ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ VUI
TỘI BUÔN LẬU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG GIA ĐOẠN 2009 – 2013)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ Nội - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ VUI
TỘI BUÔN LẬU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG GIA ĐOẠN 2009 – 2013)
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trƣơng Quang Vinh
Hà Nội - 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 2014
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Vui
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang ra sức tập trung thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới và từng bước đưa đất nước vào thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá đất nước. Thành tựu đạt được trong những năm qua đã đưa đất nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng khá cao; nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được thiết lập; quan hệ quốc
tế được mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp từ nguồn nội lực của đất nước tăng lên nhiều, tình hình
chính trị, xã hội ổn định, được nhân dân và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tự đạt được, nền kinh tế thị trường cũng đã làm
nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, thêm vào đó là những sơ hở, thiếu sót của Nhà
nước ta trong quản lý kinh tế đã khiến cho nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có
mơi trường nảy sinh, phát triển trong đó có tội phạm bn lậu.
Bn lậu được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, không
chỉ làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, gây thất thu thuế cho Nhà nước mà
còn đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế đất nước, xã hội, ảnh hưởng khơng nhỏ
đến lợi ích của người tiêu dùng. Ở nước ta trong những năm gần đây hoạt
động buôn lậu diễn biến rất phức tạp với quy mô ngày càng rộng lớn, các vụ
buôn lậu bị phát hiện ngày càng nhiều, giá trị hàng phạm pháp có nhiều vụ lên
tới hàng tỷ đồng. Người phạm tội sử dụng nhiều thủ đoạn xảo quyệt hơn và
chúng luôn sẵn sàng manh động, chống người thi hành công vụ khi bị bắt quả
tang. Trước thực trạng bn lậu như trên có thể thấy rằng buôn lậu không chỉ
là một tệ nạn mà còn là một tội phạm nguy hiểm gây thiệt hại rất lớn cho Nhà
nước và xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ các dấu hiệu pháp lý và tình hình của
tội bn lậu nhằm phát hiện, đề xuất, kiến nghị giải quyết các vấn đề vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng luật hình sự về tội bn lậu là rất cần thiết. Xuất
4
phát từ nhận thức như vậy, tôi đã chọn đề tài "Tội bn lậu trong Luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Bắc Giang giai
đoạn 2009-2013)" làm đề tài nghiên cứu luận văn cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội
bn lậu dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Điển hình là một số cơng trình:
Bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đất liền
Việt – Trung. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu
tranh của Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh (Luận án Tiến sĩ của tác giả Vũ
Đình Nơng – 1997);
Đấu tranh phịng chống tội bn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới. (Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Bình - 2000);
Một số vấn đề về đấu tranh phòng chống tội buôn lậu (tác giả Ngô
Ngọc Thuỷ, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1995);
Tội bn lậu hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Luận văn thạc sĩ của tác
giả Trần Đức Thìn – 1996);
Đấu tranh phịng, chống tội bn lậu trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
(Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Dương Thị Nhàn, năm 2006);
Bên cạnh đó cịn có một số bài viết:
"Bn lậu và chống bn lậu" của tác giả Bùi Toản (Tạp chí Kiểm sát,
số 1 + 2 năm 1999, trang 56 - 58);
"Phịng, chống bn lậu trong lĩnh vực hải quan khi Việt Nam gia nhập
WTO" của tác giả Nguyễn Phi Hùng có bài viết (Tạp chí Quản lý nhà nước Học viện Hành chính Quốc gia, số 12/2006, trang 12 - 16).
Ngồi ra, cịn nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu của các tác giả khác
trên các tạp chí Hải quan, Cơng an nhân dân...Các cơng trình nghiên cứu trên
đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phịng, chống
tội bn lậu, đồng thời cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh chống bn lậu. Tuy nhiên, tình hình buôn lậu trong những
5
năm gần đây đã có những thay đổi với nhiều thủ đoạn phạm tội mới, các giải
pháp nêu ra trước đây trong điều kiện hiện nay ít phát huy tác dụng, khơng
mang tính thời sự. Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, tội buôn lậu đang diễn ra rất
phức tạp và thực tiễn xét xử về tội phạm này cũng gặp nhiều vướng mắc, tuy
đã có một số bài viết, cơng trình nghiên cứu về tội phạm này những vẫn cịn
mang tính chung chung và thơng tin cập nhật cịn nhiều hạn chế.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Tội bn lậu trong Luật hình sự Việt
Nam, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ lý luận về tội bn lậu, thực tiễn xét xử
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009-2013. Số liệu sử dụng để nghiên
cứu trong đề tài này là thống kê tội phạm của Tòa án nhân dân tối cao, Cơ
quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh.
6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở lý luận và thực tiễn
xét xử tội buôn lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nhằm đưa ra những đề xuất,
kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội bn lậu góp phần
nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang.
Để đạt được mục đích trên đây, nhiệm vụ cơ bản của luận văn cần phải
giải quyết đó là:
6
+ Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tội bn lậu trong Luật
hình sự Việt Nam.
+ Nghiên cứu đánh giá tình hình tội bn lậu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
+ Đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định pháp luật hình
sự Việt Nam về tội bn lậu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo
và phần phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về tội bn lậu trong Luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Tình hình tội bn lậu và thực tiễn xét xử tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2009 - 2013
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội bn lậu.
