Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 111 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ THU HIỀN




MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã ngành : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TSKH. PGS. Lê Văn Cảm




HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC



Trang







Phần mở đầu
1

Chương 1: vài nét chủ yếu về trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự
8
1.1.
Về trách nhiệm hình sự
8
1.1.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự
8
1.1.2.
Cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
13

1.1.3.
Phân biệt trách nhiệm hình sự với các dạng trách nhiệm pháp
lý khác
19
1.2.
Về miễn trách nhiệm hình sự
21
1.2.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình
sự
21
1.2.2.
Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với một số khái niệm có
liên quan
27
1.3.
Phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa hai chế định trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
34

Chương 2: ý nghĩa, đặc điểm, nội dung cơ bản của mối liên hệ
giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
37
2.1.
ý nghĩa của việc nghiên cứu mối liên hệ giữa trách nhiệm hình
sự và miễn trách nhiệm hình sự
37
2.2.
Đặc điểm của mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn
trách nhiệm hình sự

39


2.3.
Nội dung cơ bản của mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và
miễn trách nhiệm hình sự
47
2.3.1.
Về cơ sở pháp lý và những điều kiện áp dụng trách nhiệm
hình sự và miễn trách nhiệm hình sự
48
2.3.2.
Về đối tượng áp dụng trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự
53
2.3.3.
Về hậu quả pháp lý của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và
miễn trách nhiệm hình sự
57
2.3.4.
Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng trách nhiệm hình sự và
miễn trách nhiệm hình sự
62
2.3.5.
Về trình tự, thủ tục áp dụng trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự
66
2.3.6.
Về mối quan hệ của trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm
hình sự với các chế định khác

68

Chương 3: Một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định
trách nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự
71
3.1.
Thực tiễn áp dụng, sự cần thiết phải hoàn thiện chế định trách
nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự
71
3.2.
Hoàn thiện chế định trách nhiệm hình sự
83
3.3.
Hoàn thiện chế định miễn trách nhiệm hình sự
88

Kết luận
94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98



- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay, để công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm đạt hiệu
quả cao thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam là
một trong những yêu cầu cần thiết và cấp bách. Khi nghiên cứu các quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam đặc biệt là hai chế định trách nhiệm hình sự
và miễn trách nhiệm hình sự chúng tôi nhận thấy, hai chế định này không chỉ
có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam mà còn chi phối hầu
hết các chế định khác được quy định trong Bộ luật hình sự.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về chế
định trách nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên,
trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khi đề cập đến hai chế định này vẫn
còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, hàng loạt vấn đề chưa được làm sáng
tỏ như: khái niệm trách nhiệm hình sự, cơ sở và những điều kiện áp dụng
trách nhiệm hình sự, khái niệm, bản chất pháp lý và các hậu quả cụ thể của
miễn trách nhiệm hình sự, việc quy định các trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự chưa rõ ràng và thống nhất Đặc biệt, các công trình này mới chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu từng chế định trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự, khái quát về mối liên hệ giữa chúng mà chưa đi sâu vào khai
thác nội dung của mối liên hệ này.
Mặt khác, thực tiễn áp dụng hai chế định này cũng đã đặt ra nhiều
vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như cơ
sở, điều kiện của trách nhiệm hình sự, căn cứ áp dụng miễn trách nhiệm hình
sự, ranh giới khi nào một người lẽ ra phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng
lại được miễn trách nhiệm hình sự là rất mong manh, văn bản giải thích

- 2 -
hướng dẫn áp dụng thiếu hệ thống, chồng chéo nhau, chưa có sự vận dụng
thống nhất từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống mối liên hệ giữa trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời đánh giá việc áp dụng
hai chế định này trong thực tiễn để đưa ra những kiến giải lập pháp nhằm

hoàn thiện chúng trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận -
thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây
cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Mối liên
hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự" làm luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự là hai chế định quan
trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, chúng có mối liên hệ mật thiết, hữu cơ
và thống nhất với nhau. Vì vậy, nghiên cứu hai chế định này ở các mức độ khác
nhau đã được một số nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu.
Ở Liên Xô trước đây đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
vấn đề trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, điển hình là các công
trình: "Trách nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm" (1974) của Karpusin M.
P., Kurlianđxki V. I; "Trách nhiệm hình sự và hình phạt" (1976) của Bagri-
Sakhmatôv L. V; "Miễn trách nhiệm hình sự" trong tuyển tập "Nghiên cứu
pháp luật" của tác giả Kevin (2003); "Chương 16 - Miễn trách nhiệm hình sự"
của Xaveliôva B.X (trong sách: Luật hình sự Liên bang Nga - Phần chung, Nxb
Luật gia Matxcơva, 2001); v.v Theo đó, những công trình này chủ yếu tập
trung làm sáng tỏ nội dung, cơ sở của trách nhiệm hình sự; điều kiện miễn

