ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CÁC TỘI THAM NHŨNG THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ
THAM NHŨNG 10
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM VỀ
THAM NHŨNG 10
1.1.1. Khái niệm tội phạm về tham nhũng 10
1.1.2. Các đặc điểm của các tội phạm về tham nhũng 17
1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỘI PHẠM
VỀ THAM NHŨNG 21
1.2.1. Tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam thời
kỳ phong kiến 23
1.2.2. Tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam giai
đoạn từ 1945 đến 1985 26
1.2.3. Tội phạm về tham nhũng theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 28
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHỐNG VÀ
PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG 30
1.3.1. Tội phạm về tham nhũng theo quy định của Liên Hợp quốc 30
1.3.2. Tội phạm về tham nhũng theo quy định của một số quốc gia 35
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 42
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI PHẠM
VỀ THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 42
2.1.1. Tội phạm về tham nhũng theo quy định của Bộ Luật Hình sự Việt Nam 42
2.1.2. Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật hình sự về các tội phạm về tham nhũng 56
2.1.3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của Luật phòng, chống
tham nhũng 57
2.2. THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 59
2.2.1. Một số nét chung về thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 59
2.2.2. Thực tiễn xét xử các tội phạm về tham nhũng 66
2.3. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC
TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG 74
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ
THAM NHŨNG 85
3.1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 85
3.1.1. Sự cần thiết và những cơ sở để hoàn thiện Bộ luật hình sự về các
tội phạm về tham nhũng 85
3.1.2. Những kiến nghị cụ thể 89
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC
TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG 95
3.2.1. Tăng cường nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử 95
3.2.2. Nâng cao kỹ năng xét xử cho thẩm phán, hội thẩm nhân dân 98
3.2.3. Tăng cường nguồn nhân lực cho ngành Tòa án 101
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC 104
3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chính trị, tư
tưởng phẩm chất người đảng viên 104
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về
công tác phòng, chống tham nhũng 107
3.3.3. Học tập kinh nghiệm quốc tế và các nước trên thế giới 109
KẾT LUẬN 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc mở cửa
hội nhập kinh tế xã hội là việc làm được các quốc gia quan tâm. Việt Nam là
một nước đang phát triển, chúng ta gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong
quá trình hội nhập và một trong những thách thức ấy là các tội phạm về tham
nhũng ngày càng gia tăng.
Tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang tính lịch sử.
Sự hình thành, phát triển của tội phạm về tham nhũng gắn liền với sự hình
thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tội phạm về
tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị, điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm nay,
Đảng và Nhà nước ta đã nhận định tội phạm về tham nhũng là một loại tội
phạm nguy hiểm cao độ, trở thành một trong những nguy cơ làm cản trở sự
nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn
trọng nhân dân tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết
đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng[36].
Bên cạnh Hiến pháp, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
khác nhau, tạo nên một hệ thống các văn bản pháp luật tương đối đầy đủ,
đồng bộ nhằm điều chỉnh toàn diện các vấn đề về phòng, chống tham nhũng
như Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự, các Nghị định, Quyết
định, chỉ thị và nhiều văn bản pháp luật khác có liên quan.
Bộ luật Hình sự năm 1985 được ban hành, qua bốn lần pháp điển hóa,
2
Bộ luật Hình năm 1999, và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, những quy định về tội phạm tham
nhũng đã được quy định đầy đủ, rõ ràng hơn, trở thành cơ sở pháp lý quan
trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Bên cạnh những
quy định của Bộ luật Hình sự, để có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh trong việc đấu
tranh phòng chống tham nhũng, ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua
Luật Phòng chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng ra đời khẳng
định sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng ở nước ta.
