Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.83 KB, 91 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ DIỆU HƢƠNG


ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN
HÌNH SỰ
MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH
NIÊN


Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ





HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Diệu Hƣơng





MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG
MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 7
1.1. CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7
1.2. ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MÀ BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 9
1.2.1. Khái niệm “Ngƣời chƣa thành niên”, “ngƣời chƣa thành niên
phạm tội”, “bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên” 9
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự
mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên 15
1.2.3. Nội dung của đối tƣợng chứng minh trong vụ án mà bị can, bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên 22
1.3. CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN 26
1.3.1. Đặc điểm tâm – sinh lý của ngƣời chƣa thành niên. 26
1.3.2. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự 28
1.3.3. Sự công bằng, khách quan khi giải quyết vụ án hình sự 29
1.4. ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN TRONG
PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC 30



1.4.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Nga về đối tƣợng
chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên 30
1.4.2. Những quy định của luật tố tụng hình sự của nƣớc Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa về đối tƣợng chứng minh 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 35
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ
ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 36
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỐI
TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ
CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 36
2.1.1. Quy định của pháp luật về đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình
sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên trƣớc năm 2003 36
2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về đối tƣợng
chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên phạm tội 42
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 55
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 60
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM THỰC THI ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI
TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ
CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 61
3.1. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI
TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ
CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 61



3.1.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về ngƣời chƣa thành niên phạm tội 61
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự đối với ngƣời chƣa thành niên 65
3.2. THÀNH LẬP TÒA ÁN CHO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN 71
3.3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA
THÀNH NIÊN 73
3.3.1. Tăng cƣờng sự hƣớng dẫn các quy định pháp luật có liên quan
đến đối tƣợng chứng minh 73
3.3.2. Nghiên cứu và sớm ban hành một số luật có liên quan đến việc
giải quyết vụ án hình sự 74
3.3.3. Đổi mới công tác sắp xếp cán bộ, đầu tƣ phƣơng tiện kỹ thuật
hình sự 75
3.3.4. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật 76
3.3.5. Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp của những ngƣời tiến hành tố tụng 77
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 78
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81




DANH MỤC BẢNG

Stt
Số hiệu
bảng
Tên bảng

Trang
1
Bảng 1.1:
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số
quốc gia trên thế giới
11
2
Bảng 2.1:
Tổng số vụ án và vụ án ngƣời chƣa thành niên bị
xét xử sơ thẩm ở Việt Nam từ năm 2009 – 2013
56






1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự việc xác định đối tƣợng chứng minh có vai trò rất
quan trọng để có thể phát hiện nhanh chóng, xử lý chính xác, công minh
ngƣời phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan ngƣời vô tội, góp
phần nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đối với vụ
án mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên phạm tội thì ngoài việc xác định
những vấn đề cần chứng minh có tính chất bắt buộc chung nhƣ đối với các vụ
án hình sự thông thƣờng thì Cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh
những tình tiết đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003. Những tình tiết này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong vụ án mà
bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên bởi nó không chỉ giúp cơ quan có
thẩm quyền xác định tội phạm, có các biện pháp xử lý phù hợp mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội
của ngƣời chƣa thành niên để từ đó có các biện pháp phòng ngừa.
Có thể nói, ngƣời chƣa thành niên là một trong những nhóm ngƣời đặc
biệt, cần đƣợc bảo vệ. Bởi vậy việc đặt ra các quy định pháp luật hình sự,
pháp luật tố tụng hình sự nói chung và quy định về đối tƣợng chứng minh
trong vụ án ngƣời chƣa thành niên nói riêng là vô cùng cần thiết.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do xác định đối tƣợng chứng minh của
từng vụ án ngƣời chƣa thành niên phạm tội không chính xác, thiếu… nên dẫn
đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để
điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án sai sót, không
phù hợp với quy định của pháp luật, ảnh hƣởng tới quyền lợi hợp pháp và cần
đƣợc bảo vệ đặc biệt của những ngƣời chƣa thành niên. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này nhƣ: quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
đối tƣợng chứng minh, nhất là đối tƣợng chứng minh trong vụ án ngƣời chƣa