- 3 -
trách nhiệm hình sự và phân tích các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cụ
thể trong pháp luật hình sự thực định.
Ở nước ta, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội
dung liên quan đến chế định trách nhiệm hình sự, chế định miễn trách nhiệm
hình sự. Đáng chú ý là những công trình sau: Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự của TSKH. PGS. Lê Cảm (trong sách chuyên khảo sau
đại học - Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Trách nhiệm
hình sự của PGS.TS Trần Văn Độ (trong sách Giáo trình luật hình sự Việt

Nam Phần chung, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001); Trách nhiệm hình sự và hình phạt của tập thể tác giả do
PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001;
Trách nhiệm hình sự và hình phạt của TS. Trương Quang Vinh (trong sách
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2000); Chế định trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học của Phạm Mạnh Hùng, Trường đại
học Luật Hà Nội, 2004; Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy
định tại Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Toà án nhân dân, số
1/2001); Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25) trong
Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2001); Chế
định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Khoa
học, số 4/1997) của TS. Nguyễn Ngọc Chí; Trách nhiệm hình sự và miễn
trách nhiệm hình sự (Tạp chí Luật học, số 5/1997) của PGS.TS. Lê Thị Sơn;
Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2001) của PGS.TS. Phạm Hồng Hải; Điều
48 - Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Trong sách: Mô hình lý luận
về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung);

- 4 -
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra bàn luận và giải
quyết nhiều vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đặt ra. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu từng
chế định trách nhiệm hình sự, chế định miễn trách nhiệm hình sự một cách
riêng lẻ, có một số công trình đề cập đến mối liên hệ giữa hai chế định này
nhưng chỉ được xem xét mối liên hệ giữa hai chế định này như khối kiến
thức cơ bản một phần, một mục trong các giáo trình giảng dạy, một chương
của sách chuyên khảo hay một phần của luận văn, luận án mà chưa có công
trình nào đề cập đến việc nghiên cứu với đúng tên gọi "Mối liên hệ giữa trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự" một cách có hệ thống, toàn diện,

đồng bộ và chuyên khảo ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích, đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trước yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình
hình mới, mục đích của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự. Đặc biệt chú trọng khai
thác mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, đưa
ra những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về mối liên hệ này. Qua đó góp phần tạo ra sự nhận thức đúng
đắn, toàn diện khi áp dụng lý luận trên để giải quyết các vụ án hình sự trong
thực tiễn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối liên hệ giữa trách nhiệm
hình sự và miễn trách nhiệm hình sự cụ thể là: khái niệm và các đặc điểm cơ
bản của trách nhiệm hình sự, cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình
sự, phân biệt trách nhiệm hình sự với các dạng trách nhiệm pháp lý khác; khái

- 5 -
niệm và các đặc điểm cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự trong tương quan
với những chế định khác, ý nghĩa, đặc điểm, nội dung cơ bản của mối quan hệ
giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, qua đó đưa ra một số
kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện hai chế định này.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề về chế định trách
nhiệm hình sự, chế định miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời so sánh hai chế
định này với nhau và với một số chế định khác trong pháp luật hình sự Việt
Nam, luận văn đi sâu vào khai thác ý nghĩa, đặc điểm, nội dung cơ bản của
mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự.

