Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 120 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐINH HOÀNG QUANG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐINH HOÀNG QUANG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang



HÀ NỘI - 2013


3




Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Đinh Hoàng Quang












4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
7
1.1.
Một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tù
7
1.1.1.
Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù
7
1.1.2.
Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù
15
1.1.3.
Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù
17
1.1.4.
Cơ quan thi hành án phạt tù
23
1.2.
Nhận thức chung về kiểm sát thi hành án phạt tù
28
1.2.1.
Khái niệm, chủ thể, đối tượng, phạm vi, đặc điểm hoạt động
kiểm sát thi hành án phạt tù
28
1.2.2.
Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về
kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập
Viện Kiểm sát nhân dân

33
1.3.
Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật ở một số nước trên thế giới
36
1.3.1.
Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Liên bang Nga
36
1.3.2.
Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Vương quốc Anh
38

5
1.3.3.
Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Cộng hòa Pháp
40
1.3.4.
Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp
luật Nhật Bản
43

Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
46
2.1.
Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù

46
2.1.1.
Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành
án phạt tù đúng quy định của pháp luật
46
2.1.2.
Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự tự kiểm tra, cung
cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án phạt tù
49
2.1.3.
Phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong thi
hành án phạt tù theo thẩm quyền
50
2.1.4.
Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án; tham gia việc
xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án
55
2.1.5.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án phạt tù
58
2.2.
Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi
hành án phạt tù
61
2.2.1.
Tình hình chấp hành án phạt tù
61
2.2.2.
Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án phạt tù
68

2.2.3.
Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động công tác
kiểm sát thi hành án phạt tù
84

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN
PHẠT TÙ
89
3.1.
Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù
89

6
3.1.1.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
89
3.1.2.
Hoàn thiện pháp luật về thi hành án phạt tù
90
3.2.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù
97
3.2.1.
Hoàn thiện tổ chức bộ máy Viện kiểm sát các cấp (Trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương)
97
3.2.2.

Tiêu chuẩn hóa cán bộ kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
thi hành án phạt tù
98
3.3.
Tăng cường điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát trong thi
hành án phạt tù
100
3.3.1.
Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động
kiểm sát thi hành án phạt tù
100
3.3.2.
Cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù
102
3.4.
Xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan
đến thi hành án phạt tù
102
3.4.1.
Quan hệ phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp và tương đương
102
3.4.2.
Quan hệ phối hợp với cơ quan Công an các cấp
103
3.4.3.
Quan hệ phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan
hữu quan
103


KẾT LUẬN
105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
108

7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình công tác chấp hành án phạt tù từ 2008 đến
năm 2012
61
2.2
Hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù từ năm
2008-2012
69


8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp
hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực
tế. Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người
và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành" [27].
Xác định thi hành án hình sự mà trong đó là thi hành án phạt tù là
công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Thông tư liên
ngành số 02/TTLN/BNV-VKSNDTC ngày 06/9/1989 về công tác giam, giữ,
cải tạo và kiểm sát giam giữ, cải tạo; Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT-
BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 hướng dẫn một số quy định về thi hành
hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ;
Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT-BCA-BQP-BYT-TANDTC-VKSNDTC
ngày 18/5/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù
đang bị bệnh nặng; Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLT -BTC-BCA-BQP
ngày 12/02/2010 hướng dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao
động, dạy nghề phạm nhân trong các trại giam; Thông tư 40/2011/TT-BCA

9
ngày 27/6/2011 quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại
chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Thông tư 58/2011/TT-BCA ngày
09/8/2011 quy định về đồ vật cấm đưa vào trại giam và việc thu giữ, xử lý đồ

vật cấm; Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp
bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù;
Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân
(thay thế Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế
trại giam); Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an…và ngày
17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành
án hình sự năm 2010. Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động
thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh,
khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an
ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm sát thi hành án hình sự của
ngành kiểm sát cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nâng cao công tác
thi hành án hình sự nói chung và công tác thi hành án phạt tù nói riêng, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc thi hành án
phạt tù, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này
không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù"
làm luận văn thạc sĩ luật học.