2
thành niên phạm tội còn có những điểm bất cập, trình độ nhận thức chƣa cao,
ý thức chấp hành pháp luật chƣa nghiêm của ngƣời tiến tiến hành tố tụng…
Bởi vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn về đối tƣợng chứng minh trong vụ án ngƣời chƣa thành niên phạm tội,
đánh giá thực trạng quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tƣợng
chứng minh trong vụ án ngƣời chƣa thành niên phạm tội và thực tiễn hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Việt Nam liên quan đến vấn
đề này là cần thiết. Từ đó, chúng ta có thể đề ra giải pháp hoàn thiện về mặt
lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án
hình sự chƣa thành niên phạm tội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang

tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự. Đây
cũng là lý do tác giả chọn đề tài “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” làm luận án thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Về “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên” trong một số giáo trình luật tố tụng hình sự của một
số trƣờng đại học cũng nhƣ một số luận án đề cập đến dƣới góc độ là một vấn
đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu cầu, mục đích của việc nghiên cứu
chứ không tập trung chính vào đối tƣợng chứng minh hay việc đề cập đến đối
tƣợng chứng minh mới chỉ dừng ở việc phục vụ cho học tập cơ bản để hiểu về
vấn đề… nên việc nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất định, mang tính
khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hạn nhƣ: trong Giáo trình luật tố tụng hình
sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2000, ở Chƣơng III -
Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm đối tƣợng chứng minh và phân loại đối
tƣợng chứng minh. Trong khoá luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài:
“Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam”của tác giả Phạm Thế Lực -
K41B - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, có đề cập đến: những vấn đề


3
cần phải chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam. Trong khoá luận tốt
nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: “Đối tượng chứng minh và phương tiện
chứng minh trong vụ án giết người”của tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C -
Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, có đề cập đến: đối tƣợng chứng minh
trong vụ án hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm, nội dung và phân
loại đối tƣợng chứng minh - Nhƣng việc nghiên cứu chƣa thật sâu sắc và toàn
diện. Trong luận án Tiến sỹ Luật học về đề tài “Thu thập, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Đỗ Văn Đƣơng - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tƣợng chứng minh -
nhƣng đây không phải là đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả

cũng chỉ giải quyết vấn đề một cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ
của nó với các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ cho việc
nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án; hay nhƣ: Luận văn thạc sĩ
luật học của Đỗ Thị Phƣợng, Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (2003);… Nhƣ
vậy, có thể nói rằng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
sâu sắc về đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt về vấn
đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tƣợng chứng minh vụ án hình sự
mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về đối tƣợng chứng minh trong các vụ án ngƣời chƣa
thành niên phạm tội.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự
nƣớc ta về đối tƣợng chứng minh trong các vụ án ngƣời chƣa thành niên


4
phạm tội có so sánh với quy định của luật tố tụng hình sự một số nƣớc trên
thế giới về vấn đề này, đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tƣợng chứng minh trong các vụ
án ngƣời chƣa thành niên phạm tội, tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập từ
đó bƣớc đầu đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có
liên quan đến đối tƣợng chứng minh trong các vụ án ngƣời chƣa thành niên
phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn, từ đó góp phần
nâng cao chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:

1. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề thủ tục tố tụng đối với vụ án hình
sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
2. Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tƣợng chứng minh
trong vụ án hình sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên;
3. Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự ở Việt Nam liên quan đến đối tƣợng chứng minh trong các vụ án hình sự
mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên;
4. Đƣa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự
Việt Nam về đối tƣợng chứng minh trong các vụ án hình sự mà bị can bị cáo
là ngƣời chƣa thành niên và giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng
những quy định đó của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu những vấn đề thủ tục tố tụng đối với
vụ án hình sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên; những vấn đề lý luận
về đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tƣợng chứng minh trong tố tụng
hình sự một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả các giai đoạn tố


