảo mọi vụ án đều có thể được xét xử theo hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp


18
phúc thẩm nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để Tòa án xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời tạo cơ hội cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng
cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét lại bản án.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử như sau:
Trước hết, nguyên tắc hai cấp xét xử là tư tưởng chủ đạo, định hướng,

là tiền đề quan trọng phản ánh quan điểm của nhà làm luật về xét xử các vụ án
hình sự nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa
án, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ hai, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc đặc trưng chỉ được
thực hiện trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Chủ thể duy nhất thực hiện
nguyên tắc này là Tòa án, bởi vì Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, khi Tòa án thực hiện hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm thì Cấp xét xử phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị
đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ là thủ tục xem
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có các căn cứ luật định.
Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử là biểu hiện quan trọng của việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện ở quyền kháng cáo, tức là
yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định, giảm tội hoặc xử vô tội.
1.2. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI
CẤP XÉT XỬ
Trong BLTTHS nước ta năm 2003, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự Việt Nam được nhà làm luật đề cập trong 30 điều khác nhau tại
chương II "những nguyên tắc cơ bản" (từ Điều 3 đến Điều 32). Bên cạnh các
nguyên tắc đặc biệt quan trọng khác như nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội


19
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3), nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân (Điều 4), nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5), nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án (Điều 10), nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (Điều 16)… thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
được qui định tại Điều 20 BLTTHS.

Thực tế, khi xây dựng hệ thống các nguyên tắc của một ngành luật
tương ứng nào đó, quan điểm được thừa nhận chung là nhà làm luật nên ghi
nhận các nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực cần điều chỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn lập pháp tố tụng hình sự còn ghi
nhận cả những nguyên tắc tổ chức và hoạt động trong các cơ quan tư pháp.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một ví dụ. Đây là nguyên tắc đặc trưng của giai
đoạn xét xử. Có thể nói, trong toàn bộ các nguyên tắc tố tụng hình sự, các
nguyên tắc về xét xử được nhà làm luật quan tâm hơn cả, ngay cả các nhà lập
hiến cũng quan tâm đến vấn đề này khi qui định về tổ chức và hoạt động của
cơ quan xét xử trong bộ máy nhà nước bởi vì xét xử - hoạt động tố tụng của
Tòa án được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự,
nói cách khác xét xử hình sự là quá trình thể hiện một cách tập trung tính chất
hệ thống tố tụng hình sự. Không phải ngẫu nhiên các nhà khoa học về tố tụng
hình sự dùng hình tượng cái chóp của hình nón hoặc đỉnh của kim tự tháp để
chỉ hoạt động xét xử. Pháp luật của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
quy định nguyên tắc tố tụng hình sự xoay quanh hoạt động xét xử. Ở nước ta
cũng vậy, đó là các nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân
tham gia (Điều 15), nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (Điều 16), nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (Điều 17), nguyên
tắc xét xử công khai (Điều 18), nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
(Điều 20), nguyên tắc giám đốc việc xét xử (Điều 21). Xét trong BLTTHS
Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc có vị trí rất quan trọng, là
nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử và là nguyên tắc cơ bản. Xét trong
hệ thống các nguyên tắc của BLTTHS Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử có


20
mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc khác, chúng bổ sung cho nhau, hỗ trợ
lẫn nhau, tạo thành một hệ thống. Mỗi nguyên tắc đều có vai trò độc lập
tương đối, song ý nghĩa đầy đủ của nó chỉ có thể xác định trong mối liên hệ