10
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành

án phạt tù, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau,
những khía cạnh, phương diện khác nhau về thi hành án phạt tù và nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, cụ thể là:
- Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
- Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003),
"Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Hà Nội;
- Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực
thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật thi hành án
hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù", Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội.
Các công trình nêu trên nghiên cứu về thi hành phạt tù ở những khía
cạnh và mức độ khác nhau, hầu hết đề cập đến thực trạng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án phạt tù, tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong thi hành án phạt tù, đặc biệt là theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và làm rõ những vấn đề chung
về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động

11
thi hành án phạt tù, phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này, từ đó đưa
ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Làm rõ những căn cứ pháp lý về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi
hành án phạt tù.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù trong thời gian qua.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát thi hành án phạt tù.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh "Nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù",
kết hợp với việc nghiên cứu những nội dung cơ bản và thực tiễn công tác
kiểm sát thi hành án phạt tù; đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát thi hành
phạt tù trong thời gian qua (từ năm 2009 - 2012) và từ đó rút ra những giải
pháp hoàn thiện pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của công tác này
nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành án phạt tù trong điều kiện mới của đất
nước ta.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm về việc thi
hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù ở một số nước trên thế giới.

12
Luận văn không nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát quân sự
trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề
cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X
và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu
lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, tổng hợp.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thi hành án phạt tù ở Việt Nam
theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2011).
Những điểm mới của luận văn là:
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về
khái niệm thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù, tìm hiểu thực
trạng của công tác kiểm sát thi hành án phạt tù làm phong phú thêm cho hoạt
động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án phạt tù.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật kiểm
sát thi hành án phạt tù, luận văn đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa

13
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật
thi hành án hình sự về công tác thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án
phạt tù.
- Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù,
luận văn đã phân tích những nguyên nhân và đề xuất các định hướng và giải

pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù
theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Đặc biệt, kết
quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Viện kiểm sát, Tòa
án và cơ quan Thi hành án hình sự trong quá trình thi hành án phạt tù.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi
hành án phạt tù.
Chương 2: Thực tiễn hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trong thi
hành án phạt tù.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong thi hành án phạt tù.

14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ
1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù
Để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tù, trước hết cần làm
sáng tỏ khái niệm hình phạt tù.
Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam,
hình phạt tù (bao gồm: hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù chung thân) là

loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với
cuộc sống bình thường của xã hội, họ phải lao động, cải tạo trong một môi
trường riêng biệt dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan có trách nhiệm.
Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không đề cập đến miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo) {miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện
(án treo) là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, trong
đó người bị kết án phạt tù có thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tù
tại các cơ sở giam giữ; không bị cách ly khỏi xã hội mà được chấp hành hình
phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo) được áp dụng đối với những trường hợp
người phạm tội bị Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt là
không quá ba năm và không cần phải bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội
nhưng cũng đạt được mục đích của hình phạt}.
Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù có thời hạn là việc
buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn
nhất định " [28] và Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù chung
thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình " [28].

15
Như vậy, hình phạt tù là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp
hành hình phạt tại trại giam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các văn bản luật khác
và trong thực tế, chúng tôi cho rằng việc quy định trong điều luật chưa thật sự
chính xác, bởi vì người bị kết án phạt tù có thể phải chấp hành hình phạt tại
Trại tạm giam (gồm Trại tạm giam Bộ Công An, Trại tạm giam Bộ Quốc
phòng và Trại tạm giam Công an tỉnh) và Nhà tạm giữ Công an huyện. Khoản 2
Điều 171 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định:
Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm
giam, tạm giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời
hạn từ 5 năm trở xuống không phải là người chưa thành niên, người

nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện
ma túy để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ. Số lượng người chấp
hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ được tính theo tỷ lệ
trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa không vượt
quá 15% [34].
Như vậy, việc thi hành hình phạt tù còn được thực hiện ở trại tạm giam,
nhà tạm giữ để thực hiện những công việc của trại tạm giam, nhà tạm giữ và
trong trường hợp này, trại tạm giam, nhà tạm giữ được coi là trại giam đối với
người phải thi hành hình phạt tù.
Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới, nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999).
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù như sau:
Hình phạt tù là hình phạt tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án
phạt tù trong một môi trường riêng biệt để thực hiện các mục đích của hình
phạt là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội
và phòng ngừa tội phạm.

