1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN ĐÌNH HẢI
DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG
CỦA TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN ĐÌNH HẢI
DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG
CỦA TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2012
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỚP TÀI SẢN VÀ
DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI CƢỚP TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội
cướp tài sản
9
1.1.1.
Khái niệm dấu hiệu định khung và phân biệt dấu hiệu định
khung với dấu hiệu định tội và tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
9
1.1.2.
Khái niệm tội cướp tài sản và dấu hiệu định khung của tội
cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
15
1.2.
Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội cướp tài sản và các dấu hiệu định khung của tội
cướp tài sản giai đoạn trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999
23
1.3.
Quy định của pháp luật hình sự một số nước về tội cướp tài
sản và dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản
31
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI
CƢỚP TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
37
2.1.
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu
37
5
hiệu định khung của tội cướp tài sản
2.2.1.
Cướp tài sản có tổ chức (điểm a, khoản 2)
37
2.2.2.
Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp (điểm b,
khoản 2)
40
2.2.3.
Tái phạm nguy hiểm (điểm c, khoản 2)
41
2.2.4.
Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác
(điểm d, khoản 2)
42
2.2.5.
Dấu hiệu định khung căn cứ vào tỷ lệ thương tật, tổn hại sức
khỏe của người bị hại
47
2.2.6.
Dấu hiệu định khung căn cứ vào giá trị tài sản
49
2.2.7
Gây hậu quả nghiêm trọng (điểm g, khoản 2); gây hậu quả rất
nghiêm trọng (điểm c, khoản 3); gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng (điểm c, khoản 4)
52
2.2.
Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản
55
2.2.1.
Tình hình áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp tài sản trong
những năm qua
55
2.2.2.
Một số vướng mắc và tồn tại khi áp dụng các dấu hiệu định
khung của tội cướp tài sản
60
2.2.3.
Nguyên nhân của những tồn tại trên
79
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG
CỦA TỘI CƢỚP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
81
3.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản
81
3.2.
Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng, trong đó có hướng
89
6
dẫn áp dụng các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản
3.3.
Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức trách
nhiệm của cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp góp phần nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật
92
3.4.
Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố
tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án) trên cơ sở thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan
95
KẾT LUẬN
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
TAND
: Toà án nhân dân
TANDTC
: Toà án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
8
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
: Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm
(từ ngày 01/10/2006 đến ngày 30/09/2007)
56
2.2
Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm
(từ ngày 01/10/2007 đến ngày 30/09/2008)
57
2.3
Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm
(từ ngày 01/10/2008 đến ngày 30/09/2009)
58
2.4
Thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm
(từ ngày 01/10/2009 đến ngày 31/07/2010)
59
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình
huống, tạo ra môi trường xã hội ổn định phục vụ công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, giữ
vững kỉ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa… là
nhiệm vụ và mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những mục tiêu trên
được cụ thể hóa thông qua Nghị quyết 09/NQ-CP và Chương trình quốc gia
phòng, chống tội phạm và Chỉ thị số 37/2004/CT-TTg "Về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm của Chính phủ từ nay đến năm 2010 ngày 08/11/2004.
Bộ luật hình sự (BLHS) là một trong những công cụ sắc bén và hữu
hiệu của Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội,
chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục người dân ý thức chấp hành và tuân
thủ pháp luật.
Trong những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu to lớn về mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội chúng ta cũng không thể xem nhẹ vấn đề về sự
gia tăng của tội phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng.
Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu hiện nay, cướp tài sản là tội
phạm gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, là vấn đề gây nhức nhối đối với toàn
xã hội, tội phạm này vừa phổ biến, đa dạng về hình thức, đối tượng phạm tội
lại vừa gây tâm lý hoang mang trong đại đa số bộ phận dân chúng, gây ảnh
hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Cướp tài sản là tội phạm xâm hại
10
nghiêm trọng tới cả quan hệ sở hữu và nhân thân, hành vi phạm tội thường
được thực hiện một cách nguy hiểm, côn đồ, công khai với người bị hại, thể
hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cương xã hội.