7
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI BUÔN LẬU
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung
1.1.1. Khái niệm tội bn lậu theo Luật hình sự Việt Nam
Tội phạm nói chung và tội bn lậu nói riêng là một hiện tượng tiêu cực của
xã hội mà nguồn gốc của nó là từ xã hội và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát
triển của xã hội. Mỗi một quốc gia, để bảo vệ lợi ích của nước mình, phù hợp với
tập quán thương mại quốc tế đều đưa ra những chính sách ngăn chặn và làm giảm
bớt tác hại của loại tội phạm này. Ở nước ta, trong những năm gần đây tình hình
bn lậu diễn ra rất phức tạp, tác động xấu tới sự phát triển kinh tế - xã hội như:
Gây thất thu thuế cho Nhà nước, đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, ảnh
hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng cũng như đến trật tự quản lý kinh tế.
Thuật ngữ “buôn lậu” đã xuất hiện từ lâu trong các văn bản của Nhà
nước ta. Thông tư số 33-VH/HS ngày 5-7-1958 của Bộ Tư pháp đã quy định
cụ thể việc xử lý bn lậu. Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa III) ngày
12/1/1974 cũng đã nhấn mạnh: “ Phải tìm cho ra và nghiêm trị bọn lưu manh,
trộm cắp, đầu cơ, buôn lậu chuyên nghiệp…” [39]. Vào thời điểm đó, theo từ
điển nghiệp vụ phổ thơng của Bộ Cơng an thì bn lậu được hiểu là: “mua
bán lén lút, trái phép những hàng hóa thuộc diện Nhà nước cấm vận hoặc
Nhà nước thống nhất quản lý”[40].
Theo “Từ điển tiếng Việt”, “buôn” được hiểu là việc mua đi bán lại một
loại hàng hóa nào đó nhằm kiếm lợi nhuận, “lậu” chỉ sự khơng chính đáng,
lén lút, trái pháp luật, “bn lậu là bn bán hàng hóa trốn thuế hoặc hàng
quốc cấm”[25]. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa thông thường chúng ta nhận
thấy, buôn lậu chỉ đơn giản là hành vi bn bán những mặt hàng cấm hoặc
những hàng hóa trốn đóng thuế theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó,
cuốn “Từ điển bách khoa Việt Nam” cũng giải thích về khái niệm buôn lậu
8
nhưng cụ thể hơn, rõ ràng hơn cách giải thích nói trên trong “Từ điển tiếng
Việt”: “Bn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại
hàng hóa hoặc ngoại tệ, kim khí và đá q, những vật phẩm thuộc về di tích
lịch sử, văn hóa, những hàng cấm xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc buôn bán
hàng hóa nói chung mà trốn thuế và trốn sự kiểm tra của Hải quan”[19], tuy
nhiên cách giải thích này vẫn chưa đúng hồn tồn với cách hiểu của Luật
hình sự Việt Nam về hành vi bn lậu.
Bộ luật hình sự Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999,
sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự 1999) quy
định tội bn lậu tại Điều 153: “Người nào bn bán trái phép qua biên
giới…hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí q, đá q có giá trị… vật
phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa,…hàng cấm có số lượng lớn…”
Căn cứ vào Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 có thể đưa ra khái niệm về
tội buôn lậu như sau: “Tội buôn lậu là hành vi buôn bán trái phép qua biên
giới quốc gia các loại hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý,
các loại vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, các loại hàng cấm nhằm mục
đích kiếm lời”.
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng giữa khái niệm “buôn lậu” hiểu theo
nghĩa thông thường và khái niệm “bn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam có
sự khác biệt. So với khái niệm “buôn lậu” trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” có
thể thấy rằng khái niệm “bn lậu” với ý nghĩa là một tội phạm trong Bộ luật
hình sự phải có yếu tố bắt buộc là “qua biên giới”, nếu hành vi buôn bán các
mặt hàng như kể trên mà khơng qua biên giới thì đó khơng phải là tội buôn
lậu, đồng thời, đối tượng của hành vi bn lậu theo Luật hình sự Việt Nam
được mở rộng hơn vì bên cạnh hàng hóa cấm, đối tượng của tội bn lậu
trong Bộ luật hình sự cịn bao gồm: hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim
khí q, đá q có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa. So với
9
khái niệm “buôn lậu” trong cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam thì khái niệm
“bn lậu” theo Luật hình sự Việt Nam cũng có điểm khác biệt về đối tượng
của tội bn lậu, trong Bộ luật hình sự, khơng chỉ có ngoại tệ mà cả tiền Việt
Nam cũng là đối tượng của tội buôn lậu, đồng thời tội buôn lậu trong Bộ luật
hình sự cịn có thêm dấu hiệu mục đích của người phạm tội là mục đích kiếm
lời, đây là một dấu hiệu giúp phân biệt giữa tội buôn lậu và tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
1.1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội buôn lậu
Tội buôn lậu với tính chất là một hiện tượng tiêu cực của xã hội đã gây
ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, khiến cho Nhà nước khơng kiểm sốt được hàng hóa xuất nhập khẩu,
gây thất thoát thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu hàng hóa; làm cho thị trường
hàng hóa bị rối loạn, mất ổn định, làm cho sự cạnh tranh trên thị trường thiếu
lành mạnh.
Để đấu tranh với hiện tượng tiêu cực này, Nhà nước ta đã đưa ra rất
nhiều biện pháp để ngăn chặn và tiến tới loại trừ hành vi này.