Về mặt thực tiễn: nghiên cứu, đánh giá việc vận dụng lý luận về trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, đánh giá mối liên hệ giữa chúng
trong thực tiễn xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời, trên cơ sở
những vướng mắc thiếu sót mà thực tiễn đặt ra để phân tích về mặt lý luận và
đưa ra những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện hai chế định này. Qua đó, có
thể hiểu được một cách sâu sắc về mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và
miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời nâng cao hiệu quả của việc vận dụng lý
luận trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự là hai chế định tương
đối phức tạp và có nhiều nội dung liên quan đến các chế định khác trong Bộ
luật hình sự như: hình phạt, miễn hình phạt, các trường hợp loại trừ trách
nhiệm hình sự, Bởi vậy, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng
tôi chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, đặc biệt đi sâu vào nghiên cứu mối liên hệ giữa

- 6 -
trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự cũng như việc đưa ra những
kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện hai chế định này.
4 Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,
cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lý luận về
Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật
tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự Việt Nam.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân tích
tài liệu, nghiên cứu lịch sử, tổng hợp, Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn

dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất
có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn liên quan đến trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo
của ngành Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hơn 300 bản án
hình sự, hơn 100 quyết định giám đốc thẩm và hàng trăm tài liệu vụ án hình
sự trong thực tiễn xét xử, cũng như những thông tin trên mạng internet để
phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn
đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn
Về mặt lý luận: đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu
tiên đề cập một cách sâu sắc về mối liên hệ giữa hai chế định trách nhiệm
hình sự và miễn trách nhiệm hình sự ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học.

- 7 -
Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần vào việc xác định đúng đắn ranh
giới khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự với những căn cứ, điều
kiện để một người thực hiện hành vi phạm tội được (có thể) được miễn trách
nhiệm hình sự trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến
hành tố tụng, đồng thời đưa ra các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế
định trách nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự ở khía cạnh
lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn
còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu
khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự.
Điểm mới về khoa học của luận văn: ở một chừng mực nhất định có thể
khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ
một Luận văn thạc sĩ đề cập sâu sắc đến mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự
và miễn trách nhiệm hình sự. Đồng thời tác giả luận văn còn chỉ ra những

vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng hai chế định này, trên cơ sở đó đưa
ra một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định trách nhiệm hình sự và
chế định miễn trách nhiệm hình sự
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn bao gồm ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Vài nét chủ yếu về trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm
hình sự;
Chương 2: Ý nghĩa, đặc điểm, nội dung cơ bản của mối liên hệ giữa trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự.

- 8 -
Chương 3: Một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định trách
nhiệm hình sự và chế định miễn trách nhiệm hình sự.

- 9 -
Chương 1
VÀI NÉT CHỦ YẾU VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
VÀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

1.1. Về trách nhiệm hình sự
Một trong những đòi hỏi của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong pháp luật hình sự là phải xác định rõ giữa những hành vi bị coi là tội
phạm (bị xử lý bằng chế tài pháp luật hình sự) và những hành vi không phải
là tội phạm (bị xử lý bằng các chế tài pháp lý khác). Đây là một trong những
cơ sở quan trọng để bảo đảm việc xử lý các hành vi vi phạm theo đúng quy
định của pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, đồng thời khuyến khích động viên mọi người tích cực
tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Chế định trách nhiệm hình sự là
một chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, là “sợi chỉ đỏ” xuyên

suốt quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi
phạm tội, là nền tảng, là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) xác định một chủ thể có phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không?
1.1.1. Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự
Trước hết, để hiểu trách nhiệm hình sự là gì thì cần phải hiểu khái
niệm "trách nhiệm". Thật vậy, thuật ngữ „trách nhiệm” thường được hiểu theo
hai nghĩa. Một là, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một người trước
người khác, trước xã hội hoặc trước Nhà nước. Hai là, trách nhiệm là hậu quả
bất lợi mà một người phải gánh chịu trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà
nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó.

- 10 -
Trách nhiệm pháp lý, trong đó có trách nhiệm hình sự, được dùng theo
nghĩa thứ hai. Trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng
của luật hình sự Việt Nam bên cạnh ba chế định khác (đạo luật hình sự, tội
phạm và hình phạt). Quan điểm và nhận thức về khái niệm trách nhiệm hình
sự là cơ sở lý luận cho việc xây dựng các khái niệm khác của luật hình sự.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm về khái niệm trách
nhiệm hình sự, được phân chia theo từng nhóm như sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất: nêu khái niệm trách nhiệm hình sự dưới góc
độ hậu quả pháp lý: "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một
hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định” [6,
tr. 122]; “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện
ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước
Nhà nước” [41, tr. 41].
Nhóm quan điểm thứ hai: nhìn nhận trách nhiệm hình sự với tư cách
là một dạng của trách nhiệm pháp lý: “Trách nhiệm hình sự là một dạng
trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam bằng một
hậu quả bất lợi do Toà án áp dụng tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi mà người đó thực hiện” [29, tr. 14]; “Trách nhiệm hình sự
là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động
của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu
mang án tích” [21, tr. 126].
Như vây, từ sự tìm hiểu các quan điểm khác nhau về trách nhiệm hình
sự kết hợp với việc nhận thức một số vấn đề có liên quan đến trách nhiệm
hình sự, theo chúng tôi, khái niệm trách nhiệm hình sự có thể được định nghĩa