5
tụng: điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay,
chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật tố tụng hình sự.
Đánh giá thực trạng hoạt động của các Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự Việt
Nam liên quan đến đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, logic học, tội phạm học, điều

tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật tố tụng
hình sự thực định và hoạt động chứng minh, giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt
trong các vụ án ngƣời chƣa thành niên phạm tội của các cơ quan tiến hành tố
tụng cũng nhƣ các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hƣớng dẫn
về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp: hệ thống, logic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong các vụ
án ngƣời chƣa thành niên phạm tội, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận chung về đối
tƣợng chứng minh trong các vụ án hình sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam về đối tƣợng chứng minh trong các vụ án ngƣời chƣa thành niên phạm


6
tội. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự Việt Nam liên quan đến đối tƣợng chứng minh trong các vụ án
ngƣời chƣa thành niên phạm tội, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu
sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của
luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tƣợng chứng minh trong các vụ án
ngƣời chƣa thành niên phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy
định của luật tố tụng hình sự về đối tƣợng chứng minh nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể

đƣợc khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng,
sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan đến đối tƣợng chứng minh trong các vụ án hình sự mà bị can bị cáo là
ngƣời chƣa thành niên để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tiến hành tố tụng có thể khai thác vận
dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả hoạt động của mình trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình
sự mà bị can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu còn tham
khảo, luận văn gồm 3 chƣơng với 9 mục.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đối tƣợng chứng minh trong vụ
án hình sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
Chương 2. Quy định của pháp luật và thực tiễn về đối tƣợng chứng
minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và các biện pháp bảo đảm thực thi áp
dụng pháp luật về đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị can, bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN

1.1. CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn nhƣ: giai
đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra và truy tố; xét xử… Mỗi giai đoạn có nhiệm

vụ và định hƣớng khác nhau nhƣng đều hƣớng tới mục đích giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện. Để giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề mang tính tất
yếu và đƣợc pháp luật tố tụng hình sự quy định là: các cơ quan tiến hành tố
tụng phải tiến hành chứng minh để làm rõ, khôi phục lại toàn bộ sự thật khách
quan của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có liên quan đến vụ án.
Từ điển Tiếng Việt có giải thích: “…. Chứng minh là việc dùng suy
luận logic vạch rõ điều gì là đúng”[43]. Hoạt động chứng minh đƣợc sử dụng
trong rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực pháp luật
tố tụng hình sự. Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự chính là quá
trình nhận thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan
đến vụ án. Mục đích của hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là để
phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Song, việc giải quyết vụ
án hình sự chỉ phát sinh sau khi có tội phạm xảy ra, do đó, quá trình chứng
minh khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án chính là quá trình nhận thức
chân lý khách quan về vụ án. Cơ sở lý luận của hoạt động nhận thức này
chính là lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin.
Lý luận nhận thức Mác - Lênin khẳng định rằng: nhận thức là sự phản
ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát


8
triển không ngừng từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện
tƣợng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm đƣợc bản chất
quy luật của sự việc và hiện tƣợng. Trong thế giới khách quan, không có cái
gì là con ngƣời không thể nhận thức đƣợc, mà chỉ có những cái con ngƣời
chƣa nhận thức đƣợc nhƣng dần dần cũng sẽ nhận thức đƣợc.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì: thế giới thống
nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển, mọi sự vật
hiện tƣợng trong thế giới luôn có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc

lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra
rằng phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tƣợng vật chất, V.I-Lênin
viết: “Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống như
cảm giác, đặc tính phản ánh” [12, tr.104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động
của con ngƣời nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để lại
dấu vết trong thế giới khách quan. Những dấu vết của hành vi phạm tội có
thể đƣợc thể hiện dƣới dạng vật chất hoặc đƣợc phản ánh ghi nhận trong trí
nhớ của con ngƣời. Vì vậy, thông qua việc thu thập những dấu vết này một
cách có hệ thống trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố
tụng sẽ nhận thức đƣợc đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại đƣợc toàn bộ
diễn biến của sự việc phạm tội. Quá trình thu thập những dấu vết của tội
phạm và những thông tin có liên quan đến vụ án (thu thập chứng cứ) để nhận
thức khôi phục lại sự thật khách quan của vụ án - chính là quá trình chứng
minh trong tố tụng hình sự.
Nhƣng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án hình sự không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá trình nhận thức gián tiếp về vụ án.
Bởi vì, khi đó sự việc phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để
chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra, vì vậy các cơ
quan tiến hành tố tụng phải nhận thức khôi phục lại nó thông qua việc phát hiện
thu thập và đánh giá những dấu vết mà nó để lại trong hiện thực khách quan.


9
Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự do những chủ thể nhất
định tiến hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ từ các nguồn khác nhau
và sử dụng chứng cứ từ những nguồn này làm phƣơng tiện chứng minh làm rõ
các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án.
1.2. ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MÀ BỊ CAN, BỊ
CÁO LÀ NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN
1.2.1. Khái niệm “Ngƣời chƣa thành niên”, “ngƣời chƣa thành niên

phạm tội”, “bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên”
1.2.1.1. Khái niệm Người chưa thành niên
Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm ngƣời chƣa thành niên đƣợc
định nghĩa nhƣ sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và
nghĩa vụ công dân"[43]. Theo quy định tại Điều 1 Công ƣớc quốc tế về
quyền trẻ em năm 1990 thì "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi trừ
trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm
hơn". Bên cạnh Công ƣớc về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của
Liên Hợp Quốc về việc áp dụng pháp luật đối với ngƣời chƣa thành niên
(Quy tắc Bắc Kinh) do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày
14.12.1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến
khái niệm "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" nhƣ là một sự kế
thừa của Công ƣớc về Quyền trẻ em.
Luật pháp Việt Nam cũng nhƣ hầu hết luật pháp của các nƣớc trên thế
giới đều coi ngƣời chƣa thành niên là đối tƣợng cần đƣợc đặc biệt quan tâm.
Tuy nhiên, do sự phát triển của từng quốc gia khác nhau, nên khái niệm ngƣời
chƣa thành niên ở các quốc gia cũng khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc
gia các văn bản pháp luật cũng quy định không thống nhất về vấn đề này.


10
Từ những kinh nghiệm đƣợc thừa nhận trong quá khứ, dựa trên những
thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng nhƣ tiếp thu các văn bản
pháp luật quốc tế, các nhà làm luật Việt Nam đã đƣa ra khái niệm về ngƣời
chƣa thành niên, tuỳ theo từng lĩnh vực điều chỉnh của từng ngành luật, nhƣ
sau: Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: "Người từ đủ mười tám tuổi
trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa
thành niên"; Bộ luật lao động Việt Nam quy định: "Người lao động chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi".

Nhƣ vậy, có thể thống nhất một quan điểm là người chưa thành niên
là người dưới 18 tuổi. Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ƣớc
quốc tế về quyền trẻ em ngày 20.02.1990 mà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên.
1.2.1.2. Người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật các nƣớc khi quy định về ngƣời chƣa thành niên phạm tôi đều
chú ý tới tuổi của họ. Tại Mỹ, độ tuổi của trách nhiệm hình sự đƣợc thành lập
theo quy định của pháp luật nhà nƣớc. Chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi
tối thiểu, khoảng từ 6 đến 12 tuổi. Hầu hết các bang dựa vào pháp luật chung,
nắm giữ từ 7 tuổi đến 14 tuổi, trẻ em không có thể đƣợc coi là chịu trách
nhiệm nhƣng có thể đƣợc tổ chức chịu trách nhiệm.
Tại Nhật Bản, ngƣời phạm tội dƣới 20 tuổi đƣợc xét xử tại một tòa án
gia đình, chứ không phải là trong hệ thống tòa án hình sự.
Trong tất cả các nƣớc Bắc Âu, tuổi trách nhiệm hình sự là 15, và thanh
thiếu niên dƣới 18 tuổi có thể đến một hệ thống tƣ pháp là hƣớng chủ yếu đối
với các dịch vụ xã hội, giam giữ nhƣ là phƣơng sách cuối cùng. Tính đến
tháng 4 năm 1997, chỉ có 15 ngƣời chƣa thành niên đang chấp hành hình phạt
tù ở Thụy Điển.
Ở Trung Quốc, trẻ em từ 14 đến 18 tuổi đƣợc xử lý bằng hệ thống tƣ