Tham nhũng hiện nay trở thành hiện tượng phổ biến mang tính toàn
cầu. Tội phạm về tham nhũng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia,
mà còn liên quan tới nhiều quốc gia, nhiều tổ chức trên thế giới. Trước tình
hình đó, hàng loạt các biện pháp được đưa ra, đặc biệt Công ước của Liên hợp
quốc về tham nhũng được thông qua, có hiệu lực từ tháng 12/2005 đã tạo một
khuôn khổ pháp lý quốc tế trong việc chống lại tham nhũng. Ở Việt Nam,
tham nhũng cũng đã gây ra những tác hại to lớn cho đời sống chính trị, kinh tế
và xã hội. Tham nhũng đã trở thành vấn đề được Đảng, Nhà nước và toàn thể
xã hội quan tâm. Điều này được thể hiện trong quyết tâm chính trị của Đảng,
Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đến năm 2020;
là sự thể chế hóa Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 3 khóa X về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí", đồng thời tiếp tục cụ thể hóa Luật phòng, chống
tham nhũng năm 2005. Đảng cũng xác định đấu tranh phòng chống tham
nhũng là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, trước mắt, lâu dài của Đảng và
nhân dân ta, tệ tham nhũng quan liêu đang là một nguy cơ lớn cản trở công
cuộc đổi mới của đất nước. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành
3
Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Đảng ta đã nhận định:
…Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt
yêu cầu và mục tiêu đề ra là ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với
những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều
cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất
đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân
sách; thu thuế , gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối
với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước[11].
Để ngăn chặn và bài trừ “quốc nạn” này, Đảng và nhà nước đã đề ra
nhiều chủ trương chính sách như lập Cục phòng chống tham nhũng thuộc
Chính Phủ theo quyết định 1424 ngày 31/10/2006, thông qua Luật phòng
chống tham nhũng ngày 29/11/2005, có hiệu lực ngày 1/6/2006; ban hành
Nghị quyết số 27/2008/NQ-CP ngày 25/11/2008 về phòng chống tham nhũng
và nhiều nghị quyết, chỉ thị khác.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, tham nhũng mỗi năm gây thiệt
hại cho nền kinh tế thế giới lên tới hàng tỷ USD. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của đời sống kinh tế-xã hội và sự hội nhập kinh tế quốc tế, ở Việt Nam,
thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng như: Vụ án
EPCO-Minh Phụng, vụ Tamexco, vụ PMU18, vụ tham nhũng đất đai ở Đồ
Sơn, Hải Phòng, vụ Nông trường Sông Hậu, vụ tham nhũng Đề án 112, vụ
Vinashin, Vinaline… và rất nhiều những vụ án tham nhũng khác luôn được
dư luận quan tâm và mong chờ các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý nghiêm.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm về tham nhũng ngày càng có
chiều hướng gia tăng, xuất hiện nhiều hình thức phạm tội mới với những thủ
đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi và đa dạng, gây ảnh hưởng nghiêm
4
trọng đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức thì các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tham nhũng đã bộc
lộ những hạn chế nhất định làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Thực tiễn xét xử loại tội phạm này vẫn còn nhiều vướng mắc
cần phải nghiên cứu để tìm ra giải pháp khắc phục.