- 11 -
như sau: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự và được thể hiện
bằng việc áp dụng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy
định đối với người phạm tội. Qua khái niệm này có thể nhận thấy: trách nhiệm
hình sự chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội và chấm dứt khi người bị kết án
đã được xoá án tích theo các căn cứ quy định của pháp luật hình sự; đồng thời,
trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật
hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất
định – một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở
khái niệm trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng có thể nhận thấy trách
nhiệm hình sự có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm
khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Bởi vì trong số
các vi phạm pháp luật như vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật
đất đai, vi phạm pháp luật dân sự,… thì vi phạm pháp luật hình sự là loại vi
phạm nghiêm trọng nhất và nó chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Mức độ
nghiêm khắc của trách nhiệm hình sự xuất phát từ vai trò quan trọng của các

quan hệ pháp luật hình sự. Tính nghiêm khắc của trách nhiệm hình sự được
thể hiện ở chính hình phạt. Theo TSKH. PGS. Lê Cảm thì “Hình phạt là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án để tước đi hay hạn chế quyền tự
do của người bị kết án theo quy định của pháp luật hình sự” [9, tr. 47]. Hình
phạt có thể tước đi một số quyền và lợi ích của con người như quyền sống
(nếu hình phạt được áp dụng là tử hình), quyền tự do (nếu hình phạt được áp
dụng là hình phạt tù), quyền sở hữu, quyền chính trị.

- 12 -
Hai là, trách nhiệm hình sự được thực hiện trong phạm vi của quan hệ
pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và
nghĩa vụ nhất định: một bên là Nhà nước còn bên kia là người phạm tội.
Trách nhiệm hình sự chính là trách nhiệm của người phạm tội đối với Nhà
nước. Bản thân khái niệm trách nhiệm hình sự đã phản ánh mối liên hệ đặc
biệt giữa Nhà
nước và người phạm tội. Trong mối liên hệ này, mỗi bên đều có những quyền và
nghĩa vụ nhất định. Nhà nước (mà đại diện cho nó là cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền) có quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đồng
thời cũng có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền của mình trong giới hạn do pháp
luật quy định, mặt khác còn phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của
người phạm tội. Ví dụ, một người phạm tội nhưng chưa bị Toà án kết tội bằng
bản án có hiệu lực pháp luật thì người đó chưa bị coi là có tội và chưa phải chịu
hình phạt. Do vậy, các cơ quan tư pháp hình sự trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ không được xâm phạm các quyền lợi ích hợp pháp khác của người đã thực
hiện hành vi phạm tội đó. Người phạm tội là một bên chủ thể của quan hệ pháp
luật hình sự. Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn chế một
số quyền tự do nhất định nhưng đồng thời cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ từ
phía Nhà nước tất cả các quyền và lợi ích của con người và của công dân theo
quy định của pháp luật. Ví dụ quyền được mời luật sư bào chữa cho mình, quyền

được trình bày ý kiến, quyền tranh luận tại phiên toà, quyền đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, quyền kháng cáo, quyền khiếu nại đối với các bản án
của Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Ba là, trách nhiệm hình sự được xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền do luật hình sự quy định. Để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội phải trải qua một quá trình đặc

- 13 -
biệt được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền cụ thể bao
gồm các giai đoạn sau:
1) Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: bắt đầu từ việc cơ quan có thẩm quyền
nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố
hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn này các cơ quan
có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ
sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án.
2) Giai đoạn điều tra, truy tố: theo quy định tại Điều 63 Bộ luật tố tụng
hình sự, Cơ quan điều tra được tiến hành điều tra tất cả các loại tội phạm, áp
dụng mọi biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh sự việc
phạm tội và người thực hiện tội phạm, lập hồ sơ đề nghị truy tố, xác định
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng biện pháp khắc phục và phòng ngừa. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án
cùng bản kết luận điều tra nếu thấy có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm và
hành vi phạm tội của bị can thì Viện kiểm sát truy tố bị can trước toà án bằng
bản cáo trạng và quyết định truy tố.
3) Giai đoạn xét xử: Toà án sau khi nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy đúng tội
danh như cáo trạng thì quyết định đưa vụ án ra xét xử nhằm xác định có hay
không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay không để
từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện kiểm
sát truy tố.

