Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiếm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 101 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THÙY LINH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2012





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THÙY LINH






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phượng




HÀ NỘI - 2012





MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục



Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
7
1.1.
Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân
7
1.1.1.
Khái niệm
7
1.1.2.
Đối tượng
14
1.1.3.
Phạm vi
17
1.2.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
20
1.2.1.
Cơ sở lý luận

20
1.2.2.
Cơ sở thực tiễn
24
1.3.
Quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp
luật về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
27
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988
27
1.3.2.
Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003
31

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
34


2.1.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
34
2.1.1.
Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát

nhân dân
34
2.1.1.1.
Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm
34
2.1.1.2.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa
38
2.1.1.3.
Kiểm sát sau khi kết thúc phiên tòa
39
2.1.1.4.
Kháng nghị phúc thẩm
42
2.1.2.
Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
44
2.1.2.1.
Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm
44
2.1.2.2.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa phúc thẩm
45
2.1.2.3.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật sau phiên tòa phúc thẩm
46
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của

Viện kiểm sát nhân dân
48
2.2.1.
Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
48
2.2.2.
Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
60
2.2.3.
Nguyên nhân của những vướng mắc trong hoạt động kiểm
sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
64

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
70
3.1.
Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
70
3.2.
Các giải pháp khác
80
3.2.1.
Giải pháp về tổ chức
80
3.2.2.
Giải pháp về cán bộ

82


3.2.3.
Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật
88

KẾT LUẬN
91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Kết quả xột xử sơ thẩm
49
2.2
Kết quả khỏng nghị phỳc thẩm của Viện kiểm sỏt nhõn
dõn hai cấp
55













1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, quá trình hội nhập kinh tế - quốc
tế được mở rộng, do đó chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
được thay đổi cho phù hợp. Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua Nghị quyết
số 51/2001/QH sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo
đó tại Điều 2 ghi nhận: "…quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp" [26].
Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện
kiểm sát nhân dân cũng như các cơ quan tư pháp khác giữ vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm
sự ổn định của xã hội. Để thực hiện vai trò cũng như trách nhiệm quan trọng
đó, pháp luật đã quy định cho Viện kiểm sát có các chức năng cụ thể. Theo đó
"Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, thực hành quyền công tố" (Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2002) và theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: "Trước mắt, Viện kiểm
sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Đây vẫn được coi là hai phương
diện hoạt động cơ bản được cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội giao cho
Viện kiểm sát nhân dân.
Thực tế cho thấy trong những năm qua, bên cạnh việc thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân đã tăng cường
nhiều biện pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động trong công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự ở
các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm nói riêng. Viện


2
kiểm sát nhân dân đã phát hiện các vi phạm của Tòa án để ban hành các kiến
nghị và quyết định kháng nghị, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo pháp
chế trong xét xử hình sự, xử lý tội phạm đúng pháp luật và phòng ngừa tội
phạm có hiệu quả. Tuy nhiên hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
bởi đặt trong bối cảnh nền tư pháp đã có những cải cách đáng kể, xu thế tranh
tụng thực sự được mở rộng cùng với những bước tiến về kinh tế - xã hội, trình
độ dân trí, ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp lý ở nước ta đã có những tiến
bộ đáng kể thì liệu việc duy trì chức năng kiểm sát xét xử hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân có còn cần thiết? Điều này cho thấy có rất nhiều vấn đề cần
phải được làm rõ để thấy được chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nói
riêng, từ đó nêu ra các hạn chế cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện
tốt hơn nữa chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử vụ

án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đã được một số nhà khoa học, cán bộ
thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học và bài viết
như sau:
- Nguyễn Thu Huệ (2004), Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ
án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.


3
- Trần Xuân Quang (2009), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn
thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Văn Oanh (1998), Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
Ngoài ra, còn một số các bài viết trên các tạp chí khác nhau như:
- Phạm Văn An, Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp - Tạp chí Kiểm sát, số 7
(tháng 4/2011).
- Phạm Văn An, Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp -
Tạp chí Kiểm sát, số 10 (tháng 5/2011).
- Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghề luật, số 4/2006.
- Nguyễn Huy Tiến, Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Tạp chí
Kiểm sát, số 17 (tháng 9/2009).
Các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về

chức năng của Viện kiểm sát nói chung hoặc chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong
một giai đoạn, đó là xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm án hình sự. Tuy nhiên
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có
hệ thống về chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân, từ đó dẫn đến việc nhận thức và vận dụng còn nhiều khác nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Đó là việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm


4
sát nhân dân. Đánh giá có căn cứ và khoa học về thực trạng thực hiện kiểm
sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên
cơ sở đó, nêu ra những hạn chế cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân đạt hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích cơ sở lý
luận và thực tiễn trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân. Đưa ra và nhận xét về quá trình hình thành và phát
triển của chức năng này qua các giai đoạn phát triển. Đánh giá thực trạng hoạt
động trong công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011. Từ đó, rút ra những ưu
điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân. Nghiên cứu thực trạng thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân để từ đó xây dựng các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phạm vi nghiên cứu:
Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là một vấn
đề rất rộng liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giám đốc thẩm, tái thẩm.