11
pháp vị thành niên và có thể bị kết án tù chung thân đối với tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Trong hầu hết các nƣớc châu Mỹ La tinh, các cải cách của pháp luật
về công lý trẻ vị thành niên đang đƣợc tiến hành. Kết quả là, trách nhiệm
hình sự ngƣời lớn tuổi đã đƣợc nâng lên đến 18 ở Brazil, Colombia và
Peru. Trẻ em từ 12 đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dƣới một hệ thống
công lý vị thành niên.
Tại Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em

của Việt Nam năm 2004 thì "trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi".
Có thể nói, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của ngƣời thành niên đƣợc
xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con ngƣời;
trình độ phát triển về nhận thức xã hội; điều kiện kinh tế-xã hội của từng quốc
gia trong từng thời kỳ. Song, sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia
cũng phản ánh một sự thiếu đồng thuận trong cộng đồng quốc tế về độ tuổi
chiụ trách nhiệm hình sự.
Bảng 1.1: Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
của một số quốc gia trên thế giới
Mexico
6-12
Bangladesh
7
Ấn Độ
7
Myanmar
7
Nigeria
7
Pakistan
7
Nam Phi
7
Sudan
7
Tanzania
7
Thái Lan
7



12
Hoa Kỳ
7
Indonesia
8
Kenya
8
Vƣơng quốc Anh (Scotland)
8
Ethiopia
9
Iran
9
Nepal
10
Vƣơng quốc Anh (Anh)
10
Vƣơng quốc Anh (xứ Wales)
10
Ukraine
10
Hàn Quốc, Rep.
12
Morocco
12
Uganda
12
Algeria
13

Pháp
13
Ba Lan
13
Uzbekistan
13
Trung Quốc
14
Đức
14
Ý
14
Nhật Bản
14
Liên bang Nga
14
Việt Nam
14
Ai Cập
15
Argentina
16
Brazil
18
Colombia
18
Peru
18
Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao



13
Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở
tham khảo kinh nghiệm của một số nƣớc, pháp luật hình sự Việt Nam quy
định: tuổi chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ 16 tuổi trở lên, tuổi chịu trách
nhiệm hình sự hạn chế là từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi. Cụ thể, điều 12 của
Bộ luật hình sự quy định:
1. Ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên, nhƣng chƣa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.[24]
Song, cho dù là từ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi hay từ 16 tuổi đến dƣới 18
tuổi thì ngƣời chƣa thành niên khi phạm tội đều đƣợc hƣởng chính sách khoan
hồng của Nhà nƣớc.
Trong chƣơng X của Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (những quy định
đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội), tại Điều 68 quy định: “Người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”.[24]
Quy định này của Bộ luật hình sự về mặt lý luận có thể hiểu, ngƣời
chƣa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ gây ra vì ngƣời chƣa đủ 14 tuổi, trí tuệ chƣa phát triển đầy
đủ nên chƣa nhận thức đƣợc tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình,
chƣa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi đƣợc coi là không có
lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu
trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên
nhƣng chƣa đủ 16 tuổi đƣợc coi là ngƣời chƣa có năng lực trách nhiệm hình