Hiện nay, khoa học luật hình sự trong nước cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu về các tội tham nhũng nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu
sâu về nhóm tội này dưới góc độ lý luận và thực tiễn công tác xét xử những
vụ án tham nhũng trên phạm vi cả nước trong giai đoạn hiện nay, từ đó chỉ ra
được những hạn chế, vướng mắc của việc áp dụng pháp luật trong quá trình
xét xử, những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu
quả sxets xử các tội phạm về tham nhũng. Trên cơ sở này, tôi quyết định lựa
chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo
pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu, nghiên cứu cho thấy, Ở nước ta, từ trước đến nay có khá
nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về các tội phạm tham nhũng ở
các mức độ trực tiếp và gián tiếp khác nhau như:
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Giáo
trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công An
nhân dân, 2000; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công An nhân dân, 2001; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần
các tội phạm, Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, Lê Cảm chủ biên; Giáo
trình Luật Hình sự Việt Nam, phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, 1997; Sách chuyên khảo: GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; GS.TSKH. Phan Xuân Sơn, TS. Phạm Thế
5
Lực (đồng chủ biên), Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008;
Tìm hiểu các tội phạm về tham nhũng, ma tuý và xâm phạm tình dục đối với
người chưa thành niên, Nguyễn Ngọc Điệp, Đoàn Tấn Minh, Nxb Công an
nhân dân, 1998; Tìm hiểu pháp luật về chống tham nhũng, lợi dụng chức vụ
xâm phạm lợi ích Nhà nước và quyền lợi công dân, Nguyễn Mạnh Hùng, Nxb
Sự Thật, 1992; ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự -
Phần các tội phạm, Tập V - Các tội phạm về chức vụ, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 2006; Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế
giới, sách tham khảo, Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam,
biên soạn Nguyễn Văn Quyền, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005… Những giáo
trình, sách chuyên khảo, bình luận này tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ
bản nhất về mặt lý luận đối với các tội phạm về tham nhũng, trang bị cho
người đọc những kiến thức chung, cơ bản về loại tội phạm này.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề
cập đến tội tham nhũng như: Đề tài về tham nhũng và chống tham nhũng ở
Việt Nam do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí làm Chủ nhiệm, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2001; Một số ý kiến hoàn thiện quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, Nguyễn Đình Bính, Tạp chí Kiểm sát,
VKSNDTC, số 09/2008; ThS. Bùi Thế Tỉnh, Hình sự hóa hành vi tham nhũng
trong lĩnh vực công theo công ước chống tham nhũng của Liên Hợp quốc năm
2003, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01/2012; Các giải pháp nâng cao hiệu
quả phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, Phạm Mạnh Khải, Tạp chí Thanh
tra chính phủ, Số 11/2009; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành kế hoạch
thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Văn
Công, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 18/2009; Một số vấn đề cần sửa
đổi, bổ sung các tội phạm về tham nhũng trong bộ luật hình sự năm 1999,
6
Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, số
8/2008… Đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm về
tham nhũng đã được đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Các công trình này
tiếp cận nhóm tội phạm này từ các góc độ khác nhau như các quy định của Bộ
luật Hình sự Việt Nam về tội phạm về tham nhũng, phân tích các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm đối với từng tội danh tham nhũng và các hình thức trách
nhiệm hình sự được áp dụng đối với các tội danh này và đề ra những giải
pháp phòng, chống tội phạm về tham nhũng…
Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả: Trần
Đăng Vinh, Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay, 2012; Trần Văn Đạt, Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật
hình sự Việt Nam, 2012; Trần Công Phàn, 2004, Tình hình, nguyên nhân và
các biện pháp đấu tranh phòng, chống các tội tham nhũng… Ở cấp độ luận
văn thạc sĩ có các đề tài của các tác giả: Nguyễn Văn Hải, Luật Hình sự Việt
Nam và việc đấu tranh phòng, chống tội tham nhũng trong Quân đội; Hoàng
Anh Tuyên, Phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam; Trương
Quốc Hưng, Quy định về phòng, chống tham nhũng trong Bộ luật Quốc triều
hình luật và bài học rút ra đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng hiện
nay, Hà Nội, 2011; Nguyễn Văn Hải, Các tội phạm về tham nhũng trong Luật
hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2001; Ngọ Duy Hiểu, Đổi mới tư duy pháp lý về
đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay Những luận văn,
luận án này ở những góc độ khác nhau đã nghiên cứu về tội phạm tham nhũng
ở những khía cạnh chung, những vấn đề lý luận, tình hình tham nhũng và
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như việc đổi mới tư duy
trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm tham nhũng nhưng ở dưới
7
dạng các khía cạnh nhỏ, khía cạnh lý luận, có nhiều vấn đề đã nghiên cứu
nhưng nghiên cứu chưa sâu, chưa toàn diện, đầy đủ, chưa nghiên cứu về thực
tiễn tội phạm tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Việc chọn nghiên cứu đề
tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội tham nhũng theo pháp luật
hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính lý luận, vừa có
tính thực tiễn nhằm tìm ra nguyên nhân, đưa ra một số kiến nghị và giải pháp
hoàn thiện pháp luật hình sự, khắc phục những tồn tại, vương mắc trong thực
tiễn xét xử các tội phạm về tham nhũng và đề ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả xét xử loại tội phạm này.
3. Mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về các
tội phạm về tham nhũng dưới khía cạnh lập pháp hình sự, tình hình tham
nhũng hiện nay, kinh nghiệm quốc tế trong đấu tranh chống, phòng ngừa tội
phạm về tham nhũng và việc xét xử các loại tội này trong thực tiễn, từ đó luận
văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về loại tội phạm
này trong luật hình sự Việt Nam, chỉ ra những vướng mắc, tồn tại trên thực tế
khi Toà án các cấp áp dụng quy định của pháp luật về các loại tội phạm này.
Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy
định của pháp luật trong thực tiễn giúp cho công tác đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm về tham nhũng đạt hiệu quả cao.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các tội
phạm về tham nhũng theo Bộ luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình xét xử của Toà án các cấp từ đó chỉ ra những nguyên
nhân, tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định
và nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm
về tham nhũng hiện nay.
8
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử trong 05 năm (từ
năm 2009-2013).
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó- Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm về tham nhũng theo luật hình sự
Việt Nam.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch,
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa
học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn sử dụng các báo cáo tham luận của
Tòa án nhân dân tối cao, Ban Nội chính Trung ương, Thanh tra Chính phủ.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp những quan điểm khoa học về tội phạm về tham nhũng để
xây dựng nên khái niệm về tội phạm về tham nhũng và hướng hoàn thiện
những quy định của pháp luật về tội phạm về tham nhũng.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh tình hình xét xử các loại
9
tội phạm này trong thời gian 5 năm vừa qua; những tồn tại, hạn chế của
những quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng cũng như những nguyên
nhân, tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao hiệu quả xét xử
các tội phạm về tham nhũng và hiệu quả của công tác đấu tranh chống và
phòng ngừa các tội phạm về tham nhũng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn có các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư
pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn
phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho cán bộ thực tiễn
đang công tác tại Toà án các cấp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
khách quan, có căn cứ, đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các tội phạm về tham nhũng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tội phạm về
tham nhũng hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về
tham nhũng.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM VỀ
THAM NHŨNG
1.1.1. Khái niệm tội phạm về tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực, xuất hiện cùng với sự
hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của Nhà nước, nó là biểu hiện của
sự tha hoá của một bộ phận các quan chức được giao cho các quyền về chính
trị - kinh tế - văn hoá - xã hội. Ngày nay tham nhũng không còn là vấn đề
riêng của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề của toàn cầu. Các nước phát
triển, đang phát triển hay kém phát triển, không có một nước nào “miễn dịch”
trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải
pháp phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại
với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển, những nền kinh tế đang chuyển
đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm
trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói
mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với
Chính phủ, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một chế độ.
Thấy trước được sự nguy hại của tệ tham nhũng và thực trạng tình hình
tham nhũng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ và nhấn mạnh là:
Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng, chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân và là nguy
cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta[9].
11
Tham nhũng thường gắn với yếu tố quyền lực, khi một người được giao
nắm giữ quyền lực, với quyền lực đó, trong hoàn cảnh cụ thể, họ thực hiện
nhiệm vụ, công vụ được giao đã thực hiện hành vi trái với quy định của pháp
luật được luật hình sự bảo vệ, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ
quan, của Nhà nước và của xã hội nhằm mục đích vụ lợi.
Dưới góc độ xã hội, tham nhũng là một hiện tượng xã hội chứ không
phải là một hiện tượng nhất thời của một người hay một nhóm người trong xã
hội. Xã hội càng phát triển thì nạn tham nhũng càng có môi trường phát triển
và mức độ nguy hiểm, thủ đoạn của loại tội phạm này sẽ tinh vi hơn.