5
Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm không được thừa nhận là một cấp xét
xử, mà chỉ được coi là thủ tục đặc biệt có nhiệm vụ xem xét lại tính đúng đắn
của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, phạm vi luận văn
được giới hạn trong chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở pháp luật hiện hành,
luận văn đánh giá đúng thực trạng về thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011.
Nghiên cứu xây dựng giải pháp thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao chất lượng
kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước&pháp luật, được trình bày trên cơ

cở nghiên cứu Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác quy định về chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sách, hệ thống kết hợp với
phương pháp khảo sát thực tiễn để kế thừa và chọn lọc những ưu khuyết điểm
trong công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò,
chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát


6
nhân dân đồng thời trên cơ sở này làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội
dung của kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự.
Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, đánh giá đúng
thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân trong 5 năm qua (cụ thể từ năm 2007 - 2011),
góp phần khẳng định chức năng này của Viện kiểm sát là rất cần thiết, nhằm
đảm bảo nhu cầu khách quan của tình hình kinh tế - xã hội, của nền dân chủ
và nhu cầu đấu tranh chống vi phạm và tội phạm hiện nay, góp phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn khẳng định chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là cần thiết trong bộ máy nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Luận văn là công trình tham khảo
cần thiết, là tài liệu nghiên cứu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học

pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kiểm sát là kiểm tra việc chấp hành pháp
luật Nhà nước" [18, tr. 523]. Theo Từ điển Luật học:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét,
theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giam giữ cải tạo của các cơ quan tiến hành tố
tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân
dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất [40, tr. 441].
Cả hai định nghĩa này mặc dù đã nêu được nội dung cũng như phạm
vi của hoạt động kiểm sát nhưng lại chưa bao quát được chủ thể của hoạt

động kiểm sát.
Cụm từ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" lần đầu tiên được ghi nhận
trong lịch sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp
năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988. Đến thời điểm năm 2001, đã xuất hiện cụm từ "kiểm sát các hoạt động
tư pháp". Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và


8
thống nhất" [26]; Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy
định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [27]; Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 lại tiếp tục sử dụng cụm từ "kiểm sát việc tuân theo
pháp luật". Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
…Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định
để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này [28].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có một chủ thể
duy nhất là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vẫn tồn tại
đồng thời hai thuật ngữ rất dễ gây nhầm lẫn: "kiểm sát việc tuân theo pháp
luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Để làm rõ khái niệm "kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", câu hỏi đặt ra là: "kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự" có khác nhau hay không, nếu có thì khác nhau ở điểm
nào và mối quan hệ giữa hai khái niệm này là như thế nào.
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), người tiến hành
tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư
ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, người bào
chữa ), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào
việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật tố tụng hình sự. "Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" là kiểm sát tất cả các hoạt động của
các chủ thể nêu trên.


9
Về khái niệm "hoạt động tư pháp", hiện có nhiều ý kiến khác nhau,
loại ý kiến thứ nhất cho rằng, "hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện
những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông qua
đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền
biến thành hiện thực" [41, tr. 11]. Loại ý kiến thứ hai khẳng định: Hoạt động
tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động của các cơ quan khác của
Nhà nước và các tổ chức khác được Nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp
liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của Tòa án. Tòa án sử dụng công khai
các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp, áp dụng
các thủ tục tư pháp theo luật định để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết
cuối cùng. Hoạt động tư pháp cần được hiểu là "hoạt động của các cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án, và các cơ quan, tổ chức liên quan
hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa án" [41, tr. 14].
Như vậy, cả hai loại ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt
động tư pháp chỉ là Tòa án, hoặc mở rộng phạm vi chủ thể của hoạt động này

tới cả các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa
án. Theo cách hiểu tương đối phổ biến hiện nay: Hoạt động tư pháp là các
hoạt động do cơ quan tư pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các
cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực
nhà nước, được thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp
luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án. Và do đó,
hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là các hoạt động do cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá
trình tiến hành tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng hình sự, trực
tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Từ các phân tích nêu trên, về hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động
tư pháp trong tố tụng hình sự, có thể thấy kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự về căn bản khác với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự ở phạm vi và đối tượng kiểm sát, cụ thể: Nếu hoạt động tư pháp