16
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết
định" [64, tr. 1497]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực hiện các bản
án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế [37, tr. 5].
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thi
hành án hình sự là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân có
liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế [22, tr. 9].

Các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được
thi hành bao gồm: các bản án, quyết định được quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 và Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nhưng
chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định những bản án và
quyết định được thi hành, theo đó, những bản án và quyết định được thi hành
là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (bao gồm những bản
án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm).
Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về bản án, quyết
định được thi hành, bao gồm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có
quyết định thi hành (bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án của Tòa án cấp
phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án). Bản án
hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự; Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp
hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định
thi hành. Quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt

17
Nam cho nước ngoài; Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
So sánh hai quy định trên, ta thấy được quy định về bản án, quyết
định được thi hành khác nhau, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã
bổ sung quy định "và đã có quyết định thi hành" do Chánh án Tòa án đã xét
xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết
định so với khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Nhưng
thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật với thời điểm
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án

được ủy thác ra quyết định thi hành là khác nhau, nên chúng tôi cho rằng,
đối với quan hệ xã hội phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có quyết định thi hành
thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thi hành án hình sự năm 2010
mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó,
theo chúng tôi, cần phải xác định hoạt động thi hành án được bắt đầu ngay
khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bởi vì việc thi hành
án bao gồm cả hoạt động Tòa án ra quyết định thi hành án, chứ không phải
bắt đầu từ khi Tòa án ra quyết định thi hành án; điều này hoàn toàn phù hợp
với quy định Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết
định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật (tại Điều 141 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010).
Ngoài ra, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng đã bổ sung
các trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành so với quy định
tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là: quyết định của Tòa án
Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt
Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao
người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài và bản án,
quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.

18
Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu, thi hành án phạt tù là việc
thực hiện các quyết định về hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; bao gồm: Bản án, quyết định về hình
phạt tù có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành.
Về mặt lập pháp, theo khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm
2010 giải thích: "Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ,
giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội" [34]; trong đó,

phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân.
Như vậy, thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện
các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật trên thực tế; tức là, buộc người đang chấp hành án phạt tù có
thời hạn, tù chung thân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để
họ trở thành người có ích cho xã hội.
Tuy nhiên, xung quanh bản chất pháp lý về thi hành án nói chung và
thi hành án phạt tù nói riêng cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm
thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn của tố tụng [56, tr. 8], [62, tr. 23-24].
Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành
chính - tư pháp [56, tr. 10-11]. Quan điểm thứ ba: Thi hành án vừa mang tính
tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố
tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp [56, tr. 8].
Trước hết, về quan niệm coi thi hành án là một giai đoạn tố tụng,
chúng tôi đồng ý với quan điểm này, bởi vì theo từ điển Luật học, thi hành án
"giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được
xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật.
Vì vậy, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành nghiêm
chỉnh" [43, tr. 464-465]. Thi hành bản án hình sự "giai đoạn cuối cùng của tố
tụng hình sự, là việc thi hành trên thực tế một bản án hoặc quyết định cụ thể
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [43, tr. 464-465]. Như vậy, thi hành án

19
hình sự là một trình tự tiếp nối và kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình
sự; địa vị của thi hành án hoàn toàn độc lập và cần thiết được xem xét trong
mối liên hệ với các giai đoạn tố tụng trước. Nói cách khác việc thi hành án
được quy định trong tố tụng hình sự và không ngừng được hoàn thiện cùng
với các quy định của các giai đoạn tố tụng trước là hoàn toàn cần thiết để đảm
bảo tính đồng bộ, hệ thống của tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng thi hành án