Dưới góc độ chính trị, tham nhũng thể hiện sự tha hóa của một bộ phận
cán bộ, công chức Nhà nước mà biểu hiện của nó là tình trạng quan liêu, mua
bán chức quyền để vụ lợi.
Dưới góc độ kinh tế, tham nhũng không chỉ gây ra thiệt hại trong việc
làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của nhân dân mà nó còn kìm hãm sự phát
triển kinh tế.
Trong khoa học và thực tiễn có nhiều quan niệm khác nhau về tham
nhũng, tội phạm về tham nhũng. Để có thể đưa ra một khái niệm chính xác về
tội phạm tham nhũng, trước hết cần tìm hiểu khái niệm về tham nhũng.
Theo tổ chức Minh bạch Thế giới, một tổ chức phi chính phủ, tham
nhũng là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái
pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”[62]. Ngân hàng Phát triển Châu Á
có quan niệm khá rộng về tham nhũng, đó là, “lạm dụng chức vụ công hoặc
chức vụ tư để tư lợi”. Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng Châu Âu đã đưa ra khái
niệm tham nhũng: “Tham nhũng bao gồm những hành vi hối lộ và bất kỳ một
hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó
trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao
để thu bất kỳ một thứ lợi ích bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc cho người
12
khác”. Giáo sư J. Nai cho rằng “Tham nhũng bao hàm trong nội dung của nó
cả tệ nạn hối lộ, tệ bệnh gia đình chủ nghĩa và sự chiếm đoạt bất hợp pháp tài
sản công cộng và biến tài sản đó thành của riêng cá nhân”[55, tr.12].
Ngân hàng Thế giới định nghĩa, tham nhũng là “lạm dụng công quyền
để tư lợi”[63]. Điều này cho rằng căn nguyên của tham nhũng xuất phát từ
công quyền và lạm dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và
các hoạt động của nhà nước, việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự
tồn tại của khu vực công. Khái niệm này loại trừ khả năng tham nhũng xảy ra
trong khu vực tư nhân, chỉ tập trung duy nhất vào tình trạng tham nhũng trong
khu vực công.
Công ước về chống tham nhũng của Liên Hợp quốc không đưa ra định
nghĩa và không liệt kê các hành vi được coi là tham nhũng và tội phạm về tham
nhũng, chỉ yêu cầu các quốc gia thành viên phải hình sự hóa các hành vi quy
định từ Điều 15 đến Điều 25 của Công ước, bao gồm: Hối lộ công chức quốc
gia; Hối lộ công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế; Tham ô,
biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công chức; Lợi dụng ảnh
hưởng để trục lợi; Lạm dụng chức năng; Làm giàu bất hợp pháp; Tẩy rửa tài
sản do phạm tội mà có; Che dấu tài sản; Cản trở hoạt động tư pháp.
Theo Từ điển bách khoa của Thụy Sĩ, thì “tham nhũng là hậu quả
nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy
nhà nước. Đó là hành vi vi phạm pháp luật để phục vụ lợi ích cá nhân”[13].
Cũng ở Thụy Sĩ, người ta chia tham nhũng thành hai loại, đó là tham nhũng
lớn và tham nhũng nhỏ.
Tham nhũng lớn thường xuất phát từ những quyết định quan trọng của
cơ quan nhà nước và nó liên quan đến việc sử dụng khoản công quỹ lớn của
Nhà nước. Số lượng những vụ việc tham nhũng lớn không nhiều nhưng nó gây
thiệt hại lớn về tài sản và những ảnh hưởng không tốt về mặt chính trị. Tham
13
nhũng nhỏ là những hành vi của công chức có chức vụ không cao trong bộ máy
chính quyền với những lợi ích thu được không lớn. Mặc dù không gây thiệt hại
nhiều về tài sản nhưng tham nhũng nhỏ lại diễn ra thường xuyên, phổ biến và
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của phần lớn cư dân, những người có
thu nhập ở mức thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội [13, tr.13- 14].