Hiện nay, công cuộc cải cách tư pháp, Nhà nước ta đang không ngừng
xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật nói chung và các quy định của
pháp luật hình sự nói riêng. Đây là một xu thế tất yếu và là nhiệm vụ chiến
lược nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân, đồng thời thực hiện tốt các nhiệm vụ và các Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc đã đề ra, cũng như các yêu cầu cấp bách được thể hiện thông qua
các văn bản của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/05/2005 "Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Do đó, để
góp phần làm sáng tỏ những nội dung cũng như những tồn tại trong công tác
áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện về các dấu hiệu định khung
quy định trong tội cướp tài sản theo quy định của BLHS năm 1999, chúng tôi
đã quyết định chọn đề tài "Dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" để làm luận văn thạc sĩ
của mình.
"Dấu hiệu hình sự" là những biểu hiện của tội phạm bao gồm những
biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người phạm
tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm, trách nhiệm
hình sự (TNHS) của người phạm tội phản ánh quan điểm của Nhà nước ta về
tội phạm cũng như chính sách hình sự của Nhà nước. Các "dấu hiệu hình sự"
được người áp dụng luật sử dụng làm căn cứ để định tội, định khung cũng
như quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu những tình tiết cụ
11
thể, những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội danh, định khung
hình phạt hay quyết định hình phạt không đúng, không phù hợp, làm cho hình
phạt không đạt được mục đích khi áp dụng đối với người phạm tội. Dấu hiệu
định khung hình phạt là một trong những dấu hiệu hình sự phản ánh đầy đủ
các đặc điểm nêu trên. Tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết của
tội phạm phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt (cấu thành tội
phạm (CTTP) giảm nhẹ hoặc tăng nặng) của những tội cụ thể của BLHS.
Những tình tiết đó có thể là tình tiết thuộc về hành vi phạm tội, thuộc về đối
tượng tác động của tội phạm, thuộc về nhận thức, thái độ của người phạm tội
đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm riêng biệt của người phạm
tội… Những tình tiết đó có thể được quy định là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng
nặng TNHS.
Do tính đa dạng của tội phạm, bên cạnh CTTP cơ bản (của một loại
tội), nhà làm luật còn quy định thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có tính
nguy hiểm cho xã hội cao hoặc thấp với những khung hình phạt nặng hoặc
nhẹ khác nhau so với khung hình phạt của CTTP cơ bản. Những dấu hiệu đó
được gọi là dấu hiệu (yếu tố) định khung hình phạt. Khi các tình tiết của tội
phạm thỏa mãn không những dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản), mà còn thỏa
mãn dấu hiệu có thêm của CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép
chuyển khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội từ khung hình phạt
của CTTP cơ bản sang khung hình phạt của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng
nặng. Hơn nữa, tội phạm là thể thống nhất không thể chia cắt, tất cả các tình
tiết - biểu hiện của tội phạm đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong luật
hình sự, hình phạt được Tòa án áp dụng nhằm mục đích không chỉ trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Mỗi loại tội danh đều
quy định một khung hình phạt nhất định phù hợp với tính chất và mức độ của
12
hành nguy hiểm cho xã hội gây ra. Vì vậy, việc xác định đúng dấu hiệu định
khung trong vụ án hình sự là hết sức quan trọng, bởi lẽ nó ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người thực hiện hành vi vi phạm cũng như mục
đích và tính nghiêm minh của pháp luật hình sự. Trong phạm vi luận văn này
chúng tôi tập trung nghiên cứu về các dấu hiệu định khung được quy định
trong tội cướp tài sản theo quy định của BLHS năm 1999.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội cướp tài sản nói chung và dấu hiệu định khung của tội cướp tài
sản nói riêng đã được nghiên cứu dưới các góc độ khoa học luật hình sự và tội
phạm học ở những mức độ khác nhau thông qua các công trình sau đây:
* Nhóm thứ nhất, trong các giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên
khảo: Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Chương XX: Các tội xâm phạm sở
hữu, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân (2010) do GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên; Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự Phần các tội phạm- Phần thứ II: Các tội phạm cụ thể, tập II, Nxb tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh (2006); TS. Trần Minh Hưởng - Tìm hiểu Bộ luật
hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Bình luận và chú giải -
Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002;
Bình luật khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV:
Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội do PGS.TS Phùng
Thế Vắc chủ biên (2001); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