cần phải được qui định ở các văn bản pháp luật khác nữa, bởi vì không phải
mọi hoạt động trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Tòa án đều
nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng hình sự [18]. Điều này là hoàn
toàn đúng khi trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội mới ban hành Luật thi hành
án dân sự năm 2008 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009) và Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011), các đạo luật này quy
định khá cụ thể các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án. Khi nghiên
cứu các đạo luật này, chúng tôi thấy rằng có rất nhiều quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thi hành án chưa được điều chỉnh; cụ thể như: trong việc
ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi
hành; thẩm quyền Tòa án khi ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
và việc xóa án tích Trong thực tế hiện nay, những mối quan hệ này được
điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Về quan điểm cho rằng, thi hành án là một giai đoạn độc lập mang
tính hành chính - tư pháp. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, thi hành án là
một giai đoạn tố tụng do đó không phải là một giai đoạn độc lập; nhưng liệu
trong hoạt động thi hành án có mang tính hành chính - tư pháp không? Để giải
thích cho quan điểm này thì cần phải hiểu hoạt động mang tính hành chính -
tư pháp là như thế nào?
Thứ nhất, về hoạt động hành chính. Hành chính được hiểu:
Thuộc phạm vi quản lí của Nhà nước theo luật định: cơ quan
hành chính - đơn vị hành chính. Thuộc những công việc giấy tờ, văn

20
thư, kế toán trong cơ quan nhà nước; cán bộ hành chính - ăn lương
hành chính. Có tính chất nghiêm minh, thẳng tay xử phạt, không nới
lỏng để giáo dục, thuyết phục: dùng biện pháp hành chính [43, tr. 675].
Thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là
một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong quá
trình thi hành án, có những quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành tổ

chức, hoạt động và cơ chế quản lý các cơ quan thi hành án hình sự (gồm hệ
thống các cơ quan thi hành án hình sự; các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan có trách nhiệm thi hành án ). Các quan hệ này liên quan đến việc hình
thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan
thi hành án hình sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể trong thực
tiễn như: mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với Cơ quan thi hành án
hình sự; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan thi hành án
hình sự; giữa Cơ quan thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án dân sự;
giữa Cơ quan thi hành án cấp trên và Cơ quan thi hành án cấp dưới về mặt tổ
chức [62, tr. 32-33]. Như vậy, hoạt động thi hành án mang tính hành chính.
Thứ hai, về hoạt động tư pháp, xung quanh khái niệm này cũng có
nhiều cách hiểu khác nhau: Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tư pháp
cần được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt
động của các cơ quan khác của nhà nước khác và các tổ chức khác được nhà
nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của
Tòa án [13, tr. 7-11]. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tư pháp là dạng
(hình thức) thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống
Tòa án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà
nước pháp quyền được biến thành hiện thực [5, tr. 188]. Có năm dạng hoạt
động tư pháp tương ứng với năm chức năng của quyền tư pháp gồm: nhân
danh và thực hiện việc bảo vệ công lý; bảo vệ các quyền và tự do của con
người và của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp
luật khác trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; giải thích các quy phạm pháp

21
luật (mà trước hết là Hiến pháp) để đảm bảo tính thống nhất và hiệu lực của
việc áp dụng các quy phạm đó trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; xét xử, tức
là hoạt động tố tụng tư pháp (tài phán) về Hiến pháp, hành chính, hình sự, dân
sự và kinh tế (trọng tài); giám sát của Tòa án đối với tính hợp pháp và có căn
cứ của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất tố

tụng, tức là thực hiện sự kiểm tra của Tòa án đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật (bao gồm cả sự kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới) trong
việc áp dụng các chế tài pháp lý về hành chính, hình sự, tố tụng hình sự và
xác nhận chính thức các sự kiện (hành vi) có ý nghĩa pháp lý trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội hoặc hạn chế quyền chủ thể tương ứng (về mặt hiến
định, dân sự ) của các công dân trong quá trình giải quyết các mối quan hệ
xã hội [5, tr. 184]. Tác giả cho rằng: hoạt động thi hành án của các cơ quan thi
hành án là hoạt động gần với hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền
(hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật thuộc nhánh quyền hành pháp
nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án) [5, tr. 188]. Loại ý
kiến thứ ba cho rằng, hoạt động tư pháp là hoạt động của các tổ chức, cá nhân
tham gia vào quá trình giải quyết các tranh chấp pháp luật xảy ra trong đời
sống xã hội. Tác giả cho rằng hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan,
tổ chức và cá nhân tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi
phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán
quyết đó theo thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Hoạt động tư pháp là hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan tư pháp), các cơ quan
thực hiện một số nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định tư
pháp, công chứng tư pháp, luật sư) [50, tr. 27-28]. Loại ý kiến thứ tư khẳng
định, hoạt động tư pháp trước hết phải do cơ quan tư pháp tiến hành, tuy
nhiên không bao hàm tất cả các hoạt động của các cơ quan tư pháp mà chỉ
những hoạt động gắn liền với quá trình giải quyết những vụ án cụ thể. Hoạt
động tư pháp phải có các đặc trưng như phải do cơ quan tư pháp thực hiện
trong quá trình tố tụng và phải được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng, phải là
những hoạt động trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án và có mục