Theo quan điểm của Vito Tanzi, nguyên vụ trưởng Vụ Tài chính công
của IMF từ năm 1981-2000: “Tham nhũng là hành động cố tình không tuân
thủ các nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ
có liên quan tới hành động đó”[63]. Trong định nghĩa của Vito Tanzi, đề cập
tới các nội dung: nguyên tắc công minh bởi lẽ nó đòi hỏi quan hệ cá nhân
hoặc các mối quan hệ khác không được xen vào các quyết định kinh tế có liên
quan đến nhiều bên. Việc đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể kinh tế là
một yêu cầu cần thiết đối với một nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu
quả. Thái độ thiên vị đối với một số chủ thể kinh tế cụ thể nào đó chắc chắn
sẽ vi phạm nguyên tắc công minh và mở đường cho tham nhũng. Không có
thiên vị thì sẽ không có tham nhũng.
Theo Richk Stapenhurst- chuyên gia quản lý công cộng và Shahrzad
Secligh-nhà tư vấn của Viện phát triển kinh tế của Ngân hàng Thế giới thì:
Tham nhũng theo nghĩa đơn giản nhất là sự lạm dụng quyền
lực đa phần là đạt được lợi ích của một nhóm mà người ta phải
trung thành với nó. Tham nhũng có thể do lòng tham thúc đẩy, do
ước muốn duy trì hoặc tăng thêm quyền lực, hay một cách khác khá
vô lý là do niềm tin thường được áp dụng phổ biến nhất do sự lạm
dụng quyền lực công của các chính khách hay công chức nhà nước,
thì nó lại mô tả một mẫu hình ứng xử có thể thấy ở hầu như mọi
lĩnh vực của cuộc sống.[6]
Cơ quan Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra định nghĩa
14
về tham nhũng. Theo đó, “tham nhũng là sự lạm dụng chức vụ, vai trò và
nguồn lực công để trục lợi cá nhân”[13, tr.15].
Ở Trung Quốc, Bộ Luật Hình sự không quy định khái niệm về tội phạm
tham nhũng, chỉ quy định tội phạm về tham nhũng bao gồm tham ô, lạm dụng
công quỹ, nhận hối lộ, đưa hối lộ, không nộp quà biếu hoặc lễ vật vào công
quỹ, không chứng minh được nguồn gốc tài sản, phân chia tài sản trái phép.
Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định tội phạm về tham nhũng tại
Chương XV “Các tội phạm về tham nhũng”, quy định tội phạm về tham
nhũng là lạm dụng chức vụ, quyền hạn của công chức, của công chức đặc biệt
thực hiện; nhận hối lộ, nhận hối lộ tạ ơn, nhận hối lộ trước, nhận hối lộ để
gây ảnh hưởng; đưa hối lộ.[19]
Mặc dù trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về tham nhũng,
song có thể thấy điểm chung của các quan điểm này đều cho rằng, tham
nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn đó để vụ lợi, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều quan niệm về tham nhũng
và khái niệm tham nhũng đang là một trong những vấn đề gây tranh luận.
Theo từ điển Tiếng Việt, “tham nhũng là sự lợi dụng quyền hạn để nhũng
nhiễu dân và lấy của dân”[57, tr.1523]. Cũng có nhiều quan điểm cho rằng
“tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy mầm mống của tệ
tham nhũng trong chính quyền cách mạng và Người kiên quyết đấu tranh với
tệ này, Người đã nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã
hội cũ. Nó do lòng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do chế độ người bóc
lột người mà ra” [26, tr.94]. Chủ tịch Hồ Chí Minh không sử dụng danh từ
15
“tham nhũng”, Người thường nói đó là tham ô-biểu hiện đặc trưng nhất của
tham nhũng:
Tham ô là gì? Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp
của công làm của tư. Đục khoét của nhân dân. Ăn bớt của nhân dân.