10
trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ quan
được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu trách nhiệm trực tiếp
thực hiện, đây là hoạt động có tính quyền lực nhà nước; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự không chỉ là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ
quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người
tham gia tố tụng, không mang tính quyền lực nhà nước. Nếu hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng thực hiện pháp luật ở mức độ
cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật, do các dạng thực hiện pháp luật
này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng.
Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao
gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng: tuân thủ pháp luật, kiềm

chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật -
thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực. Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự, phạm vi kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm vi kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự.
Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại
chủ thể kiểm sát - Viện kiểm sát với quyền năng kiểm sát và phương thức
kiểm sát riêng biệt. Quyền của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên căn cứ vào các quy định tại
Điều 23, 36, 37, 113, 339 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 4, 14, 18,
24, 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các
hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
một cách trực tiếp, cụ thể, liên tục do có đủ cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí


11
pháp lý đặc biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy, cơ sở vật chất…). Viện
kiểm sát có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực
tiếp tới các đối tượng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ
án được theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án và tương
ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể bị
kiểm sát trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát.
Bên cạnh việc sử dụng các quyền năng kiểm sát, Viện kiểm sát sử
dụng một phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
riêng. Nó thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể, trực tiếp

đối với các hoạt động tố tụng. Tính liên tục thể hiện ở chỗ: trong toàn bộ quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt
tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, từ
khi một công dân mới là đối tượng bị tình nghi cho tới khi người đó được xóa
án tích. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát có
quyền giám sát chi tiết, tỷ mỉ các hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường,
hỏi cung, lấy lời khai, thực nghiệm điều tra… Viện kiểm sát kiểm sát một
cách trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc có mặt, theo sát,
nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động
giải quyết vụ án.
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai
đoạn tố tụng hình sự: Kiểm sát khởi tố, điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi
hành án. Mỗi bộ phận này có đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn riêng
nhưng liên hệ mật thiết với nhau và đều là hoạt động thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng


12
nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án. Ngoài ra khi phát hiện các vi phạm của các đối tượng kể trên, Viện kiểm
sát có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp do pháp luật
quy định để loại trừ các vi phạm đó.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, có thể hiểu: Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng pháp lý của
Viện kiểm sát, có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật
của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm

chỉnh và thống nhất.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính
thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm những bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân có đủ căn cứ và hợp pháp, loại trừ mọi vi phạm pháp
luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân không chỉ là thực hành quyền công tố, bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ
quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, bảo vệ kháng cáo hợp
pháp của những người có quyền kháng cáo, buộc tội bị cáo, kết luận về tính
có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, mà còn
đồng thời thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình xét xử vụ án hình sự. Kiểm sát xét xử hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt
động kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại kết quả hoạt động điều tra,
hoạt động kiểm sát điều tra, bảo vệ quan điểm truy tố khách quan đúng đắn
của Viện kiểm sát nhân dân.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hai hình thức hoạt động có quan hệ
gắn bó, chặt chẽ, không tách rời nhau nhằm thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân trong xét xử vụ án hình sự góp phần cùng Tòa án nhân dân


13
xử lý, giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật
(pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật
khác có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự).
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện trong tất cả các giai
đoạn xét xử vụ án hình sự từ giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho tới
khi vụ án được xét xử xong, Tòa án nhân dân đưa ra một bản án, quyết định
có căn cứ, hợp pháp bảo đảm được đưa ra thi hành. Hoạt động kiểm sát xét xử
vụ án hình sự còn được thực hiện trong tất cả các thủ tục xét xử vụ án hình sự,

từ thủ tục xét xử sơ thẩm đến thủ tục xét xử phúc thẩm hình sự hoặc cá biệt
các vụ án hình sự được xét xử lại theo các thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm hình sự.
Từ khi có quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân, quyết
định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân, vụ án được đưa ra xét xử công
khai cho tới khi xét xử xong là quá trình Tòa án nhân dân thực hiện công tác
xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát xét xử sơ
thẩm hình sự.
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân được
thực hiện trong tất cả các giai đoạn xét xử vụ án hình sự (giai đoạn chuẩn bị
xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử công khai) đối
với tất cả các cấp Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nhằm bảo
đảm pháp chế trong hoạt động xét xử.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay trong thời hạn luật định. Nếu hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị thì bản án của Tòa án cấp sơ thẩm mới có hiệu lực
pháp luật và được thi hành. Ngược lại, nếu có kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng và
được Tòa án chấp thuận thì sẽ phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm. Trong
phạm vi luận văn, tác giả chỉ đề cập đến xét xử phúc thẩm với tính chất là xét