(2001) do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên (tái bản năm 2003 và 2007); Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)- Chương IV: Các tội xâm
phạm sở hữu, Cao Thị Oanh, Nxb Giáo dục (2010); Luật hình sự Việt Nam -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân (1997); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001);
13
Bình luận Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
sửa đổi, bổ sung năm 2009, ThS. Đinh Thế Hưng - ThS. Trần Văn Biên -
Viện Nhà nước và pháp luật - Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb
Lao động (2010); v.v
* Nhóm thứ hai, trong các luận án, luận văn, bài viết và đề tài khoa
học như: "Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội",
Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội của Đỗ Kim Tuyến
(2001); "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu", Luận án
Tiến sĩ luật học của Nguyễn Ngọc Chí (2000); Võ Minh Tiến: "Đấu tranh
phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" - Luận văn Thạc
sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội (2006); Nguyễn Quảng
Nghĩa -"Hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Tây
của lực lượng Cảnh sát điều tra", Luận án tiến sĩ, Học viện Cảnh sát nhân
dân, Hà Nội (2002); Luận văn "Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" của Lê Thị Khanh - Đại
học Luật Hà Nội (2006); Dương Tuyết Miên - Tội phạm cấu thành hình thức
có giai đoạn phạm tội chưa đạt không?, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), số
8/1997; Nguyễn Ngọc Chí - "Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu" đăng
trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/1998, bài "Các tội xâm phạm sở hữu
trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999" của Trương Quang Vinh, tạp chí
Luật học số 4/2000; v.v
Các công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên tạp chí cũng như sách
chuyên khảo, giáo trình về tội cướp tài sản tuy có số lượng rất lớn nhưng thông
thường tập trung đi sâu vào nội dung, quan tâm tới vấn đề lý luận về dấu hiệu
định tội của tội cướp tài sản hoặc nhìn nhận vấn đề dưới góc độ tội phạm học,
đấu tranh phòng ngừa tội cướp tài sản trên một địa bàn nhất định. Cướp tài sản
và đặc biệt là các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản chỉ là một phần
khá nhỏ được nêu ra và phân tích. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện các
quy định của BLHS về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản cũng như
14
đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này
vẫn là vấn đề bổ ích và cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - các dấu hiệu
định khung của tội cướp tài sản theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các dấu hiệu định khung của tội
cướp tài sản dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và thực tiễn áp dụng ở Việt
Nam, từ năm 2007 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm và hình phạt; những thành tựu của các
ngành khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Tội phạm học…
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo
sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó rút ra những kết luận, đề xuất phù
hợp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề cần nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm nhận thức đầy đủ và đúng
đắn về dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong BLHS Việt Nam năm
1999 và đưa ra phương hướng hoàn thiện những dấu hiệu này.
15
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội
dung các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản theo quy định BLHS năm
1999; thực tiễn áp dụng dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản và kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật về những dấu hiệu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về các
dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt
Nam. Luận văn làm rõ các vấn đề chung về các dấu hiệu định khung của tội
cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát sự hình thành và
phát triển của các quy định pháp luật hình sự nước ta về các dấu hiệu định
khung của tội cướp tài sản trong suốt chiều dài lịch sử; nêu ra một số tồn tại
trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn; phân tích thông
qua thực tiễn xét xử về tội cướp tài sản trên toàn quốc từ năm 2007 đến năm
2010 để đánh giá, qua đó chỉ ra những vấn đề còn tồn tại, những bất cấp trong
quy định của luật hình sự hiện hành, chỉ ra những sai sót trong quá trình áp
dụng các quy định đó, từ đó tìm ra những phương hướng, giải pháp khắc
phục, đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự về các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trên cả
khía cạnh lập pháp và công tác thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử
dụng để nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung
cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực
tiễn áp dụng các quy định của BLHS liên quan đến các dấu hiệu định khung
của tội cướp tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này.