22
đích nhằm giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, khách quan [13, tr. 10-11].
Chúng tôi đồng ý với ý kiến này và cho rằng, hoạt động tư pháp là tập hợp
những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng, có sự liên

quan trực tiếp và hướng tới mục đích nhằm giải quyết vụ án một cách đúng
đắn, khách quan. Và như vậy, thi hành án là giai đoạn tố tụng thì trong giai
đoạn thi hành án có hoạt động tư pháp.
Như vậy, rõ ràng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ
quan tư pháp còn tiến hành một loại hoạt động được điều chỉnh bằng pháp
luật hành chính chứ không được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, vì vậy nó
cũng không được coi là hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện hoạt
động tư pháp, giữa những người ở các cơ quan tư pháp khác nhau luôn tồn tại
một loại quan hệ được gọi là quan hệ hành chính - tư pháp (ví dụ, hoạt động
báo cáo công tác của cấp dưới với cấp trên, hoạt động tổng kết công tác của
mỗi cơ quan, hoạt động thanh tra ) [13, tr. 10-11]. Do đó, hoạt động thi hành
án hình sự có mang tính hành chính - tư pháp.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng thi
hành án vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều
chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp, và thực tiễn hiện
nay, hoạt động thi hành án hình sự được điều chỉnh bởi Luật tố tụng hình sự và
Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự (đối với hình phạt tiền). Nói
tóm lại, xét về bản chất hoạt động thi hành án nói chung, hoạt động thi hành án
phạt tù nói riêng vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù
Mục đích là "cái đích đặt ra để hướng tới, đạt tới" [64, tr. 1064]. Mục
đích của thi hành án phạt tù không nằm ngoài mục đích của hình phạt trong
luật hình sự Việt Nam là phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Ở góc độ
phòng ngừa riêng thì mục đích của thi hành án phạt tù là sự trừng trị kết hợp
với giáo dục nhằm cải tạo người bị kết án, giúp họ nhận thức được lỗi lầm để
cải tạo những thói hư, tật xấu của bản thân, cố gắng rèn luyện, cải tạo để trở

23
thành người lương thiện có ích cho gia đình và cho xã hội, không tái phạm, có
ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,

ngăn ngừa họ phạm tội mới. Ở góc độ phòng ngừa chung thì thi hành án phạt
tù có mục đích quan trọng là: thông qua việc tổ chức thi hành án phạt tù đối
với người bị kết án tù để mọi công dân biết rõ tính nghiêm minh của pháp
luật, sự trừng phạt nghiêm khắc, kịp thời đối với người thực hiện tội phạm
đều bị đe dọa bởi khả năng bị áp dụng hình phạt tù. Việc tổ chức thi hành
hình phạt tù, buộc người bị kết án phạt tù phải chấp hành hình phạt ở cơ sở
chấp hành án là biện pháp có khả năng răn đe, cảnh tỉnh cho những người
đang có ý định thực hiện tội phạm sớm từ bỏ ý định đó nếu không sẽ bị phạt
tù và phải chấp hành bản án phạt tù, phải cách ly khỏi môi trường bình thường
có thời hạn hoặc không thời hạn.
Ý nghĩa là "nội dung được chứa đựng trong hình thức biểu đạt của
ngôn ngữ , giá trị, tác dụng" [64, tr. 1838]. Việc tổ chức thi hành quyết định
thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là căn cứ vào quyết định thi hành
án của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm, sau khi cơ quan thi hành án hình
sự nhận được quyết định thi hành án có nhiệm vụ tổ chức thi hành án bằng
biện pháp buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã có
hiệu lực pháp luật, nhằm thực hiện mục đích của hình phạt là cải tạo và giáo
dục người phạm tội, bảo đảm cho hoạt động thi hành án đúng pháp luật, tránh
được tình trạng ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành án phạt tù thiếu
căn cứ và chậm không bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Việc thi
hành án phạt tù buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở chấp
hành án một mặt đã thực hiện và thể hiện sự lên án của xã hội đối với người
phạm tội và được thực hiện bằng việc cách ly người đó khỏi môi trường sống
của xã hội trong một thời gian nhất định, buộc người bị kết án phải cải tạo,
giáo dục ở môi trường đặc biệt, chịu sự quản lý nghiêm ngặt tại cơ sở chấp
hành án nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội và
có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng và chống tội phạm.