14
xử lại những vụ án mà bản án, quyết định đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt
động thực hiện pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhằm
bảo đảm cho việc xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật.
Như vậy, Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát là tổng hợp

các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát
hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động tố
tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét
xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án
thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Việc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được thừa nhận là một trong những nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Do vậy, quá trình kiểm sát xét xử của Viện
kiểm sát cũng được thực hiện theo hai cấp này đó là kiểm sát xét xử sơ thẩm
và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Do đặc thù của xét xử sơ thẩm là cấp xét xử
đầu tiên trong khi đó xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối
với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, đây cũng là
cấp xét xử nhằm mục đích kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; kiểm tra, sửa chữa những sai
phạm của Tòa án cấp sơ thẩm để đưa ra một bản án đúng đắn, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội nên kiểm sát xét xử sơ thẩm và kiểm sát
xét xử phúc thẩm có đối tượng, phạm vi khác nhau.
1.1.2. Đối tƣợng
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Tòa án nhân dân, Hội đồng xét
xử là các chủ thể tiến hành tố tụng, ngoài ra còn có những người tham gia tố


15
tụng như bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Tất cả những chủ thể này đều được pháp luật tố tụng quy định quyền và
nghĩa vụ cụ thể. Mọi hoạt động của các chủ thể này đều căn cứ vào các quy
định của pháp luật để thực hiện.
Trong các giai đoạn xét xử, từ khi chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho đến

khi vụ án xét xử xong, Tòa án nhân dân ra một bản án hoặc quyết định, khẳng
định về mặt pháp lý mọi vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, Kiểm sát viên
thực hiện chức năng của mình nhằm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng
xét xử thực hiện đúng các thẩm quyền, các nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hai chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân. Hai chức năng này có đối tượng tác động
khác nhau. Trong khi đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là
hành vi phạm tội và người phạm tội. Nội dung của hoạt động thực hành quyền
công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo đó, những hoạt động
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án
hình sự như đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc
giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc
thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại
phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì đối tượng của kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự là việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án theo thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng. Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được thể hiện trên
những khía cạnh sau đây:
+ Tư cách pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong Hội đồng
xét xử.


16
+ Việc tuân theo các quy định về thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử.
+ Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra xét hỏi tại phiên tòa.
+ Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng.
+ Tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng.

+ Việc tuân theo các quy định trật tự phiên tòa.
+ Việc tuân theo pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án.
Trong khi đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự là
sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm
được quy định tại Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự: "Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm" [28] và những người tham gia tố tụng xét xử: bị cáo (Điều 50
Bộ luật Tố tụng hình sự), người bào chữa (Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự),
người bị hại (Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự), nguyên đơn dân sự (Điều 52
Bộ luật Tố tụng hình sự), bị đơn dân sự (Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự),
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện
hợp pháp của họ (Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự), người làm chứng (Điều
55 Bộ luật Tố tụng hình sự), người giám định (Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình
sự) còn đối tượng của kiểm sát xét xử phúc thẩm chính là sự tuân theo pháp
luật của Tòa án cấp phúc thẩm và những người tham gia tố tụng quy định tại
Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, Viện
kiểm sát không chỉ dựa trên các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà còn
trên các căn cứ pháp lý khác là Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Bộ luật Hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra,
giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là đối tượng của hoạt động
kiểm sát cũng như để đảm bảo tính hợp pháp, tính có căn cứ của chính hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát. Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải tuân thủ và thực hiện những quyền


17
và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật
hình sự và sự tuân thủ pháp luật của họ là đối tượng của hoạt động kiểm sát
xét xử hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.