16
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cướp tài sản và dấu hiệu định
khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về dấu
hiệu định khung của tội cướp tài sản và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
các dấu hiệu định khung của tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam.
17
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỚP TÀI SẢN VÀ
DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG CỦA TỘI CƢỚP TÀI SẢN TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TỘI CƢỚP TÀI SẢN VÀ DẤU HIỆU ĐỊNH KHUNG
CỦA TỘI CƢỚP TÀI SẢN
1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định khung và phân biệt dấu hiệu định
khung với dấu hiệu định tội và tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
* Khái niệm dấu hiệu định khung
Dấu hiệu định khung hình phạt là dấu hiệu thuộc CTTP tăng nặng
hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ, cho phép xác định khung hình phạt giảm
nhẹ hoặc tăng nặng so với mức hình phạt quy định trong CTTP cơ bản của
những tội cụ thể trong BLHS. Khi các tình tiết của tội phạm không những
thỏa mãn dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản) mà còn thỏa mãn dấu hiệu của
CTTP giảm nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp dụng
đối với người phạm tội từ khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung hình
phạt của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng.
Các tình tiết làm căn cứ xác định TNHS là những biểu hiện của tội
phạm bao gồm những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc
điểm của người phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm, TNHS của người phạm tội phản ánh quan điểm của
Nhà nước về tội phạm, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước. Các tình
tiết thực tế của vụ việc được người áp dụng luật làm căn cứ để định tội, định
khung cũng như quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Nếu thiếu
18
những tình tiết cụ thể những căn cứ xác đáng có thể dẫn đến việc định tội
danh, khung hình phạt hay quyết định hình phạt không đúng, không phù hợp.
Trong hoạt động của mình khi giải quyết các vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng pháp luật về mặt nội dung theo trình tự định tội danh,
định khung hình phạt và cuối cùng là quyết định hình phạt tương ứng với tội
danh và khung hình phạt đã được xác định ở trên.
Một hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi thỏa mãn các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể được quy định
trong Bộ luật hình sự, hành vi đó được chuyển khung hình phạt tăng
nặng hay khung hình phạt giảm nhẹ khi đã thỏa mãn các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm cơ bản và các dấu hiệu định khung hình
phạt (cấu thành tội phạm giảm nhẹ hoặc cấu thành tội phạm tăng
nặng) của những tội cụ thể trong Bộ luật hình sự, đó là những tính
tiết thuộc về hành vi phạm tội, thuộc về nhận thức, thái độ của
người phạm tội đối với việc phạm tội, thuộc về những đặc điểm
riêng biệt, phẩm chất cá nhân của người phạm tội [18, tr. 14].
* Phân biệt dấu hiệu định khung với dấu hiệu định tội và tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Sự khác nhau giữa dấu hiệu định khung với dấu hiệu định tội
Dấu hiệu định tội là những biểu hiện của tội phạm phù hợp với dấu
hiệu CTTP cơ bản của tội cụ thể trong BLHS.
Hoạt động định tội (hay định tội danh) là hoạt động nhận thức, là quá
trình xem xét, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có là tội
phạm hay không (nếu có là tội gì?) trên cơ sở đối chiếu các tình tiết thực tế
của hành vi với các dấu hiệu của CTTP, tìm ra sự phù hợp giữa hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã thực hiện với CTTP cụ thể đã được quy định trong BLHS.