Nhận thức được tác hại của hành vi buôn lậu nên từ rất sớm, hoạt động
chống buôn lậu hàng hóa qua biên giới đã được các triều đại phong kiến Việt
Nam đề cao, coi trọng. Ngay từ thời Lê (thế kỷ XV) đã có luật pháp quy định
việc xử phạt đối với những hành vi buôn lậu. Điều 221 Bộ Quốc triều Hình
Luật quy định về việc chống buôn lậu đối với các quan lại như sau: “Các
quan vâng mệnh triều đình đi sứ nước ngồi mà chỉ lo bn bán thì phải tội
biếm hay đồ. Nếu là vật quý lạ, cùng là sách vở, và các thứ thuốc men, thì cho
phép được mua. Khi về nước đến quan ải phải khai rõ từng thứ; quan ở trấn
ấy, sai quan cấp dưới đệ trình các thứ đó về kinh để kiểm sốt; nếu có thứ gì
đáng dâng lên vua dùng, thì sẽ trả lại tiền mua thứ ấy; còn các thứ khác sẽ
trả lại cho người đi sứ. Nếu giấu giếm không khai thực hiện đều phải xử tội
10
biếm hay bãi chức, đồ vật sẽ bị tịch thu sung cơng” [41]. Điều 615 Bộ Quốc
triều Hình Luật cịn quy định: “Người ở Vân Đồn, chở hàng hóa Trung Quốc
lên kinh thành, mà khơng có giấy An Phủ ty cấp cho, khi đến bến Đông Triều
lại không đến kho Đề bạc ty kiểm soát, đã đem đi bán lén lút thì đều phải
biếm một tư và phạt tiền 100 quan; thưởng người tố cáo một phần ba (số tiền
phạt). Nếu đem “hàng hóa đến các nơi làng mạc bán giấu giếm thì xử biếm
ba tư và phạt tiền 200 quan; thưởng cho người tố cáo một phần ba…”[42].
Năm 1802 với sự ra đời của triều Nguyễn, Vua Gia Long đã ban hành Hồng
Việt Luật lệ (cịn gọi là bộ luật Gia Long), trong bộ luật này, tội buôn lậu
cũng được quy định nhưng chưa rõ ràng, cụ thể là tại Điều 133 Hoàng Việt
Luật lệ quy định: “Phàm là thuyền to của khách buôn từ biển cả cập bến thì
phải kê khai thiệt, hết tất cả các hàng hóa cho quan trích lấy một phần. Nếu
ghé vào bến thấp lầy của các nhà mối lái để buôn bán với họ mà khơng báo
thì phạt 100 trượng. Tuy có khai báo mà khơng khai báo thiệt thì như tội trên.
Các hàng hóa khơng báo và báo khơng hết, cho nhập vào quan, ai cất giấu thì
chịu cùng tội. Ai chỉ bắt được thì được thưởng bạc 20 lạng”[28]. Như vậy, có
thể thấy rằng ngay từ thời phong kiến, mặc dù hành vi mua bán trái phép qua
biên giới không được định nghĩa rõ ràng là hành vi buôn lậu như Bộ luật hình
sự hiện nay nhưng với những quy định trên cũng đã chứng tỏ rằng trong xã
hội phong kiến tác hại của bn lậu đã được nhìn nhận và quan tâm.
Sau Cách mạng Tháng tám 1945, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một
số văn bản pháp luật đấu tranh chống loại tội phạm này. Văn bản pháp luật
hình sự đầu tiên phải kể đến đó là Sắc lệnh số 45 ngày 9/10/1945 do Chủ Tịch
Hồ Chí Minh ký quy định cấm xuất cảnh kho thóc, gạo, ngơ, đỗ hoặc các chế
phẩm thuộc về ngũ cốc, quy định này nhằm góp phần đẩy lùi nạn đói năm
1945. Sau đó, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật nhằm đấu
tranh với loại tội phạm này và một trong những văn bản quan trọng phải kể
11
đến đó là “Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép” ban hành ngày 30/6/1982. Khác với các văn bản trước đó,
Pháp lệnh ngày 30/6/1982 đã quy định rõ ràng một tội danh với các dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của nó, có thể nói, tại văn bản này khái niệm tội bn lậu
mới chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước.
Trong pháp lệnh ngày 30/6/1982, tội buôn lậu được quy định ở hai điều luật
khác nhau: Điều 3 – “Tội buôn lậu, tàng trữ hàng cấm” là hành vi: “…Buôn
lậu, tàng trữ vàng bạc, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các
hàng hóa khác mà Nhà nước cấm bn bán, tàng trữ…” và Điều 4 – Tội
buôn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới là hành vi:
“Buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới…”[18] (hàng hóa ở đây được hiểu là mọi hàng hóa ngồi những loại
hàng hóa được coi là hàng cấm được quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh). Đối
với hành vi buôn bán trái phép hoặc vận chuyển hàng hóa qua biên giới, nếu
có mục đích kinh doanh thì đó là bn lậu, nếu khơng có mục đích kinh
doanh thì được coi là vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Bn lậu
thời kỳ này được quan niệm như là một tội phạm về kinh tế.