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của chính phủ để làm quỹ
riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về
phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu
thuế”. Đồng thời, Người cũng khẳng định “Tham ô là hành động
xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp
của công, chiếm đoạt của công làm của tư[27, tr.110].
Theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình, TS.
Bùi Minh Thanh trong cuốn Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và Thế
giới” cho rằng:
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất
hiện và tồn tại trong xã hội phân chia giai cấp và hình thành nhà
nước, được thể hiện bằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
vụ lợi cho cá nhân hoặc người khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây
thiệt hại tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.[58, tr.26]
GS.TSKH. Phan Xuân Sơn và Ths. Hoàng Thế Lực trong cuốn “Nhận
diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay”, cho rằng: “Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, trong đó các tổ chức,
tập đoàn, cá nhân… lợi dụng những ưu thế về chức vụ, cương vị, uy tín, nghề
nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc người khác, lợi dụng những sơ hở của pháp
luật để trục lợi bất chính”[41, tr.37].
16
Theo Ths. Đinh Văn Quế, nguyên Phó Chánh Tòa, Tòa Hình sự Tòa án
nhân dân tối cao:
Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và
lấy của. Các tội phạm về tham nhũng là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến tài sản, uy tín
của cơ quan, tổ chức; xâm phạm đến tài sản, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân[37].
Theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải thì: “Tham nhũng là hiện tượng những
người có chức vụ quyền hạn cố tình làm trái với những quy định chung nhằm
vơ vét tài sản của công dân cho bản thân mình hoặc cho người khác”.[64]
Từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như
của Việt Nam về tham nhũng, có thể thấy nổi lên hai nhóm quan điểm như
sau: Thứ nhất, coi tham nhũng là lạm dụng công quyền với mục đích tư lợi
cho bản thân mình hoặc cho người khác, chỉ xảy ra ở khu vực công, người
phạm tội với mục đích chiếm đoạt tài sản công và biến tài sản công thành tài
sản của riêng mình. Tham nhũng có lịch sử xuất hiện và tồn tại phát triển
trong xã hội phân chia giai cấp và hình thành Nhà nước. Tham nhũng gây
thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước; Thứ hai, coi tham
nhũng cũng là lạm dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản nhưng xảy ra ở cả
khu vực công và khu vực tư.
Như vậy, có thể thấy, có rất nhiều quan điểm khác nhau về tham nhũng
của các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật Việt Nam về hành vi tham nhũng, trên cơ sở nghiên cứu các quan
điểm khoa học của thế giới và Việt Nam về khái niệm tham nhũng, có thể
hiểu tham nhũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp
luật nhằm trục lợi cá nhân.
17
Tội phạm, là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội – pháp lý, tội
phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại
xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến
quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của công dân. Tham nhũng gây ra tác hại
nhiều mặt, là một trong những mối nguy hiểm cao độ, cản trở sự phát triển
kinh tế, xã hội. Có nhiều hành vi được xem là hành vi tham nhũng, tuy nhiên
không phải hành vi tham nhũng nào cũng bị tội phạm hóa thành các tội phạm
về tham nhũng. Việc tội phạm hóa các hành vi tham nhũng có ý nghĩa quan
trọng trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Để phòng và chống tham
nhũng đòi hỏi phải có nhiều biện pháp mang tính đồng bộ, song pháp luật vẫn
giữ vai trò chủ đạo, tạo khuôn khổ pháp lý nhằm phòng ngừa và phát hiện các
hành vi tham nhũng và có các chế tài thích hợp đối với người có hành vi tham
nhũng. Vì thế để phòng ngừa và phát hiện các hành vi tham nhũng phải tiếp
tục hoàn thiện các văn bản, các qui định trực tiếp liên quan đến tội phạm tham
nhũng. Thông qua các dấu hiệu đặc trưng của hành vi tham nhũng để làm căn
cứ xác định một cách cụ thể, rõ ràng về loại tội phạm này.