Nếu các dấu hiệu trong CTTP cụ thể được thỏa mãn thì hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã thực hiện là hành vi phạm tội và hành vi đó mang tội danh mà
19
CTTP đó phản ánh. Đối với một tội danh, nhà làm luật mô tả trong các điều
luật phần các tội phạm dấu hiệu đặc trưng của tội phạm làm cơ sở pháp lý cho
việc xác định và phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác, giữa tội
phạm với không phải là tội phạm. Mỗi tội danh đều phải có một CTTP cơ
bản. CTTP cơ bản có thể chỉ mô tả một loại trường hợp phạm tội với một
dạng hành vi hoặc với nhiều dạng hành vi khác nhau, CTTP cơ bản cũng có
thể mô tả nhiều trường hợp phạm tội khác nhau với những quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ khác nhau. Một hành vi chỉ có thể được coi là hành
vi phạm tội nếu đảm bảo các yếu tố về mặt khách thể, mặt khách quan, chủ
thể và mặt chủ quan của tội phạm được luật hình sự quy định. Hành vi đó phải
thỏa mãn là hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm pháp luật hình sự do người
có năng lực TNHS, đủ tuổi thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Căn cứ vào
các yếu tố đó, đối chiếu với các thành tố được mô tả trong CTTP cơ bản để cơ
quan tiến hành tố tụng tiến hành định tội đối với một hành vi cụ thể. Tình tiết
định tội là tình tiết thực tế của vụ án cụ thể được sử dụng để xác định người
phạm tội trong vụ án đó đã phạm tội gì. Các tình tiết xác định TNHS luôn gắn
với sự kiện phạm tội, phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội. Khi các
tình tiết phù hợp và thỏa mãn dấu hiệu CTTP cơ bản của tội phạm cụ thể
trong BLHS sẽ cho phép xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, theo
điều nào trong BLHS. Ví dụ, xem xét trường hợp người đã có hành vi dùng vũ
lực đối với người khác. Dùng vũ lực đối với người khác là dùng sức mạnh vật
chất tấn công người khác; mặc dù hành vi dùng vũ lực là hành vi có tính nguy
hiểm đáng kể; mặc dù bản chất của sự tấn công là bất hợp pháp. Cho dù tình
tiết "dùng vũ lực", "tấn công" phù hợp với dấu hiệu "dùng vũ lực", "tấn công"
trong CTTP của tội hiếp dâm (Điều 111), tội cướp tài sản (Điều 133) nhưng
cái đó vẫn chưa nói lên điều gì. Khi xem xét, làm rõ những tình tiết khác như:
Việc dùng vũ lực được thực hiện bởi người là nam giới; việc dùng vũ lực
nhằm "đè bẹp", "làm tê liệt" sự kháng cự của người là nữ giới để "giao cấu"
20
với người đó - "giao cấu với người phụ nữ trái với ý muốn của họ". Những
tình tiết này cho thấy hành vi dùng vũ lực (nói trên) phù hợp và thỏa mãn các
dấu hiệu CTTP của tội hiếp dâm. Điều đó cho phép khẳng định người có hành
vi nói trên đã phạm tội hiếp dâm (Điều 111). Trường hợp trên được tiếp tục
xem xét và xác định nạn nhân của tội phạm là em gái 15 tuổi - nạn nhân của
tội phạm là trẻ em thì hành vi phạm tội hiếp dâm trong trường hợp này phù
hợp và thỏa mãn các dấu hiệu CTTP của tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112).
Tương tự vậy đối với trường hợp người dùng vũ lực nhưng trong những
trường hợp pháp luật cho phép (như bắt người phạm tội quả tang, phòng vệ
chính đáng, thi hành án tử hình…) thì không phạm tội bởi hành vi dùng vũ
lực đó không thỏa mãn bất cứ CTTP nào mà BLHS quy định.