Trước bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng có sự phát triển mạnh
mẽ, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nhưng kéo theo đó là tình
hình tội phạm cũng có xu hướng tăng, thủ đoạn xảo quyệt hơn và diễn biến
ngày càng phức tạp, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 quy
định cụ thể, đồng thời thống nhất về tội phạm và hình phạt để đáp ứng cơng
cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm trong hồn cảnh mới, trong đó có tội
phạm bn lậu. Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đã đánh dấu bước
phát triển mới của ngành lập pháp hình sự nước ta. Trong Bộ luật hình sự năm
1985 (với 4 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) tội
buôn lậu được quy định trong cùng một điều luật với tội vận chuyển trái phép
12
hàng hóa tiền tệ qua biên giới tại Điều 97 với tên gọi “Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”. Điều 97 Bộ luật hình sự
năm 1985 được quy định như sau:
“1. Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên
giới hàng hóa, tiền tệ Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hóa thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt từ năm năm
đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn hoặc giá trị lớn; thu lợi bất chính lớn;
c) Lợi dụng chiến tranh;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội;
đ) Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Trong thời kỳ này, Tội bn lậu hoặc tội vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới lại được quan niệm là một tội phạm thuộc nhóm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia.
Sau hơn 10 năm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985
trong đó có tội bn lậu đã bộc lộ nhiều bất cập. Trước tình hình này ngày
21/12/1999 tại kỳ họp lần thứ VI – Quốc hội khóa X đã thơng qua Bộ luật
hình sự mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000 (sau đây gọi là Bộ luật
hình sự 1999) thay thế Bộ luật hình sự 1985. Bộ luật hình sự 1999 (gần đây
mới sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) đã tách riêng tội buôn lậu và tội vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và quy định hai tội này ở hai điều
luật khác nhau trong đó tội bn lậu được quy định tại Điều 153 với nội dung:
“Người nào buôn bán trái phép qua biên giới… hàng hóa, tiền tệ Việt Nam,
13
ngoại tệ, kim khí q, đá q có giá trị… vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn
hóa…hàng cấm có số lượng lớn…”. Bộ luật hình sự 1999 coi tội bn lậu
thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản
lý trong lĩnh vực xuất - nhập khẩu. Việc các nhà làm luật quy định như vậy là
phù hợp với bản chất kinh tế của tội bn lậu, điều đó đã góp phần khơng
nhỏ trong việc giúp chúng ta nhận thức về loại tội phạm này cũng như có
những biện pháp đấu tranh đề ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi tội phạm bn lậu.
Tóm lại, bn lậu được coi là một tội phạm có tính truyền thống, nó
cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử. So với các giai đoạn trước
tội bn lậu trong Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung cả về dấu hiệu
pháp lý cũng như đường lối xử lý, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
của loại tội phạm này trong từng trường hợp cụ thể, đồng thời đáp ứng yêu
cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới.
1.1.3. Tội bn lậu trong Bộ luật hình sự của một số nước trên
thế giới
Nghiên cứu luật hình sự của một số nước trên thế giới có thể thấy rằng
tội buôn lậu cũng được quy định trong Bộ luật hình sự của một số nước trong
khu vực và trên thế giới cụ thể là:
Trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga (trước đây) thì các nhà làm
luật đã đồng nhất hành vi buôn lậu với hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới, khơng đề cập đến việc người phạm tội có mục đích bn bán
hay khơng. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga hiện nay,
quan niệm về tội buôn lậu đã có sự khác biệt so với trước đây. Sau khi bãi bỏ
độc quyền Nhà nước về ngoại thương, nhận thức về bản chất xã hội của việc
vận chuyển hàng hóa, tiền tệ trái phép qua biên giới đã thay đổi. Trong Bộ
luật hình sự mới của Liên bang Nga thơng qua ngày 24/11/1995, tội buôn lậu
được quy định tại Điều 186 như sau: “Buôn lậu là đưa hàng qua biên giới hải
quan của Liên bang Nga bằng thủ đoạn không khai báo hay trốn tránh sự
kiểm soát hải quan hoặc sử dụng các tài liệu giả mạo, khai báo gian dối hoặc
14
không đầy đủ các chất ma túy, các chất hướng thần, chất có tác dụng mạnh,
chất độc, chất nổ, chất phóng xạ hay vũ khí, vật liệu nổ, loại súng, phương
tiện chiến tranh, vũ khí hạt nhân, hóa học, vũ khí vi trùng hoặc các loại vũ khí
giết người hàng loạt khác mà khi đưa ra khỏi Liên bang Nga phải tuân thủ
các quy định đặc biệt” [8]. Theo đó, tội buôn lậu ở đây được hiểu là sự vận
chuyển trái phép qua biên giới các chất ma túy, các loại chất độc, chất phóng
xạ, thuốc nổ, vũ khí…
Bộ luật hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ban hành năm 1979
khơng có quy phạm định nghĩa về tội buôn lậu mà quy định tội buôn lậu, đầu cơ
trong cùng một điều luật (Điều 118), trong chương III – “Các tội phá hoại trật tự
kinh tế Xã hội chủ nghĩa”: “Người có hành vi bn lậu, đầu cơ chun nghiệp
với số lượng rất lớn, hoặc người chủ mưu trong tổ chức buôn lậu, đầu cơ bị phạt
tù từ ba đến mười năm, đồng thời có thể bị tịch thu tài sản”[4] . Để đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, Bộ luật hình sự của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được sửa đổi, bổ sung năm 1997 đã quy định tội
buôn lậu tại Mục 2, Chương III – Tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội
chủ nghĩa từ Điều 151 đến Điều 157 nhưng cũng chỉ liệt kê những hành vi bị coi
là bn lậu mà chưa có quy phạm định nghĩa tội bn lậu.