Bốn là, trách nhiệm hình sự chỉ mang tính chất cá nhân, áp dụng riêng
đối với người phạm tội: tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự”. Có nghĩa là trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với
riêng bản thân người phạm tội (điều này thể hiện rõ nguyên tắc trách nhiệm

- 14 -
hình sự cá nhân). Cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của
Bộ luật hình sự phải là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất
định do luật hình sự quy định.
Năm là, trách nhiệm hình sự chỉ được thể hiện trong bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật bằng việc áp dụng đối với người phạm tội
một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định:
Chỉ có bản án kết tội của Toà án mới xác định một người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội có phải là có tội hay không sau khi tội phạm mà họ thực
hiện được chứng minh. Nếu không có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực
hiện pháp luật thì không thể nói đến trách nhiệm hình sự đối với một người.
Điều 72 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định nguyên tắc quan trọng nhằm bảo
vệ các quyền của con người trong hoạt động tư pháp hình sự – nguyên tắc suy
đoán vô tội: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, bản án kết tội của
Toà án có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý xác nhận một người phạm tội
chính thức bị coi là có tội. Trách nhiệm hình sự cũng chỉ được thể hiện trong
bản án kết tội của Toà án bằng việc áp dụng một hay nhiều biện pháp cưỡng
chế nào đó đối với người phạm tội. Các biện pháp cưỡng chế hình sự mà Toà
án áp dụng có thể là hình phạt, có thể là các biện pháp tư pháp, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
1.1.2. Cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý của một người thực hiện

tội phạm mà phải chịu sự tác động của biện pháp cưỡng chế đặc biệt của
Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định. Muốn truy cứu trách nhiệm hình sự
một người thực hiện tội phạm phải dựa trên những cơ sở và những điều
kiện nhất định.

- 15 -
Khái niệm “cơ sở” và “điều kiện” của trách nhiệm hình sự là hai khái
niệm khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ “cơ sở” là cái nền tảng, trong quan hệ
với những cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển [38, tr.
215]. Còn “điều kiện” là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một
việc gì đó hoặc đó là cái cần có thể để cho một cái khác có thể có hoặc xảy ra
[38, tr. 321-322].
Cơ sở của trách nhiệm hình sự được coi là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá
trình truy cứu trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội, là
nền tảng, là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án) xác định một chủ thể có phải chịu trách nhiệm hình sự hay
không? Giải quyết tốt vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự không chỉ có ý
nghĩa quan trọng về pháp lý, về chính trị – xã hội mà còn là một trong những
tiền đề quan trọng để đảm bảo các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có quan điểm
thống nhất về cơ sở của trách nhiệm hình sự:
Có quan điểm cho rằng cơ sở của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội
phạm: “cấu thành tội phạm là cơ sở của trách nhiệm hình sự và đó là cơ sở
duy nhất cần và đủ của trách nhiệm hình sự” [43, tr. 5-6]. Có quan điểm cho
rằng “cơ sở của trách nhiệm hình sự là tội phạm - hành vi nguy hiểm cho xã
hội chứa đựng các yếu tố cấu thành tội phạm” [17, tr. 182]; quan điểm khác
cho rằng “cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [6, tr. 133].
Các quan điểm này, theo tôi mới chỉ khái quát được các dấu hiệu để
nhận biết khi nào một người bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chưa nêu lên

được bản chất, vấn đề cốt lõi của nội hàm “cơ sở của trách nhiệm hình sự”.
Qua nghiên cứu các quan điểm trên, đồng thời căn cứ vào các quy định của