1.1.3. Phạm vi
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự, từ khi vụ án được phát hiện,
điều tra, truy tố cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử là chuyển sang một giai
đoạn tố tụng khác. Giai đoạn xét xử công khai nhằm kết luận chính thức về
nội dung các vụ án. Các cấp Tòa án thông qua hoạt động xét xử ở các thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự, nhân danh Nhà nước
xem xét quyết định về hành vi phạm tội của các bị cáo, về biện pháp xử lý đối
với bị cáo và các vấn đề khác liên quan đến vụ án hình sự.
Xem xét ở trình tự tiến hành tố tụng xét xử, xem xét về không gian và
thời gian thì phạm vi kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án và
"quyết định truy tố" của Viện kiểm sát nhân dân được gửi tới Tòa án nhân dân,
Tòa án nhận hồ sơ vào sổ thụ lý, cho đến khi vụ án được xét xử, Tòa án ra bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, không
bị khiếu nại, Kiểm sát viên hoàn thành những công việc cần thiết theo quy
định của pháp luật, theo quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số
960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (gọi tắt là Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự).
Như vậy, xem xét thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử hình sự
là phải xem xét ở cả hai khía cạnh: Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
có hiệu lực pháp luật và Kiểm sát viên hoàn thành mọi công việc theo thẩm
quyền và nghĩa vụ. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng Kiểm sát
viên chưa hoàn tất những công việc mà pháp luật quy định hoặc ngược lại, thì
đều không được xem đó là thời điểm kết thúc phạm vi hoạt động kiểm sát xét
xử hình sự.


18
Phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự bắt đầu kể từ
khi hồ sơ vụ án và quyết định truy tố gửi đến Tòa án, kết thúc khi vụ án được

xét xử đã có bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
cáo hoặc kháng nghị; kiểm sát viên thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự
hoàn thành những công việc cần thiết theo quy định của pháp luật và Quy chế
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Sau khi kết thúc hoạt động kiểm sát điều tra, nếu Viện kiểm sát ra
quyết định truy tố thì "Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy
tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát nhân dân phải gửi hồ sơ vụ án và bản
cáo trạng đến Tòa án" (khoản 3 Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự). Khi hồ sơ
vụ án, quyết định truy tố được Tòa án nhân dân nhận, vào sổ thụ lý vụ án là
thời điểm bắt đầu của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án, đồng thời cũng là thời
điểm mở đầu phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Trường hợp Viện
kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố, song chưa gửi Tòa án nhân dân hoặc
nếu gửi tới Tòa án nhưng Tòa án không nhận, chưa vào sổ thụ lý thì chưa
thuộc phạm vi hoạt động xét xử cũng như kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự.
Thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự khi bản
án, quyết định của Tòa án sơ thẩm đã tuyên có hiệu lực pháp luật, không có
kháng cáo, kháng nghị và Kiểm sát viên hoàn tất những công việc của mình
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự của Tòa án các cấp và Điều 171, 172 Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, thẩm quyền
xét xử những tội phạm xảy ra trên máy bay, tàu thủy…thì tương ứng với các
cấp Tòa án xét xử những vụ án hình sự đó có Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự.
Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp
của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng để mở phiên


19
tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp,

tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên quan đến
việc kháng cáo, kháng nghị có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi có kháng cáo, kháng
nghị hợp lệ thì mặc nhiên phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án và
hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên theo quy định của
pháp luật thì trong thời hạn 15 ngày đối với Viện kiểm sát cấp sơ thẩm và 30
ngày đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kể từ ngày tuyên án sơ thẩm,
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án sơ thẩm. Vì vậy để đảm
bảo các hành vi tố tụng của các chủ thể nói trên tuân thủ pháp luật thì hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời điểm sau khi tuyên bản án sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 Bộ luật Tố tụng hình sự, bản
án hoặc quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc
kể từ ngày ra quyết định. Phạm vi kết thúc của hoạt động kiểm sát xét xử
phúc thẩm là sau khi Viện kiểm sát thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát
tính có căn cứ và hợp pháp của bản án phúc thẩm. Quá trình kiểm sát nếu phát
hiện bản án phúc thẩm có vi phạm pháp luật thì tùy từng trường hợp cụ thể
mà Viện kiểm sát kiến nghị với Tòa án khắc phục hoặc đề nghị Viện kiểm sát
cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc xác định đúng đắn khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử
hình sự và địa vị pháp lý của Kiểm sát viên là điều kiện đảm bảo hiệu quả của
công tác kiểm sát xét xử hình sự, giúp cho Kiểm sát viên khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ có đầy đủ căn cứ pháp luật thực hành quyền công tố một cách
công minh, kiểm sát việc tuân theo pháp luật một cách chặt chẽ, nhằm khắc
phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án nhân dân và những người tham gia
tố tụng xét xử trong việc xét xử những vụ án hình sự, đảm bảo việc xét xử
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đấu tranh

×