Nghiên cứu Luật hình sự của nước ta với Luật hình sự của Cộng hịa
nhân dân Trung Hoa và Liên bang Nga cho thấy quan niệm về khách thể của
tội buôn lậu của các nhà làm luật có sự giống nhau. Trong Bộ luật hình sự của
Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1979, tội bn lậu thuộc Chương 3 –
“Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa”, đến Bộ luật
hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa năm 1979, tội buôn lậu vẫn được
quy định tại Chương 3 – “Các tội xâm phạm trật tự kinh tế thị trường Xã hội
chủ nghĩa” . Trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga, tội bn lậu được đưa
vào nhóm các tội phạm về kinh tế và được quy định tại Điều 186. Như vậy,
Luật hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Nga đều coi
khách thể của tội buôn lậu là trật tự quản lý kinh tế.
15
1.2. Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội bn lậu theo Luật hình sự
Việt Nam
Cũng như các tội phạm nói chung, về mặt cấu trúc, tội bn lậu được
cấu thành bởi bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan
của tội phạm. Bốn yếu tố này có mối liên hệ biện chứng, khơng thể tách rời
biệt lập với nhau, tổng hợp lại cùng xác định tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi bn lậu, thiếu bất kỳ yếu tố nào cũng khơng cịn là tội phạm bn
lậu. Do vậy, để có thể hiểu rõ bản chất của loại tội phạm này thì việc nghiên
cứu tách biệt mỗi yếu tố là cần thiết nhưng tất nhiên điều này chỉ có ý nghĩa
về mặt lý luận còn trong điều tra thực tiễn, truy tố, xét xử, việc xem xét bốn
yếu tố này phải được tiến hành đồng thời trong một thể thống nhất thì mới
đảm bảo đánh giá một cách tồn diện, đầy đủ, chính xác về tội buôn lậu.
1.2.1. Khách thể của tội buôn lậu
Theo Luật hình sự Việt Nam, bn lậu là hành vi bn bán hàng hóa,
tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý các loại vật phẩm thuộc di tích
lịch sử, văn hóa, các loại hàng cấm qua biên giới một cách trái phép, theo đó,
khách thể bị xâm hại của tội buôn lậu là các quy định pháp luật của Nhà nước
về bn bán hàng hóa qua biên giới mà cụ thể là xâm phạm trật tự quản lý
Nhà nước về ngoại thương (xuất – nhập khẩu hàng hóa) [33].
Trước đây theo quy định tại Điều 97 Bộ luật hình sự năm 1985, tội bn
lậu được quy định trong chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tuy nhiên đến
nay Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 153 tội buôn lậu được chuyển về chương XVI –
“Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”, điều này thể hiện quan điểm đúng đắn
của các nhà lập pháp hình sự, phản ánh đúng được bản chất kinh tế của hành vi
phạm tội bn lậu vì mục đích mà người phạm tội buôn lậu muốn đạt tới chỉ đơn
thuần là mục đích kinh tế chứ khơng phải là xâm hại an ninh quốc gia như trước
kia quy định.
16
Theo quy định tại Điều 153 Bộ luật hình sự 1999, đối tượng của hành
vi phạm tội buôn lậu rất đa dạng, bao gồm các loại hàng hóa, tiền Việt Nam,
ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vật phẩm, thuộc di tích lịch sử, văn hóa và các
loại hàng cấm. Cụ thể như sau:
Hàng hóa: là sản phẩm được làm ra trong q trình sản xuất, có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi trên thị trường.
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Trên thực tế, hàng hóa
có thể là hàng tiêu dùng cần thiết cho đời sống hằng ngày của con người như
tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe máy,… hoặc những tư liệu sản xuất như máy móc,
thiết bị,… Như vậy, hàng hóa với tư cách là đối tượng của tội phạm buôn lậu
là một khái niệm có nội hàm rất rộng, bao gồm tất cả các sản phẩm, chỉ trừ
một số loại hàng hóa do tính chất đặc biệt đã được quy định là đối tượng của
các tội phạm khác như: Các chất ma túy, vũ khí quân dụng và phương tiện kỹ
thuật, vũ khí thơ sơ và cơng cụ hỗ trợ, chất phóng xạ,…
Tiền Việt Nam: Đồng tiền trong tội buôn lậu không thực hiện chức
năng trao đổi hay thanh tốn thơng thường mà nó được coi là hàng hóa, là đối
tượng của hành vi mua bán. Tiền là đối tượng của tội buôn lậu phải là tiền
Việt Nam hiện hành (do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành). Các
đồng tiền Việt Nam đang lưu hành hiện nay là tiền giấy và tiền kim loại [22].
Ngoại tệ: Trên thực tế, ngoại tệ được hiểu là tiền nước ngồi, khơng
phải là đồng tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. Có thể hiểu
ngoại tệ là các loại tiền do nước ngoài phát hành bao gồm: tiền giấy, tiền bằng
kim loại còn hiệu lực lưu hành.
Kim khí quý: Là các loại kim khí thuộc loại quý hiếm dạng tự nhiên
hoặc các chế phẩm làm từ kim khí quý theo danh mục do Nhà nước Việt Nam
ban hành như: vàng, bạc, bạch kim… Theo quy định tại Điều 3 Điều lệ quản
lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988 thì kim
khí q bao gồm: Vàng, bạc và các kim loại thuộc nhóm bạch kim.