14
sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội
phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng) chứ không phải
chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này cũng thể hiện
chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Tuy nhiên, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự mới chỉ đƣa ra các quy
định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà chƣa đƣa ra khái niệm cụ thể về
ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
Trong nghiên cứu “tội phạm hình sự đối với người chưa thành niên –
những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh
luật học (phần I – những khía cạnh pháp lý hình sự” của tác giả Lê Cảm và
Đỗ Thị Phƣợng đã đƣa ra khái niệm: “Người chưa thành niên phạm tội là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa
đầy đủ do hạn chế bởi đặc điểm tâm – sinh lý và có lỗi trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm”[18]. Có thể nói, đây là một
khái niệm hoàn chỉnh về ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
1.2.1.3. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Bị can là người
đã bị khởi tố về hình sự”[23]. Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”[23]. Nhƣ vậy,
ta có thể hiểu bị can, bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi ở thời điểm đã bị khởi tố về hình sự hoặc bị Tòa án quyết
định đưa ra xét xử.
Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên khác với khái niệm “người
chưa thành niên phạm tội”, hay người chưa thành niên thực hiện hành vi
phạm tội”. Điều 10 bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định nguyên tắc “không
ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật”[23]. Nhƣ vậy, vào thời điểm cần phải chứng



15
minh các vấn đề về hành vi phạm tội, ngƣời thực hiện hành vi phạm tội thì
Tòa án chƣa đƣa vụ án ra xét xử, chƣa có bản án có hiệu lục pháp luật nên
ngƣời chƣa thành niên chƣa bị coi là có tội. Do đó,để phù hợp với các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự, và tạo sự công bằng cho ngƣời chƣa thành
niên thì khi xem, xét các quy định về đối tƣợng chứng minh trong vụ án mà bị
can bị cáo là ngƣời chƣa thành niên cần đặc biệt chú ý tới khái niệm bị can, bị
cáo là ngƣời chƣa thành niên, khái niệm ngƣời chƣa thành niên phạm tội… để
sử dụng cho chính xác.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình
sự mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên
1.2.2.1. Khái niệm đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên
Trong quá trình nhận thức chân lý, xác định đối tƣợng của nhận thức ở
tùng lĩnh vực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Ở phƣơng diện chung nhất thì
toàn bộ thực tiễn khách quan là đối tƣợng của nhận thức nhằm tìm ra những
quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội và của chính con ngƣời. Trong vụ án
hình sự, đối tƣợng chứng minh đƣợc xác định là cơ sở của trách nhiệm hình
sự, đó là sự việc phạm tội, ngƣời thực hiện hành vi phạm tội và những tình
tiết khác có liên quan đến vụ án. Những vấn đề đó cần đƣợc các cơ quan tiến
hành tố tụng làm rõ để xác định bản chất vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 đã quy định về đối tƣợng chứng minh tại Điều 63 nhƣ sau:
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không
có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không; mục đích, động cơ phạm tội;



16
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị
can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.[23]
Tìm hiểu các quy định về chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, ta thấy, Bộ luật chỉ liệt kê ra các vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án hình sự mà không đƣa ra khái niệm cụ thể về đối
tƣợng chứng minh. Tuy nhiên, khái niệm này đã đƣợc đƣa ra trong một số
nghiên cứu, cụ thể:
Trong giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà
Nội đã đƣa ra khái niệm về đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự, theo
đó thì: “Đối tượng chứng minh là tất cả các tình tiết phải được xác định
đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình
sự” [39, tr.87]. Phân tích khái niệm trên đây ta thấy, về cơ bản khái niệm đã
chỉ ra đƣợc nội dung chủ yếu của khái niệm là “tất cả các tình tiết phải đƣợc
xác định đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án
hình sự”. Tuy nhiên, khái niệm chƣa đƣa ra đƣợc căn cứ pháp lý của đối
tƣợng chứng minh đó chính là những vấn đề đƣợc luật tố tụng hình sự quy
định cần phải làm rõ. Đây là một khía cạnh rất quan trọng. Bởi, trong tố tụng
hình sự, nguyên tắc đầu tiên, cơ bản và quan trọng cần đƣợc tôn trọng là
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, hoạt động tố tụng hình sự
không chỉ do một cơ quan tiến hành, mà do nhiều cơ quan (Cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, Tòa án…) phối hợp với nhau thực hiện. Do đó, việc quy định
các đối tƣợng chứng minh trong luật Tố tụng hình sự là cần thiết để đảm bảo
tính thống nhất cho hoạt động chứng minh nói riêng và hoạt động tố tụng hình
sự nói chung.
Trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học “Đối tƣợng chứng minh và