- 16 -
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, theo chúng tôi cơ sở của trách nhiệm
hình sự có thể được định nghĩa là: cơ sở của trách nhiệm hình sự là căn cứ
chung, có tính chất bắt buộc và do luật hình sự quy định, trên cơ sở đó các cơ
quan tiến hành tố tụng xác định trách nhiệm hình sự một người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm cơ sở của trách nhiệm hình sự, có thể rút
ra một số đặc điểm của cơ sở của trách nhiệm hình sự như sau:
Một là, cơ sở của trách nhiệm hình sự là căn cứ chung, cần thiết và có
tính chất bắt buộc mà dựa vào đó các cơ quan pháp luật hình sự có thẩm
quyền của Nhà nước mới có thể truy cứu trách nhiệm hình sự một người thực
hiện hành vi phạm tội.
Hai là, cơ sở của trách nhiệm hình sự phải được quy định rõ ràng trong
pháp luật hình sự thực định của một quốc gia. Điều 2 Bộ luật hình sự năm
1999 khẳng định: “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy
định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo luật hình sự Việt Nam, quy
định này bao hàm hai nội dung:
1) Chủ thể của hành vi phạm tội chỉ có thể là con người cụ thể chứ
không phải bất cứ tập thể hay cộng đồng nào. Trách nhiệm hình sự chỉ có thể
là trách nhiệm cá nhân. Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội.
2) Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng đối với người phạm
tội. Nghĩa là, một người chỉ có thể phải chịu trách nhiệm đối với hành vi
phạm tội của mình và hành vi này phải được quy định trong Bộ luật hình sự.
Điều luật đã ghi nhận một nguyên tắc được thừa nhận chung từ thời La Mã cổ
đại, đó là: “Nullum crimen nulla poen sine lege” (không có tội phạm, không
có hình phạt nếu không có luật quy định). Một người chỉ phải chịu trách


- 17 -
nhiệm hình sự về hành vi do mình thực hiện khi hành vi đó được quy định
trong Bộ luật hình sự là tội phạm. Một hành vi chỉ bị coi là nguy hiểm cho xã
hội khi nó không phù hợp, đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Còn những hành vi phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội ngay cả khi
chúng gây ra những thiệt hại nhất định nào đó, về khách quan, các quan hệ
pháp luật mà luật hình sự bảo vệ thì cũng không phải là hành vi nguy hiểm
cho xã hội (theo quan điểm của giai cấp thống trị). Chẳng hạn, những hành vi
được thực hiện trong trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết chỉ
có thể nói đến tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi hành vi đó là có
lỗi, nghĩa là được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà lỗi chủ yếu là yếu tố
thuộc phương diện chủ quan của tội phạm. Do đó, không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bất cứ hành vi nào, nếu không xác định được yếu tố có
lỗi.
Theo luật hình sự Việt Nam, trách nhiệm hình sự tồn tại trong giới hạn
của mối quan hệ giữa một bên là Toà án nhân danh Nhà nước và một bên là
người phạm tội. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tức là họ bị kết
tội và có thể phải chịu hình phạt nhất định. Thời điểm bắt đầu thực hiện trách
nhiệm hình sự là từ khi Toà án tuyên một bản án có hiệu lực pháp luật mà
trong đó khẳng định lỗi của người phạm tội và kết thúc khi người bị kết án
được xoá án tích theo quy định của luật hình sự.
Căn cứ pháp lý để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự được
quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999: “chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy
định này thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đó là: tội phạm phải
được quy định trong Bộ luật hình sự và trách nhiệm hình sự cũng chỉ có thể
áp dụng đối với người phạm tội đã được Bộ luật hình sự quy định. Ngoài Bộ
luật hình sự không có văn bản pháp luật nào khác quy định về tội phạm.


- 18 -
Việc quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm một tội
được quy định trong Bộ luật hình sự là nhằm loại trừ việc áp dụng nguyên tắc
tương tự khi truy cứu trách nhiệm hình sự, thể hiện quan điểm tiến bộ đó là
“chỉ có tội khi có luật quy định”. Nguyên tắc này còn phù hợp với Điều 11
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người: “Không ai bị kết tội về bất cứ
hành động hay không hành động nào xảy ra vào thời điểm mà theo pháp luật
quốc gia hay pháp luật quốc tế không cấu thành một tội hình sự”.
Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, việc áp dụng
nguyên tắc tương tự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình đấu tranh phòng
chống tội phạm lúc bấy giờ. Khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985 cũng có
ý kiến cho rằng chưa nên bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng cuối cùng Bộ luật hình sự năm 1985 được
thông qua và quy định “chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy
định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2).
Trong thực tiễn xét xử hơn 15 năm qua cho thấy ngoài Bộ luật hình sự
năm 1985, Quốc hội nước ta không ban hành văn bản pháp luật nào quy định
về tội phạm và hình phạt mà khẳng định chỉ người nào phạm một tội được
quy định trong Bộ luật hình sự mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định
này thể hiện nguyên tắc tương tự. Nếu như Bộ luật hình sự năm 1985 quy
định “chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định” bao gồm cả
những văn bản luật hình sự không phải là Bộ luật hình sự như nghị định,
thông tư… thì kể từ năm 1985 đến nay ngoài Bộ luật hình sự ra Quốc hội
cũng không ban hành văn bản pháp luật hình sự nào có quy định về tội phạm
và hình phạt.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định”, ngoài Bộ luật