17
Đá quý: Là các loại đá tự nhiên và các loại thành phần từ đá quý theo
danh mục Nhà nước Việt Nam ban hành. Theo quy định tại Điều 1 Quy chế
quản lý các hoạt động điều tra địa chất, khai thác mỏ, chế tác và buôn bán đá
quý ngày 7/10/1993 của Chính phủ thì “đá q là các loại ngọc tự nhiên như
rubi, kim cương, saphia, eromot và các loại đá quý tự nhiên khác có giá trị
tương đương”.
Vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa: Theo khoản 3 Điều 4
Luật di sản văn hóa được Quốc hội thơng qua ngày 29/6/2001 quy định
thì “di tích lịch sử văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học”[20].
Tuy nhiên, Luật di sản văn hóa lại khơng quy định thế nào là vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hóa của Luật di sản văn hóa thì có thể thấy rằng vật
phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa bao gồm: di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Các vật phẩm thuộc di tích lịch sử văn hóa chính là những sản phẩm vật chất
có giá trị văn hóa, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của dân tộc ta vào những thời kỳ
lịch sử nhất định và được lưu giữ đến nay. Theo quy định tại khoản 5,6,7
Điều 4 Luật di sản văn hóa được Quốc hội thơng qua ngày 29/6/2001 thì:
“…5. Di vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
6. Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử
văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
7. Bảo vật quốc gia là hiện vật được truyền lại, có giá trị đặc biệt quý
hiếm, tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Hàng cấm: Là những loại hàng hóa mà Nhà nước cấm bn bán trên
lãnh thổ Việt Nam và cấm xuất – nhập khẩu. Ở tội buôn lậu có thể hiểu rằng
hàng cấm là những hàng thuộc phạm vi quy định của Điều 155 Bộ luật hình
sự 1999. Danh mục các loại hàng cấm không cố định mà có sự thay đổi ở mỗi
18
giai đoạn nhất định phù hợp với tình hình thực tế và sự chuyển đổi của nền
kinh tế. Hiện nay theo Phụ lục 1 – Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh (Ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 10/06/2006
của Chính phủ) có quy định cụ thể về 18 loại hàng hóa cấm kinh doanh, ví dụ:
Vũ khí quân dụng, trang thiết bị kỹ thuật, khí tài…; các sản phẩm văn hóa
phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan hoặc có hại tới giáo dục thẩm mỹ, nhân
cách, các chất ma túy, các loại pháo;… Tuy nhiên theo quy định của Bộ luật
hình sự 1999, thì một số hàng cấm đã là đối tượng của các tội phạm khác thì
sẽ khơng là đối tượng của tội bn lậu như: Điều 193 – Tội sản xuất trái phép
chất ma túy; Điều 195 – Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt
chất ma túy dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy;…
1.2.2. Mặt khách quan của tội buôn lậu
Cũng như bất cứ tội phạm nào, mặt khách quan của tội buôn lậu là tập
hợp tất cả những biểu hiện bên ngồi của tội bn lậu diễn ra hoặc tồn tại bên
ngoài thế giới khách quan mà con người có thể nhận biết được, cho phép đánh
giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bn lậu, đồng thời
đó cũng là căn cứ để phân biệt tội phạm buôn lậu với các tội khác.
Hành vi khách quan của tội buôn lậu
Hành vi khách quan của tội phạm là xử sự của con người đã gây ra và
đe dọa gây ra cho xã hội, hành vi phạm tội chỉ có thể được biểu hiện qua hai
hình thức đó là hành động hoặc khơng hành động. Theo quy định của Bộ luật
hình sự 1999, mặt khách quan của tội buôn lậu được thể hiện ở hành vi buôn
bán trái phép qua biên giới hàng hóa, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí q, đá
q, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm.
Hành vi buôn bán trái phép qua biên giới các mặt hàng trên của người
phạm tội là hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để trao đổi
trái phép với các quy định của Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên
19
giới như: Vận chuyển hàng hóa qua cửa khẩu mà không khai báo hoặc khai
báo một cách gian dối; giấu giếm hàng hóa, tiền tệ; khơng có giấy tờ hợp lệ,
sử dụng các giấy tờ giả mạo của các cơ quan có thẩm quyền; vận chuyển hàng
hóa bí mật, lén lút không qua cửa khẩu để trốn tránh sự phát hiện của cơ quan
Nhà nước, có thẩm quyền (Hải quan, Bộ đội biên phịng, các lực lượng tuần
tra, kiểm sốt khác…). Hành vi này có thể được thực hiện bằng đường bộ,
đường thủy, đường không hoặc đường bưu điện [34]. Cụ thể như sau:
+ Hành vi không khai báo thể hiện ở việc người buôn bán các mặt hàng
kể trên qua biên giới nhưng không thực hiện nghĩa vụ khai báo với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền về chủng loại, số lượng theo đúng quy định, người
phạm tội có thể bằng cử chỉ, lời nói từ chối thẳng thừng việc khai báo hoặc
không chịu ghi vào tờ khai hải quan theo các mục của Hải quan yêu cầu…
+ Khai báo gian dối là hành vi người buôn bán hàng hóa, tiền tệ, kim
khí, đá q, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa hoặc hàng cấm qua
biên giới quốc gia tuy có khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhưng sự khai báo đó khơng phù hợp với thực tế số lượng, chủng loại nhằm
đánh lừa các cơ quan đó. Biểu hiện cụ thể của hành vi này có thể là: Khai báo
khơng đúng về số lượng, chủng loại; hàng mới khai là hàng cũ; hàng cấm xuất
– nhập khẩu lại khai là hàng được phép xuất – nhập khẩu; hàng bị đánh thuế
cao lại khai là loại hàng bị đánh thuế thấp…
Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, Trần Đàm và đồng bọn đã mua
chuộc, hối lộ cả Phịng chống bn lậu Hải quan thành phố Hồ Chí Minh và
một số lãnh đạo Cục Hải quan các tỉnh Cần Thơ, Long An, Thừa Thiên Huế
để nhập lậu hàng trăm Công tơ nơ hàng điện tử, nhưng lại mở tờ khai hải
quan là máy nơng cụ.