hữu cơ với những nguyên tắc khác và thông qua sự tác động của cả hệ thống
các nguyên tắc đối với hoạt động tố tụng hình sự.
Việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử có các ý nghĩa sau đây:
Một là, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo việc xét xử của Tòa án được
khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật. Điều 20 BLTTHS quy
định: "Bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị". Trong
trường hợp kháng cáo xảy ra, người dân cảm thấy bản án, quyết định bị kháng
cáo là chưa thỏa đáng đối với họ. Khi đó, không cần biết những kháng cáo đó
có căn cứ hay không, vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp bản án,
quyết định sơ thẩm bị VKS cấp có thẩm quyền kháng nghị khi cho rằng bản án,
quyết định sơ thẩm chưa đúng quy định của pháp luật. Tương tự kháng cáo, các
trường hợp kháng nghị cũng không cần xem xét về tính có căn cứ hay không
của việc kháng nghị mà vụ án đó phải được xét xử phúc thẩm. Điều đó có
nghĩa là, nếu bản án, quyết định sơ thẩm kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì vụ
án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp này có thể hiểu rằng pháp luật cho
phép các chủ thể như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, VKS cấp trên hoặc cùng cấp luôn
luôn có quyền nghi ngờ về tính đúng đắn của bản án, quyết định sơ thẩm.
Nếu hết thời hạn luật định mà bị cáo không kháng cáo, VKS không
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, điều này cũng có
nghĩa là người dân "trong cuộc" đã hoàn toàn thỏa mãn, tâm phục khẩu phục
hoặc không phản đối, VKS cũng đồng tình (hoặc không phát hiện thấy sai
phạm) của Tòa án cấp sơ thẩm, do đó bản án, quyết định phải được thi hành.
Thứ hai, Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án đảm bảo bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi


21
người tôn trọng. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án cũng có nghĩa

rằng giới hạn về cấp xét xử của Tòa án là hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm. Quy định này nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật được thi hành nhanh chóng, kịp thời, hạn chế việc trì hoãn, kéo dài việc
thi hành án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thứ ba, bên cạnh việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án, luật
tố tụng hình sự còn quy định việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhằm kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định sau khi có hiệu
lực pháp luật.
Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Tòa án
nói riêng cũng là hoạt động của con người, do đó không thể không có sự sai sót.
Việc xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật để khắc phục những sai sót đó là việc làm cần thiết.
1.3. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
* Giai đoạn sau năm 1945 - 1960
Ở giai đoạn này hệ thống Tòa án được tổ chức theo sắc lệnh số 13/SL
ngày 21/1/1946 về "tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán". Nhưng những
qui định về hoạt động của nó lại được qui định theo sắc lệnh khác là sắc lệnh
số 51/SL ngày 17/4/1946 "ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân
công giữa các nhân viên trong Tòa án". Theo sắc lệnh này các cấp xét xử
bước đầu được hình thành. Điều thứ 5 sắc lệnh số 51/SL qui định: "về hình
sự, Tòa án sơ cấp có quyền xử:
A- Chung thẩm:
1- Những án phạt bạc từ 0đ 50 đến 9đ 00;
2- Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt
hại trong vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi
cảnh đem ra phiên tòa xử.


22

B- Sơ thẩm:
1- Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày;
2- Những án xử bồi thường quá 150 đ hoặc những việc xin bồi thường
quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu nại hay chậm nhất,
lúc việc vi cảnh đem ra phiên tòa xử.
Điều thứ 10, về hình sự, Tòa án đệ nhị cấp có quyền xử:
A- Chung thẩm: những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo.
B- Sơ thẩm: Những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là
những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đ.
Điều thứ 13 qui định: "Tòa thượng thẩm có quyền xét xử những việc
kháng cáo án sơ thẩm của các tòa đệ nhị cấp".
Như vậy, theo qui định Sắc lệnh 51/LS, cơ chế xét xử sơ thẩm và
chung thẩm. Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất được áp dụng cho hai cấp Tòa án
là Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp. Những qui định này có lẽ bị ảnh hưởng
nhiều bởi hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp (trước 1945, nước Tòa án có
gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp). Chẳng hạn ở Pháp có hai
loại Tòa án có thẩm xét xử sơ thẩm: Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền hẹp Tòa
án sơ thẩm có thẩm quyền rộng.
Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, điều này có nghĩa là bản án của cấp xét xử
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn có thể bị kháng cáo để xem xét
lại. Việc xem xét này do Tòa án trên một cấp của Tòa án đã ra bản án sơ thẩm bị
kháng cáo tiến hành nhằm đảm bảo tính đúng pháp luật và có căn cứ cho các bản án
của Tòa án cấp sơ thẩm được gọi là cấp xét xử chung thẩm (cấp xét xử thứ hai).
Cấp xét xử chung thẩm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Chính cấp xét xử chung thẩm này cùng với cấp sơ thẩm đã tạo
nên một cơ chế xét xử mang tính chất truyền thống mà trải qua nhiều thời kỳ
phát triển khác nhau cơ chế này dường như không thay đổi, tiêu chí tính hợp