24
1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù

Cơ sở được hiểu là "cái làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó mà phát
triển " [64, tr. 355]. Cơ sở của thi hành án phạt tù chính là cái làm nền tảng để
dựa vào đó hay từ đó để thi hành án phạt tù. Như vậy, cơ sở của thi hành án
phạt tù cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là điều kiện pháp lý cần và đủ để thực
hiện hình phạt tù trong thực tế. Các điều kiện này được quy định trong Hiến pháp,
Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Thi hành
án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Quan hệ pháp luật
về thi hành án phạt tù được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý nhất định.
Các cơ quan, tổ chức thi hành hình phạt tù phải bắt buộc dựa trên và tuân theo
các điều kiện pháp lý đó để có thể đưa người bị kết án thi hành hình phạt tù.
Theo nghĩa này, việc thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt tù
nói riêng chỉ phát sinh từ khi một người bị coi là có tội, tức là từ khi người đó
bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án và tất nhiên phải
là bản án kết tội và áp dụng hình phạt (chứ không phải bản án kết tội nhưng
miễn hình phạt). Căn cứ này xuất phát trên nguyên tắc: "Không ai có thể bị coi là
có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án" [32, Điều 9].
Ngoài ra, cơ sở thi hành hình phạt tù kể trên (hiểu theo nghĩa rộng) còn dựa trên
cơ sở nguyên tắc "Đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án" đòi
hỏi bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành
và được tôn trọng (Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự). Bên cạnh các quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 26 Bộ luật Hình sự cũng quy định: "Hình
phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định" [28],
Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết
án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định" [28].
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nói chung được phát sinh trên cơ sở
các sự kiện pháp lý, đó là sự kiện phạm tội và các quyết định pháp lý của các
cơ quan có thẩm quyền theo luật tố tụng hình sự quy định. Việc thi hành hình
phạt tù - nói cách khác, quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự nói chung và

25

thi hành án phạt tù nói riêng được phát sinh trên cơ sở các quyết định pháp lý
nhất định. Theo nghĩa hẹp, cơ sở thi hành hình phạt tù là các quyết định pháp
lý cụ thể, nếu thiếu các quyết định này, chưa phát sinh việc thi hành hình phạt tù.
Để đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của thi hành án phạt tù, các điều kiện
này được quy định cụ thể, rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng hình sự [14, tr. 31-32].
Từ những phân tích trên, có thể thấy, cơ sở của việc thi hành hình phạt
tù bao gồm:
Cơ sở thứ nhất là bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định những bản
án, quyết định được thi hành, bao gồm: Bản án hoặc phần bản án của Tòa án
cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án
của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa
án. Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự. Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang
chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết
định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại
Việt Nam cho nước ngoài. Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
Như vậy, bản án của Tòa án chỉ trở thành cơ sở thi hành hình phạt tù từ
khi bản án đó tuyên hình phạt tù và khi bản án đó phát sinh hiệu lực pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, một bản án sơ thẩm chỉ
phát sinh hiệu lực pháp luật khi nội dung của bản án đó phản ánh sự thật khách
quan một cách có căn cứ và không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do
luật định để khẳng định thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án. Theo
Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử để kiểm tra
đối với phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vậy,
bản án phúc thẩm chỉ là điều kiện thi hành hình phạt tù khi giải quyết các vấn
đề của bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị những vấn đề có liên quan

×