Tinh vi hơn, có trường hợp lợi dụng sự quan lý yếu kém của Nhà nước
và sự kém hiểu biết của cán bộ các ngành đã móc ngoặc ngay trong việc xin
20
cấp giấy phép nhập hàng hoá, khi Hải quan phát hiện có hiện tượng khơng bình
thường nhưng cũng khơng có cách nào quy kết được đó là bn lậu hay khơng
bn lậu. Ví dụ: Nguyễn Thị Mỹ Phượng mua lại các giấy phép của Bộ thương
mại cấp cho các doanh nghiệp được nhập khẩu một lượng lớn xe máy đã qua
sử dụng. Sau đó Mỹ Phượng cử người ra nước ngồi mua nhiều lơ xe máy mới
khác nhau, rồi u cầu chủ hàng phải làm cũ một vài chi tiết của xe như: đồng
hồ đo km/h đã chỉ 23, 30, 40..., làm bẩn sơn xe, làm móp ống bơ, làm xướt sơn,
làm hư một vài bóng đèn chiếu sáng.v.v...rồi nhập về Việt Nam.
+ Giả mạo giấy tờ là việc người bn bán các loại hàng hóa, tiền tệ,
kim khí, đá q, vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hóa, hàng hóa cấm qua
biên giới quốc gia tuy có xuất trình giấy tờ nhưng đó là giấy tờ giả mạo hoặc
giấy tờ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng có được bằng con đường
gian dối hoặc sử dụng khơng đúng với mục đích cấp nó.
Khơng có giấy tờ hợp lệ được hiểu là khơng có giấy phép xuất – nhập
khẩu theo hạn ngạch và các giấy tờ cần thiết khác theo quy định của Nhà
nước hoặc có giấy phép xuất - nhập khẩu và các giấy tờ cần thiết khác nhưng
lại khơng đúng với hàng hóa quy định trong giấy phép đó hoặc tuy có xuất
giấy phép xuất – nhập khẩu nhưng giấy phép đó lại khơng phải do người có
thẩm quyền cấp hoặc giấy phép đó là giả mạo.
+ Hành vi trốn tránh sự kiểm soát của Hải quan hay các cơ quan quản lý
cửa khẩu biển hiện ở việc đi đường tắt qua biên giới, không qua trạm kiểm
soát, lợi dụng sơ hở của các lực lượng chống bn lậu để đưa hàng hóa qua
biên giới Việt Nam. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới quốc gia đều là hành vi bn lậu và cấu thành tội bn lậu (ví dụ
như bn bán hàng hóa qua biên giới mang tính chất trao đổi, phục vụ đời sống
hàng ngày với số lượng khơng đáng kể thì khơng coi là phạm tội buôn lậu).
21
Mặc dù Luật hình sự khơng quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của
tội buôn lậu nhưng điều đó khơng có nghĩa là hậu quả khơng xảy ra. Thực tế
cho thấy hành vi buôn lậu gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
nội địa, gây thất thu thuế của Nhà nước, gây mất ổn định thị trường… Hậu
quả tuy khơng có ý nghĩa quyết định trong việc định tội song việc xác định
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi buôn lậu và hậu quả có ý nghĩa
quan trọng trong việc giải quyết trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt
đối với người thực hiện hành vi phạm tội, nếu hậu quả do hành vi bn lậu
gây ra là ít nghiêm trọng thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo khung hình phạt có mức tương ứng với hậu quả đó.
Các dấu hiệu khách quan khác của tội bn lậu
Ngồi hành vi khách quan đối với tội bn lậu, một dấu hiệu khách
quan khác có tính chất bắt buộc của cấu thành tội phạm này đó là địa điểm
thực hiện hành vi phạm tội, nếu thiếu dấu hiệu này thì dù một người có hành
vi bn bán trái phép hàng hóa, tiền tệ, kim khí, đá q, vật phẩm thuộc di
tích lịch sử, văn hóa, hàng hóa cấm cũng không phải là hành vi buôn lậu.
Điều 153 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “người nào bn bán trái
phép qua biên giới…”, theo đó, địa điểm phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội bn lậu đó là “qua biên giới”. Nếu người phạm tội thực hiện
hành vi bn bán trái phép hàng hóa khơng qua biên giới thì khơng cấu thành
tội bn lậu mà tùy vào từng trường hợp hành vi phạm tội đó cấu thành tội
sản xuất, tàng trữ, vận chuyển buôn bán hàng cấm (Điều 155 Bộ luật hình sự)
hay tội kinh doanh trái phép (Điều 159 Bộ luật hình sự). Vấn đề đặt ra là phải
xác định rõ khái niệm biên giới trong cấu thành tội phạm này.