23

lý của cơ chế này không chỉ khác trong phạm vi một quốc gia mà còn có tính
thống nhất trong phạm vi quốc tế.
* Giai đoạn từ năm 1960 - 1981
Hiến pháp 1959 và tiếp đến là Luật Tổ chức TAND năm 1960 đã bắt
đầu ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp. Điều 9 Luật Tổ chức TAND
năm 1960 qui định:
Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử.
Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Tòa
án nhân dân xử sơ thẩm lên Tòa án nhân dân trên một cấp.
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền
kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân.
Nếu đương sự không chống án hoặc Viện kiểm sát nhân dân
không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án
hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương sẽ có
hiệu lực pháp luật.
Bản án và quyết định phúc thẩm của các Tòa án nhân dân,
bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là
chung thẩm và có hiệu lực pháp luật [14].
Như vậy cũng như thời kỳ trước, các bản án, quyết định sơ thẩm sau
khi tuyên án thì chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo,
kháng nghị trong một thời hạn nhất định do luật định. Việc xét xử lại thuộc
thẩm quyền của các Tòa án cấp trên một cấp và được gọi là cấp phúc thẩm
(thời kỳ trước gọi là chung thẩm). Thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
về cơ bản cũng không khác.
Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
- Điều 16 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp huyện
xử "sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật qui định thuộc thẩm
quyền của các Tòa án đó".



24
- Điều 18 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp tỉnh có
thẩm quyền "sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp dưới mà Tòa án đó lấy lên để xử".
Về thẩm quyền phúc thẩm chỉ thuộc về TAND cấp tỉnh và TANDTC.
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa
án cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị (Điều 18). TANDTC có thẩm
quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị chống án
hoặc bị kháng nghị.
Trong giai đoạn này thủ tục giám đốc thẩm mới được qui định. Theo
Điều 10 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 thì: "Đối với những bản án và quyết
định của các Tòa án nhân dân địa phương đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có sai lầm thì Tòa án nhân dân tối cao có quyền xét lại hoặc giao cho Tòa
án nhân dân cấp dưới xét lại" [14].
Về cấp xét xử một lần, giai đoạn này có một vài thay đổi:
- Tòa án có thẩm quyền là TANDTC (Điều 21 Luật Tổ chức TAND
năm 1960).
- Bản án, quyết định sơ thẩm của TANDTC đều là chung thẩm và có
hiệu lực pháp luật (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960). Vì vậy, thủ tục xét
xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm chứ
không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước.
Tóm lại, trong thời kỳ này hệ thống xét xử của TAND cơ bản giống
như những quy định trong thời kỳ trước. Đó là việc thực hành chế độ hai cấp
xét xử: Cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm trong đó việc sơ thẩm nếu do TANDTC
tiến hành thì bản án sẽ là chung thẩm tức là không bị phúc thẩm. Bên cạnh đó
còn xuất hiện một thủ tục xét xử mới và đây được coi là một thủ tục xét xử
đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm.
* Giai đoạn từ năm 1981 - 1988
Giai đoạn này bắt đầu bằng Luật Tổ chức TAND năm 1981, sau khi
có Hiến pháp năm 1980. Việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp. Tuy

×