17
phƣơng tiện chứng minh trong vụ án hình sự về tội giết ngƣời” của tác giả
Nguyễn Văn Hoan có đƣa ra khái niệm: “Đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự là tổng hợp tất cả những tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự
việc liên quan đến tội phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”[9]. Phân tích khái niệm, ta thấy, khái
niệm chƣa đƣa ra đƣợc nội hàm chính xác, chƣa chỉ ra đƣợc bản chất của đối
tƣợng chứng minh. Trong vụ án hình sự, có rất nhiều tình tiết liên quan tới vụ
án, song, chỉ những tình tiết chƣa biết mà cần phải biết để làm rõ bản chất vụ
việc mới là đối tƣợng chứng minh. Ngoài ra, cũng nhƣ khái niệm trên, khái
niệm cũng chƣa đề cập đến khía cạnh pháp lý của đối tƣợng chứng minh.
Từ những phân tích trên thì đối tƣợng chứng minh trong vụ án hình sự
đƣợc hiểu là tổng hợp tất cả các vấn đề chƣa biết nhƣng luật tố tụng hình sự
quy định các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải biết để làm rõ bản chất vụ án
và những nội dung khác liên quan đến vụ án, từ đó đƣa ra các quyết định phù
hợp nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự chính là quá trình nhận
thức làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan đến vụ án.
Suy cho cùng mục đích của hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là để
phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phục vụ cho việc đấu
tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, vụ việc phạm tội xảy ra trên thực tế
rất đa dạng, chúng có thể khác nhau về tính chất, mức độ, hoàn cảnh… Do đó,
ngoài những vấn đề luật tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải chứng minh
đối với các loại vụ án nói chung, thì luật tố tụng hình sự còn quy định đối
tƣợng chứng minh trong một số trƣờng hợp cụ thể. Đó là những vấn đề chứng
minh phát sinh trong những vụ án mà ngƣời thực hiện tội phạm là ngƣời chƣa
thành niên hoặc trong vụ án mà có căn cứ cho rằng ngƣời thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội là ngƣời mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác làm



18
mất năng lực hành vi. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ
nghiên cứu về đối tƣợng chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo là ngƣời
chƣa thành niên.
Từ những phân tích về ngƣời chƣa thành niên, ngƣời chƣa thành niên
phạm tội, bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên và đối tƣợng chứng minh
nói chung ở trên, ta có thể đƣa ra khái niệm đối tƣợng chứng minh trong vụ
án mà bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên nhƣ sau: Đối tượng chứng minh
trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên là tổng hợp các vấn
đề mà cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh trong vụ án hình sự nói
chung và những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên nói riêng nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.2.2.2. Đặc điểm của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự mà
bị can, bị cáo là người chưa thành niên
* Các quy định về đối tượng chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo
là người chưa thành niên phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của người chưa
thành niên.
Trong thời gian qua, các loại tội phạm, tệ nạn xã hội có nhiều diễn
biến phức tạp, nhất là tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm có
vũ khí nóng. Đáng tiếc và đáng báo động là tình trạng vi phạm pháp luật của
ngƣời chƣa thành niên có chiều hƣớng gia tăng, với các biểu hiện nghiêm
trọng nhƣ đánh nhau, giết ngƣời, trộm, cƣớp tài sản, hiếp dâm… Bên cạnh
đó, các tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn ma túy học đƣờng vẫn đang là vấn đề
nhức nhối của xã hội.
Một trong những nguyên nhân của tình hình này là do ngƣời chƣa
thành niên phạm tội là ngƣời chƣa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, chƣa thể
nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình đã thực
hiện. Nhận thức của các em thƣờng non nớt, thiếu chín chắn, dễ bị kích động,

×