Như vậy, ý nghĩa của các tình tiết định tội thể hiện ở chỗ các tình tiết
đó cho phép xác định được người phạm tội đã phạm tội gì, theo điều nào
trong BLHS. Qua đó có thể áp dụng TNHS cho người phạm tội, dấu hiệu định
tội là là những vấn đề cần quan tâm và giải quyết đầu tiên của các cơ quan
tiến hành tố tụng khi xem xét một vụ án hình sự, định tội danh là bước đầu
tiên trong quá trình tố tụng (xét trên khía cạnh khoa học luật hình sự), khi
hành vi thỏa mãn CTTP cơ bản được quy định trong bộ luật hình, nếu thỏa
mãn CTTP cơ bản rồi, tiếp sau đó sẽ xem xét tới các dấu hiệu định khung
được quy định trong cùng một điều luật nhưng có những tình tiết khác làm
tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của người phạm tội trước khi nghiên cứu về
hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
Tình tiết định khung hình phạt là những tình tiết của tội phạm phù
hợp và thỏa mãn dấu hiệu của CTTP giảm nhẹ hoặc CTTP tăng nặng của
những tội cụ thể trong BLHS.
Do tính đa dạng của tội phạm, cũng như sự cần thiết nhằm phản ánh
đúng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, sự phân hóa TNHS cũng như tăng
tính giáo dục, đánh giá khả năng cải tạo của người phạm tội bên cạnh CTTP
21
cơ bản (của một loại tội) nhà làm luật còn quy định thêm các dấu hiệu phản
ánh tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hoặc thấp so với khung
hình phạt của CTTP cơ bản. Những dấu hiệu đó được gọi là dấu hiệu (yếu tố)
định khung hình phạt. Khi các tình tiết của tội phạm không những thỏa mãn
dấu hiệu định tội (CTTP cơ bản) mà còn thỏa mãn dấu hiệu của CTTP giảm
nhẹ hoặc tăng nặng sẽ cho phép chuyển khung hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội từ khung hình phạt của CTTP cơ bản sang khung hình giảm
nhẹ hoặc tăng nặng. Ví dụ, các tình tiết trong hành vi phạm tội giết người của
một người không những thỏa mãn dấu hiệu mặt khách quan, mặt chủ quan,
khách thể, chủ thể của tội giết người (khoản 2 Điều 93) mà còn thỏa mãn dấu
hiệu quy định tại các điểm a, b khoản 1 Điều 93. Trường hợp này sẽ cho
phép chuyển khung hình phạt áp dụng đối với người đó từ khoản 2 sang
khoản 1 Điều 93 BLHS. Các tình tiết đó được gọi là tình tiết định khung hình
phạt. Nói cách khác, đó chính là các tình tiết có ý nghĩa định khung hình phạt
đối với tội phạm.
- Sự khác nhau giữa dấu hiệu định khung hình phạt với các tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Ngoài ý nghĩa định tội, định khung hình phạt, các tình tiết của tội
phạm còn phản ánh mức độ nguy hiểm khác nhau của các trường hợp phạm
tội cụ thể (trong khung hình phạt); phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của
người phạm tội và qua đó phản ánh mức độ TNHS của người phạm tội. Do
vậy, các tình tiết này được BLHS quy định làm căn cứ quyết định hình phạt
đối với người phạm tội. Các trường hợp phạm tội trên thực tế thuộc một tội
danh tuy có cùng những đặc điểm đặc trưng nhất định nhưng có sự khác nhau
về mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội. Cho nên, đòi hỏi phải có những
khung hình phạt khác nhau cho cùng một loại tội danh để đảm bảo có sự phân
hóa TNHS ngay trong một điều luật và qua đó tạo điều kiện cá thể hóa TNHS
trong thực tiễn áp dụng. Trên thực tế, mỗi tội danh có một khung hình phạt
22
cho trường hợp phạm tội bình thường. Khung hình phạt này được biểu hiện
thông qua khung hình phạt cơ bản. Bên cạnh khung hình phạt này nhà làm
luật căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống của mỗi
loại tội phạm, có thể xây dựng một hoặc nhiều khung hình phạt nặng hơn
hoặc nhẹ hơn. Đó là các khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt
giảm nhẹ.
Để xác định trường hợp phạm tội cụ thể (đã được định tội
danh) có thỏa mãn dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc
dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ hay không người áp dụng
phải đối chiếu dấu hiệu này với các tình tiết thực tế của hành vi
phạm tội, theo đó, tình tiết định khung hình phạt là tình tiết thực tế
phù hợp với dấu hiệu định khung hình phạt [15, tr. 125].
Thông thường đối với những tội phạm phổ biến, tính nguy hiểm cho xã
hội cao hơn so với những tội phạm, nhóm tội phạm khác, tính chất, mức độ thực
hiện hành vi được thể hiện đa dạng, đe dọa tới nhiều quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ thì số lượng khung hình phạt nhiều hơn so với các loại tội khác.
Khác với các dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung hình phạt, các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là các tình tiết được quy định tại Điều 46
và Điều 48 BLHS. Hành vi phạm tội cụ thể nếu có tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng nặng TNHS thì mức độ TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu theo
đó cũng giảm xuống hoặc tăng lên so với các trường hợp khác trong phạm vi
khung hình phạt áp dụng với người phạm tội. Tình tiết định tội được phản ánh
trong CTTP cơ bản của mỗi loại tội. Tình tiết định khung hình phạt được phản
ánh trong CTTP giảm nhẹ hay tăng nặng của mỗi loại tội. Còn các tình tiết
giảm nhẹ và tăng nặng TNHS được quy định chung tại Điều 46 và Điều 48
BLHS. Số lượng cũng như tính đa dạng của các tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ là cao hơn so với các tình tiết định khung được quy định trong các
điều luật cụ thể, trên thực tế các dấu hiệu định khung cũng thường là có
23
khung hình phạt nặng hơn so với hình phạt quy định tại CTTP cơ bản. Khi xử
lý một vụ án hình sự, tình tiết định tội là dấu hiệu phải quan tâm tới trước khi
tìm hiểu các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại
Điều 46, Điều 48 BLHS bởi BLHS năm 1999 đã quy định các tình tiết giảm
nhẹ, tăng nặng TNHS đã được BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định
khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Đối với các tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt, tòa án còn có
thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án,
trong khi đó các dấu hiệu định khung thì Tòa án phải áp dụng đúng theo quy
định của luật hình sự mà không được phép thêm hay bớt các dấu hiệu này.
1.1.2. Khái niệm tội cƣớp tài sản và dấu hiệu định khung của tội
cƣớp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
* Khái niệm tội cướp tài sản
Trong khoa học luật hình sự và tội phạm học, tội phạm và nội dung
của khái niệm tội phạm là những vấn đề quan trọng nhất, nó phản ánh rõ nét
và đầy đủ bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị - xã hội, cũng như những
đặc điểm pháp lý của luật hình sự quốc gia, đồng thời, nó còn "được xem như
là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không
phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý
khác " [19, tr. 9].
Theo pháp luật hình sự hiện hành ở nước ta, khái niệm tội phạm được
các nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS Việt Nam năm 1999 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2009). Theo đó, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
24
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Do đó, khái niệm một tội phạm cụ thể - tội cướp tài sản, chính là sự cụ
thể hóa khái niệm tội phạm (chung) đã nêu ở trên. Trên cơ sở tổng kết các
quan điểm khác nhau trong khoa học và căn cứ vào các quy định của BLHS
năm 1999 hiện hành, khái niệm tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản do
người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm đến quan hệ nhân thân thông qua việc xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe người bị hại và xâm hại đến quyền sở hữu tài sản.
Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999. So với
BLHS năm 1985 thì Điều 133 BLHS năm 1999 có nhiều sự sửa đổi, bổ sung,
nhất là các yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn. Tội cướp tài sản
gồm 05 khoản, dấu hiệu định khung về hậu quả là tài sản bị chiếm đoạt đã
được định lượng cụ thể và tỷ lệ thương tật của nạn nhân cũng được quy định
rõ ràng và chi tiết, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thuận tiện
trong việc áp dụng vào thực tiễn.
a/ Khách thể của tội cướp tài sản
"Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm
hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất
định" [12, tr. 349]. Khách thể của tội cướp tài sản bao gồm cả quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân, hành vi cướp tài sản cùng một lúc xâm hại hai khách
thể, khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân thông qua việc xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe người bị hại và xâm hại đến quyền sở hữu tài
sản. Đây cũng là đặc điểm phân biệt giữa tội cướp tài sản và các tội phạm
khác, các tội mà người phạm tội tuy có dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực
25
hoặc các hành vi khác làm nạn nhân không còn khả năng điều khiển hành vi
nhưng không với mục đích chiếm đoạt tài sản.