- 19 -

hình sự không thể có văn bản pháp luật nào quy định về tội phạm và hình
phạt, giả thiết nếu có văn bản pháp luật hình sự nào đó quy định về tội phạm
và hình phạt thì người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong văn
bản đó mà không được quy định trong Bộ luật hình sự thì họ cũng không phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Nhận thấy, cách quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự về cơ sở của trách
nhiệm hình sự còn thể hiện những hạn chế nhất định. Mặc dù tên gọi của Điều
2 là “cơ sở của trách nhiệm hình sự” nhưng ta thấy rõ ràng điều luật này lại
không thể hiện đúng cụ thể và rõ ràng nội dung cho phù hợp với tên gọi của
điều luật này. Cơ sở của trách nhiệm hình sự là cái gì? “lỗi”, “cấu thành tội
phạm” hay là “việc thực hiện tội phạm” mà điều luật lại ghi nhận điều kiện
của trách nhiệm hình sự “chỉ người nào mới phải chịu”. Như vậy, có sự lẫn
lộn giữa hai khái niệm “cơ sở” và “điều kiện” của trách nhiệm hình sự tại
đoạn 1 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy sự thiếu chính xác về mặt
khoa học [5, tr. 70-71].
Chính vì vậy, cần có sự hoàn thiện các quy định về chế định trách
nhiệm hình sự nói chung và cơ sở của trách nhiệm hình sự nói riêng để đảm
bảo tính chính xác về mặt khoa học, giúp cho việc áp dụng pháp luật hình sự
được đúng đắn và thống nhất. Việc xây dựng một điều luật quy định chính
xác nội dung cơ sở của trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng vì chỉ có
và phải dựa vào đó các cơ quan bảo vệ pháp luật mới đặt ra vấn đề trách
nhiệm hình sự của người thực hiện tội phạm. Hơn nữa, quy định này còn có
tác dụng tích cực góp phần bảo vệ nhân thân, các quyền tự do của công dân
tránh khỏi những hành động xâm phạm thô bạo pháp chế, tuỳ tiện và vô pháp
luật của một số cán bộ trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự.
Để truy cứu trách nhiệm hình sự một người thực hiện hành vi phạm tội
mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm không những phải căn cứ vào cơ sở

- 20 -
của trách nhiệm hình sự mà còn phải đáp ứng những điều kiện nhất định.

Thuật ngữ “điều kiện” được hiểu là cái (căn cứ) cần và đủ cho một sự kiện
nào đó khi ta mong muốn chúng xảy ra. Trong Bộ luật hình sự năm 1999
chưa quy định “điều kiện của trách nhiệm hình sự” thành một điều luật riêng
biệt. Tuy nhiên, trên cơ sở quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự ta có
thể nhận thấy: điều kiện của trách nhiệm hình sự là các căn cứ cần và đủ có
thể áp dụng trách nhiệm hình sự đối với một người phạm tội. Điều kiện của
trách nhiệm hình sự bao gồm:
1) Có việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội;
2) Có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội;
3) Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện;
4) Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
5) Hành vi đó được quy định trong Bộ luật hình sự.
Năm điều kiện trên là cần và đủ để một người phải chịu trách nhiệm
hình sự. Nếu thiếu dù chỉ là một trong số các điều kiện ấy thì nhất thiết người
đó không phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.1.3. Phân biệt trách nhiệm hình sự với các dạng trách nhiệm pháp lý khác
Để nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện và thống nhất về trách nhiệm hình
sự thì cần thiết phải có sự phân biệt với các dạng trách nhiệm pháp lý khác.
1) Giữa trách nhiệm hình sự và các dạng trách nhiệm pháp lý khác có
nhiều điểm giống nhau đó là:
a) Trách nhiệm hình sự và các dạng trách nhiệm pháp lý khác đều là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi vi phạm một hoặc nhiều quy định
của ngành luật tương ứng. Hành vi vi phạm pháp luật có thể là hành vi phạm
tội, vi phạm dân sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật Trong mỗi hành