Khái niệm “biên giới” ở đây khơng chỉ được quan niệm máy móc là
đường giáp ranh giữa hai quốc gia mà còn được hiểu theo nghĩa rộng là hàng
rào biên giới thuế quan, vùng kiểm soát của Bộ đội biên phòng, An ninh cửa
22
khẩu, vùng kiểm tra của Hải quan trên tất cả các tuyến đường (đường bộ,
đường thủy, đường hàng không, đường xe lửa, đường bưu điện quốc tế) ở mọi
khu vực (kể cả các khu chế xuất).
Vì vậy, việc xác định “qua biên giới” khơng có ý nghĩa là chỉ căn cứ
vào việc xác định hành vi bn lậu mà cịn căn cứ vào hàng rào kiểm sốt
hàng hóa qua biên giới của các cơ quan quản lý như: Hải quan sân bay, Hải
quan các cửa khẩu khác, địa điểm của các cơ quan này có khi là những địa
điểm nằm sâu trong lãnh thổ nước ta do đó, hành vi bn lậu vẫn xảy ra.
Chính vì vậy, để xác định hàng hóa đã qua biên giới hay chưa nên căn cứ vào
việc hàng hóa đó đã thốt khỏi sự kiểm sốt của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về xuất – nhập khẩu hàng hóa đó hay chưa? Hàng hóa có thể là hàng
xuất khẩu hoặc hàng nhập khẩu nên cần phân biệt hai trường hợp:
+ Đối với hàng nhập khẩu: Chỉ khi nào người bn lậu đưa hàng hóa
qua biên giới quốc gia thì mới cấu thành tội bn lậu. Trường hợp khi hàng
hóa đã nhập vào nội địa mới bị phát hiện nếu có đủ căn cứ chứng minh là đã
nhập trái phép nhằm buôn bán kiếm lời thì cũng cấu thành tội bn lậu. Nếu
hàng hóa mới được đưa tập kết gần đường biên giới nhưng chưa đưa vào
nước ta thì khơng coi là tội phạm hồn thành vì hàng nhập khẩu vẫn cịn đang
nằm ngồi sự kiểm soát của ta.
+ Đối với hàng xuất khẩu: Khi người phạm tội đưa hàng hóa qua khu
vực kiểm sốt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và bị phát hiện thì coi là
thỏa mãn dấu hiệu qua biên giới và bị coi là phạm tội buôn lậu. Trường hợp
người phạm tội đã đưa hàng hóa trót lọt ra ngồi biên giới sau đó mới bị phát
hiện thì cũng cấu thành tội phạm này.
1.2.3. Chủ thể của tội buôn lậu
Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm được hiểu là con
người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội vào thời điểm họ có năng lực trách
23
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội bn lậu chỉ
cần là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đến độ tuổi nhất định theo
quy định của pháp luật.
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực nhận thức và điều khiển hành
vi. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để có thể xác định con
người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng
lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực
trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có
khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có khả
năng điều khiển được hành vi ấy. Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo
luật hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12
Bộ luật hình sự 1999) và khơng thuộc trường hợp ở trong tình trạng khơng có
năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật hình sự 1999) [33].
Trong tội bn lậu, người phạm tội là người có năng lực trách nhiệm
hình sự tức là họ nhận thức được hành vi buôn bán trái phép qua biên giới
quốc gia là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm thực hiện và họ hồn tồn
có khả năng điều khiển hành vi của mình để khơng thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đó nhưng họ vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó có
nghĩa là người phạm tội hồn tồn có tự chủ và ý thức rõ ràng về hành vi
nguy hiểm cho xã hội khi thực hiện nó.
Bên cạnh năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội phạm nói chung
cũng như tội bn lậu nói riêng cịn phải là người đạt đến độ tuổi nhất định.
Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
sau: “Người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm;
người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
24
trọng”. Đồng thời theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự có quy định: “…tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây ra nguy hại rất lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình”. Đối chiếu giữa Điều 153 với Điều 152 và khoản 3
Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 có thể thấy rằng: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu trong các trường hợp quy định tại
khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, còn người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội buôn lậu
trong các trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 của điều luật.
Qua những phân tích ở trên có thể thấy rằng chủ thể của tội bn lậu
theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam bao gồm: Cơng dân Việt Nam,
người nước ngồi, người khơng quốc tịch có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định. Bên cạnh việc thỏa mãn điều kiện về năng lực trách
nhiệm hình sự và độ tuổi thì chủ thể của tội bn lậu cịn phải thỏa mãn điều
kiện: Nếu vật phạm pháp là hàng hóa, kim khí quý, đá quý dưới 100 triệu
đồng hoặc hàng cấm có số lượng chưa lớn, người phạm tội phải là người đã bị
xử phạt hành chính về hành vi bn lậu hoặc hành vi quy định tại một trong
các điều 154,155,156,157,158,159,160,161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết
án về một trong các tội này chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm mới cấu
thành tội bn lậu.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội buôn lậu
Cũng như các tội khác, khi xem xét dấu hiệu thuộc mặt chủ quan chúng
ta cần làm rõ ba dấu hiệu:
Lỗi của người phạm tội
Đối với tội buôn lậu, tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp vì:
25