b/ Mặt khách quan của tội cướp tài sản:
Mặt khách quan của một tội phạm bao gồm hành vi nguy hiểm cho xã
hội, hậu quả của tội phạm nếu điều luật quy định và mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của tội phạm. Hành vi trong tội
cướp tài sản tồn tại ở những dạng sau:
* Hành vi dùng vũ lực:
Hành vi dùng vũ lực là hành vi (hành động) mà người phạm tội đã
thực hiện, tác động vào cơ thể của nạn nhân như đấm, đá, đâm, chém, bắn,
bóp cổ, trói đó là những hành động bằng sức mạnh vật chất gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác nhằm
chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực có thể làm cho nạn nhân bị thương
tích, tổn hại đến sức khỏe hoặc có thể làm nạn nhân chết, nhưng cũng có thể
chưa gây ra thương tích đáng kể. Thông thường, người phạm tội dùng vũ lực
chủ yếu với người có trách nhiệm đối với tài sản, đặc biệt là chủ tài sản, tuy
nhiên cũng có trường hợp để đạt được mục đích của mình mà người phạm tội
còn dùng vũ lực đối với bất cứ người nào mà về ý thức chủ quan họ cho rằng
cản trở việc chiếm đoạt tài sản của mình. Đối với những vụ cướp có đồng
phạm thì không nhất thiết tất cả những người thực hành vi trong đồng phạm
phải cùng dùng vũ lực, có thể có người chỉ đe dọa dùng vũ lực, hoặc không
dùng vũ lực mà chỉ thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trong khi những
người khác dùng vũ lực thì trên thực tế đều bị truy cứu tội cướp tài sản với vai
trò người thực hành.
* Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản:
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói
hoặc hành động nhằm đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ
được thực hiện ngay. Ví dụ: hành vi dí dao vào cổ, dương súng đẻ bắn nếu
26
người bị hại không giao tài sản thì sẽ bị đâm, bắn ngay lập tức. Trong thực
tiễn áp dụng pháp luật, việc phân biệt giữa tội cướp tài sản và cưỡng đoạt tài
sản phụ thuộc rất nhiều việc xác định chuẩn xác hành vi đe dọa dùng vũ lực
"ngay tức khắc". Nếu đe dọa dùng vũ lực nhưng không "ngay tức khắc" thì đó
là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức khắc là ngay lập tức, không
chần chừ với ý thức làm cho nạn nhân tin rằng nếu nạn nhân không giao tài
sản cho người phạm tội thì sẽ bị dùng vũ lực ngay lập tức. "Khả năng này
không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành động của người phạm tội mà nó tiềm
ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội" [27, tr. 36]. Việc đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc với ý thức phải khiến nạn nhân bị tê liệt ý chí, không còn
khả năng kháng cự do sợ bị nguy hiểm tới tính mạng, sức khỏe của mình nên
phải giao nộp tài sản. Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đanh giá
người phạm tội có dùng vũ lực hay không, trong trường hợp người bị hại
không giao tài sản lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường người phạm tội
không bao giờ nhận mình sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người phạm tội
không giao tài sản hoặc không để mình lấy tài sản. Vì vậy, để xác định trường
hợp người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay không, ngoài lời
khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào các
tình tiết của vụ án, như: không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc xảy ra sự việc,
công cụ, phương tiện người phạm tội sử dụng, tương quan lực lượng giữa
hai bên…
* Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được:
Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được là hành vi không phải dùng vũ lực, không đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc nhưng lại làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể
chống cự được. Để xác định hành vi này, trước hết, phải xuất phát từ phía
người bị hại, phải là người bị tấn công nhưng không phải do hành vi dùng vũ
lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc mà bị tấn công bằng hành vi khác.