- 21 -
vi vi phạm này thì mức độ gây nguy hiểm cho các quan hệ xã hội khác nhau,
vì vậy hậu quả pháp lý mà các chủ thể phải gánh chịu khác nhau.
b) Trách nhiệm hình sự và các dạng trách nhiệm pháp lý khác đều được
xác định theo một trình tự nhất định do ngành luật tương ứng quy định và

được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
c) Cũng như trách nhiệm hình sự, các dạng trách nhiệm pháp lý khác
chỉ do Nhà nước mà đại diện là cơ quan (người có chức vụ) tương ứng có thẩm
quyền áp dụng đối với người bị coi là có lỗi và có năng lực chịu trách nhiệm
pháp lý (bao gồm cả độ tuổi) được quy định trong ngành luật tương ứng.
d) Trách nhiệm hình sự và các dạng trách nhiệm pháp lý khác có mức
độ nặng nhẹ khác nhau tương ứng với tính chất và mức độ vi phạm, cũng như
các tình tiết cụ thể của vụ việc và nhân thân người vi phạm.
2) Trách nhiệm hình sự và các dạng trách nhiệm pháp lý khác có rất
nhiều điểm khác nhau, cụ thể:
a) Về cơ sở phát sinh: nếu như trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi
có việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định
là tội phạm thì các dạng trách nhiệm pháp lý khác phát sinh chỉ khi nào có
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm đến một hoặc nhiều
quy định của ngành luật tương ứng như Luật hành chính, Luật dân sự, Luật
lao động
b) Về hậu quả pháp lý của việc áp dụng: trong trách nhiệm hình sự, chủ
thể của hành vi vi phạm bị xử lý bằng chế tài pháp lý hình sự khác nhau có
thể là hình phạt (tước hoặc hạn chế) quyền tự do đối với người phạm tội, có
thể là biện pháp áp dụng cưỡng chế hình sự khác như biện pháp tư pháp, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Không những vậy, chủ thể vi phạm pháp
luật hình sự còn phải mang án tích trong một thời gian nhất định (nếu chế tài

- 22 -
bị áp dụng là hình phạt). Còn ở các dạng trách nhiệm pháp lý khác chủ thể
của hành vi vi phạm được quy định tương ứng với từng ngành luật như: Luật
dân sự thì có chế tài bồi thường thiệt hại; Luật hành chính có chế tài kỷ luật
hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc, Đồng thời, chủ thể của hành vi vi
phạm các dạng trách nhiệm pháp lý khác còn bị hạn chế một số quyền nhất
định. Ví dụ hiệu lực của chế tài xử phạt hành chính thường là sau một năm

mới hết.
c) Về mức độ nghiêm khắc: trách nhiệm hình sự thể hiện tính nghiêm
khắc cao hơn so với các dạng trách nhiệm pháp lý khác vì tính nguy hiểm cho
xã hội do người phạm tội thực hiện bao giờ cũng cao hơn cả. Mức độ nghiêm
khắc của trách nhiệm hình sự xuất phát từ vai trò của quan hệ xã hội mà luật
hình sự bảo vệ: chỉ một người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy
định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tính nghiêm khắc cao của trách
nhiệm hình sự được thể hiện chính ở hình phạt. hình phạt có thể tước đi
những quyền và lợi ích thiết thân của con người như quyền sống (tử hình),
quyền tự do (tù)
Đối với các dạng trách nhiệm pháp lý khác, thông thường mức độ
nghiêm khắc ít hơn trách nhiệm hình sự vì tính nguy hiểm cho xã hội của vi
phạm pháp luật bao giờ cũng nhỏ hơn so với tội phạm. Ví dụ, đối với vi phạm
hành chính là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, mức độ nguy hiểm cho xã
hội ít hơn so với tội phạm, xâm phạm các quan hệ xã hội do có các văn bản
pháp luật về quản lý Nhà nước quy định và các cơ quan quản lý Nhà nước áp
dụng đối với chủ thể này. Do vậy, chế tài trách nhiệm hành chính ít nghiêm
khắc hơn so với chế tài hình sự.
d) Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: ở trách nhiệm hình sự chỉ có
Nhà nước mà đại diện là cơ quan tư pháp hình sự tương ứng có thẩm quyền
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án) căn cứ vào giai đoạn tố tụng

×