Tội phạm về tham nhũng có thể được hiểu là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong văn bản pháp luật, do người có chức vụ,
quyền hạn, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của mình nhằm mục đích vụ lợi, xâm phạm hoạt động đúng đắn
và uy tín của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
1.1.2. Các đặc điểm của các tội phạm về tham nhũng
Từ khái niệm tội phạm về tham nhũng, trên cơ sở nghiên cứu những
quan điểm khoa học về hành vi tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam, có
thể thấy, tội phạm tham nhũng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tội phạm về tham nhũng xâm hại đến uy tín và hoạt động
18
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Các cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do hành vi phạm tội gây ra, đó là
các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội được thành
lập theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ hợp pháp, là một cơ quan, tổ
chức cụ thể không phải là cơ quan, tổ chức hiểu theo nghĩa chung chung.
Hành vi xâm phạm đến cơ quan, tổ chức rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên,
đối với các tội phạm về tham nhũng thì việc xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn của các cơ quan, tổ chức thì cũng chỉ xâm phạm đến một số lĩnh vực cụ
thể chứ không phải xâm phạm đến tất cả các hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức đó.
Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này
nhằm thực hiện chức năng và mục đích đề ra. Có thể thấy, những hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về chức vụ gây
ra, đó là những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc phải làm mà
không làm, cấm không được làm thì lại làm.
Thứ hai, tội phạm về tham nhũng, những người có chức vụ lợi dụng
chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi trái với công vụ.
Đây cũng là dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu của hành vi tham
nhũng. Một hành vi chỉ được xem là hành vi tham nhũng khi người có chức
vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tiền, tài
sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và của công dân; đưa những người thân
tín vào nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, tổ chức
chính trị-xã hội nhằm mưu lợi riêng. Trên thực tế, không phải khi nào
người có chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật cũng đều do sự lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để vi phạm. Hành vi vi phạm pháp luật của người có
19
chức vụ, quyền hạn nhưng không phải do lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
mưu lợi thì hành vi đó không phải là hành vi tham nhũng. Hành vi tham
nhũng của những người có chức vụ, quyền hạn phải xuất phát từ động cơ vụ
lợi về vật chất, tinh thần.
Khoản 5, Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng của Việt Nam năm
2005 quy định: Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền
hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Như vậy, chỉ
được xem là hành vi tham nhũng khi người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn được giao để mang lại những lợi ích vật chất, tinh thần có
tính chất cá nhân (vụ lợi). Tức là, người có chức vụ, quyền hạn đã hành động
không xuất phát từ nhu cầu công việc mà vì những lợi ích của riêng mình như
nhận tiền hoặc tài sản hoặc một lợi ích phi vật chất nào đó. Thậm chí dùng ảnh
hưởng của mình để mang lại lợi ích cho những người thân thích. Nếu một chủ
thể thực hiện hành vi tương tự như hành vi tham nhũng nhưng không có động
cơ vụ lợi thì không thể coi đó là hành vi tham nhũng. Đây cũng là một dấu hiệu
đặc trưng cơ bản, không thể thiếu của hành vi tham nhũng.
Thứ ba, tội phạm về tham nhũng có mục đích vụ lợi, đó là những hành
vi cố ý, có mục đích.
Lỗi của hành vi tham nhũng thông thường là lỗi cố ý. Trong một số ít
trường hợp chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng với lỗi vô ý, mặc dù chủ thể
không mong muốn chiếm đoạt tài sản nhưng do rơi vào tình thế và hoàn cảnh
nhất định mà thực hiện hành vi tham nhũng. Cũng có trường hợp cán bộ, công
chức, viên chức do năng lực, trình độ yếu kém nên không nhận biết được việc
làm của mình đã vô tình tiếp tay cho những kẻ tham nhũng và họ đóng vai trò
là người giúp sức cho tội phạm tham nhũng. Tội phạm tham nhũng được thực
hiện với động cơ rõ ràng. Động cơ tham nhũng là nhu cầu được nhận thức bởi
chủ thể tạo nên động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng.