Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hoàn thiện quy định về tội rửa tiền trong Luật Hình sự Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.63 KB, 91 trang )










ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VĂN TUÂN






HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
VỀ TỘI RỬA TIỀN TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2013
TRẦN VĂN TUÂN LUẬT HÌNH SỰ HÀ NỘI - 2013




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VĂN TUÂN






HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH

VỀ TỘI RỬA TIỀN TRONG LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM
TRÊN CƠ SỞ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải




HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Trần Văn Tuân









DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


1.
APG

Nhóm Châu Á - Thái Bình
Dương

2. FATF Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền
3. GDP Tổng sản phẩm nội địa
4. IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
5. INCSR Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế

MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN
6
1.1. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định pháp lý
về hành vi rửa tiền
6
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định pháp lý
về hành vi rửa tiền trên thế giới
6
1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định pháp lý
về hành vi rửa tiền tại Việt Nam
8
1.2. Quy định về rửa tiền trong một số Công ước quốc tế, 40+9 khuyến
nghị của FATF và trong pháp luật một số nước trên thế giới

10
1.2.1. Quy định về rửa tiền trong một số Văn kiện pháp lý quốc tế 10
1.2.1.1.

Công ước Viên năm 1988 10
1.2.1.2.


Công ước 141 về tội phạm rửa tiền; phát hiện, bắt giữ và
tịch thu các khoản tiền và tài sản do phạm tội mà có
11
1.2.1.3.

Công ước Palermo năm 2000 12
1.2.1.4.

Một số Công ước quốc tế khác 13
1.2.2. 40+9 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về
chống rửa tiền quốc tế (FATF)
14
1.2.3. Quy định về rửa tiền trong pháp luật một số nước trên thế giới

15
1.2.3.1.

Pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 15
1.2.3.2.

Pháp luật của Liên bang Nga 16
1.2.3.3.

Pháp luật của Úc 18
1.2.3.4.

Pháp luật của Vương quốc Anh 18
1.2.3.5.

Pháp luật của Cộng hoà Pháp 19

1.2.3.6.

Pháp luật của Thái Lan 20
1.2.3.7.

Pháp luật của Liên bang Thụy Sĩ 20
1.2.3.8.

Pháp luật của Vương quốc Bỉ 21
1.2.3.9.

Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 22
1.3. Quy định về hành vi rửa tiền trong pháp luật Việt Nam 23
Chương 2:
TỘI RỬA TIỀN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

27
2.1. Khái niệm rửa tiền, dấu hiệu pháp lý đặc trưng và khung
hình phạt của tội rửa tiền trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009
30
2.1.1. Khái niệm rửa tiền 30
2.1.2. Khách thể của tội phạm 31
2.1.3. Mặt khách quan của tội phạm 32
2.1.4. Chủ thể của tội phạm 34
2.1.5. Mặt chủ quan của tội phạm 36
2.1.6. Hình phạt 38
2.2. Thực trạng của hoạt động rửa tiền và tội rửa tiền tại Việt
Nam hiện nay

39
2.3. Một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của tội
rửa tiền trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
49

Chương 3:
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
VỀ TỘI RỬA TIỀN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM


54
3.1.

Kinh nghiệm quốc tế và một số nước trên thế giới trong việc
quy định về tội rửa tiền và việc hoàn thiện quy định về tội
rửa tiền trong luật hình sự Việt Nam

54
3.1.1. Thông qua một số Công ước quốc tế và Khuyến nghị của FATF 54
3.1.2. Thông qua pháp luật của một số nước trên thế giới 56
3.1.2.1.

Pháp luật Liên bang Nga 56
3.1.2.2.

Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức 59
3.1.2.3.

Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 60
3.1.2.4.


Pháp luật Vương quốc Thụy Điển 61
3.1.2.5.

Pháp luật Cộng hòa Indonesia 64
3.1.2.6.

Pháp luật một số nước khác 66
3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định về tội rửa tiền 68

KẾT LUẬN
76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, "rửa tiền" không còn là một thuật ngữ mới
mẻ. Trên thực tế, hoạt động rửa tiền đã bùng nổ ở nhiều quốc gia gây ra
những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các nước đang
phát triển hoặc ở các nước có nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đã quy định "rửa tiền" là hành vi phạm tội,
đồng thời đưa ra các biện pháp phòng, chống nạn rửa tiền song song với nó là
các hình phạt thích đáng [60 tr. 3].
Hoạt động rửa tiền của bọn tội phạm ngày càng trở thành vấn đề mang
tính toàn cầu, hậu quả của nó đối với nền kinh tế trong nước và thế giới rất

lớn. Tiến hành chống nạn rửa tiền là một yêu cầu hết sức bức thiết không chỉ
của riêng một quốc gia nào mà là yêu cầu của toàn thế giới. Tội phạm về rửa
tiền hoạt động ngày càng tinh vi, tầm hoạt động xuyên quốc gia với quy mô
lớn và thường có tổ chức, đồng thời rửa tiền là hoạt động đi liền sau các hoạt
động phạm tội khác. Do đó, ngay từ năm 1988 đã có hàng loạt các Công ước
quốc tế về phòng, chống rửa tiền ra đời.
Mặc dù không thể thống kê chính xác số lượng tiền, tài sản liên quan
đến hoạt động phạm tội rửa tiền, do tính bí mật, tính xuyên quốc gia và tính
phức tạp của nó, các nghiên cứu gần đây đều chỉ ra rằng sự ảnh hưởng của
dòng tiền "bẩn" trong hệ thống tài chính đã gây ra những rủi ro nghiêm trọng
cho hệ thống tài chính của các quốc gia, ảnh hưởng lớn đến sự an toàn của
nền kinh tế, đến an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu.
Tại Việt Nam, thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2008, tại Kỳ họp thứ IV, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự. Ngày 29/6/2009, Quốc hội

2
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999
sửa tội danh của Điều 251 từ tội "hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà
có" thành tội "rửa tiền"; đồng thời quy định về hành vi rửa tiền một cách rõ
ràng hơn, tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm rửa tiền.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau đối với một số dấu hiệu pháp
lý của tội rửa tiền. Mặc dù tội rửa tiền theo quy định tại Điều 251 Bộ luật
Hình sự hiện hành có sự khác biệt và tiến bộ hơn nhiều so với quy định của
Bộ luật Hình sự năm 1999, nhưng từ khi ban hành cho đến nay đã xuất hiện
nhiều quan điểm khác nhau [15] dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng.
Điều 251 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định theo hướng liệt kê các
hành vi bị coi là rửa tiền sẽ dễ dẫn đến sự không linh hoạt trong áp dụng pháp
luật khi xuất hiện các nhóm hành vi mới (Luật phòng, chống rửa tiền quy định
hai nhóm hành vi mới ngoài các hành vi quy định trong Bộ luật Hình sự coi là

rửa tiền) và có thể trong tương lai sẽ xuất hiện những hành vi rửa tiền khác
mà pháp luật chưa điều chỉnh. Hành vi rửa tiền thường được thực hiện bởi các
nhóm hoặc các tổ chức tội phạm trong nước hoặc xuyên quốc gia, vì vậy công
tác đấu tranh chống tội phạm này gặp nhiều khó khăn. Tội phạm bị phát hiện
thường đưa ra xét xử đối với tội phạm nguồn nên tội danh rửa tiền ít áp dụng
trên thực tế.
Vì những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề "Hoàn thiện quy định về tội
rửa tiền trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế" làm
đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành quy định về
hành vi rửa tiền tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội danh
"Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có" đến khi Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 được ban hành sửa Điều 251

3
thành tội danh "tội rửa tiền". Đã có những đề tài, công trình nghiên cứu của
các nhà luật học nghiên cứu về tội này trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình
sự năm 1999 và pháp luật quốc tế. Có thể nêu ra một số bài viết về vấn đề này
như sau: Nguyễn Xuân Yêm - Học viện Cảnh sát nhân dân: Phòng chống các
loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Công an nhân dân, 2005; Nông
Xuân Trường, Viện Khoa học kiểm sát: Tìm hiểu về việc phòng chống tội
phạm rửa tiền trên thế giới, Tạp chí Kiểm sát, số 9, 2005;
Từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009
đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu như: Lê Đăng Doanh, Trần Thị Hồng
Nhạn: Tìm hiểu về tội rửa tiền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng,
Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ 1, tháng 10 (số 19), 2010; Nguyễn Ngọc Minh -
Học viện Cảnh sát nhân dân: Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm rửa tiền
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12(237), 2011;
Thông tin khoa học pháp lý - Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2011),

Chuyên đề: Nghiên cứu các giải pháp pháp lý phòng chống rửa tiền ở Việt
Nam trong xu thế hội nhập, số 8+9, năm 2011; Tuy nhiên, vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ các vấn đề liên quan đến tội rửa tiền.
Đề tài luận văn nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản nhất về mặt lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định của tội rửa tiền theo quy định
tại Điều 251 Bộ luật Hình sự hiện hành.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số khía cạnh cơ bản nhất về
mặt lý luận những nội dung của tội rửa tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự
Việt Nam hiện hành, nghiên cứu phân tích thực trạng tội rửa tiền tại Việt Nam.
Nghiên cứu, so sánh và học hỏi kinh nhiệm của một số nước trên thế giới
nhằm đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự của Việt Nam đối với tội

4
rửa tiền. Xác định những bất cập trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp
tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật trong thời gian tới và nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội rửa tiền.
- Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của quy định pháp
luật đối với tội phạm này trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, làm sáng
tỏ một số khía cạnh cơ bản nhất vấn đề lý luận đối với tội rửa tiền trong Bộ
luật Hình sự Việt Nam. Đồng thời so sánh quy định về tội rửa tiền theo luật
hình sự Việt Nam với quy định về tội rửa tiền trong luật hình sự của một số
nước nhằm làm sáng tỏ bản chất pháp lý của tội rửa tiền theo quy định của
luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng Điều 251 Bộ
luật Hình sự Việt Nam về tội rửa tiền. Trên cơ sở phân tích những thiếu sót,

khuyết điểm và những vướng mắc của việc áp dụng pháp luật hình sự liên
quan đến việc xác định hành vi rửa tiền trên thực tế, đề xuất những giải pháp
cụ thể nhằm góp phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.
Tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ công tác
đấu tranh phòng, chống tội rửa tiền.
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu quy định về tội rửa tiền theo quy định tại Điều 251
Bộ luật Hình sự Việt Nam. Nghiên cứu, phân tích các quy định về loại tội này
trong luật hình sự của một số nước trên thế giới. Cụ thể nghiên cứu các vấn đề
sau: Cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học của tội rửa tiền; Các trường phái, các quan
điểm của một số nước trên thế giới trong việc xác định hành vi rửa tiền, chủ
thể của loại tội này và một số cơ sở khoa học khác nhằm xác định trách nhiệm

5
hình sự; thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội rửa tiền trên địa
bàn toàn quốc.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật đối với hành vi rửa tiền; nghiên cứu về mặt lý luận tội rửa tiền theo
quy định của pháp luật quốc tế và theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự
Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng Bộ luật
Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về chính
sách hình sự qua các thời kỳ.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về rửa tiền.
Chương 2: Tội rửa tiền trong bộ luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện quy định về tội rửa tiền
trong luật hình sự Việt Nam.



6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN

1.1. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LÝ VỀ HÀNH VI RỬA TIỀN

1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định pháp lý
về hành vi rửa tiền trên thế giới
Hành vi rửa tiền đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Cách đây khoảng
4000 năm trước Công nguyên, hành vi có dấu hiệu rửa tiền của các thương
nhân Trung Quốc thông qua việc che giấu tài sản thực có của mình để nhằm
tránh bị phát hiện, sung công quỹ.
Vào những năm 1930, ở các nước châu Mỹ Latinh đã xuất hiện một
loại hành vi tội phạm mới, tiếng Tây Ban Nha gọi là "Blanqueo", dịch ra tiếng
Anh là "Bleaching" và "Whitening" (tẩy trắng). Đây là hành vi nhằm chuyển
hóa đồng tiền và các thu nhập bất minh thành đồng tiền hợp pháp [30, tr.
256]. Vào những năm 70 của thế kỷ 20, hành vi rửa tiền mới thực sự phổ biến
và được quan tâm nhiều hơn thông qua vụ bê bối của tổng thống Mỹ Richard
Nixon trong mối quan hệ với Mafia. Theo báo cáo năm 2000 của Cơ quan
chống các chất gây nghiện quốc tế (gọi tắt là INCSR) cho tới thời điểm này số

các nước có tình trạng rửa tiền ở mức độ đáng lo ngại đã lên tới mức hai con
số. Cụ thể tổ chức này chia mức độ hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành ba
mức chủ yếu: Nhóm mức độ lo ngại cao; Nhóm mức độ lo ngại trung bình và
nhóm được theo dõi [48]. Sự phân chia này dựa trên các tiêu chí: Có hay
không có những cơ quan tài chính của quốc gia tiến hành các giao dịch có liên
quan trực tiếp đến lượng tiền thu được từ những tội phạm nghiêm trọng; phạm
vi của hoạt động xét xử hay bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền; bản chất và qui
mô của tình trạng rửa tiền ở trong nước; những cách thức mà mỗi quốc gia

7
quan tâm đến tình hình cụ thể khi có chi nhánh quốc tế; những tác động hiện
tại mà mỗi quốc gia quan tâm; có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ
pháp luật được phép chỉ ra những vấn đề cụ thể; có hay không việc thiếu thủ
tục cho phép hoạt động và bỏ sót các Trung tâm buôn bán và tài chính nước
ngoài; có hay không giới hạn của pháp luật đang thực thi ngày càng có hiệu
quả; và sự hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền ở các quốc gia.
Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm
che đậy, xóa nhòa nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ
hoạt động phạm tội. Ngày nay, thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở
nhiều nước trên thế giới.
Sự ghi nhận rửa tiền về mặt pháp lý đầu tiên đó là Công ước Viên năm
1988 của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất
hướng thần (sau đây gọi tắt là Công ước Viên 1988). Công ước này có hiệu
lực từ tháng 11/1990.
Đến năm 1990, Hội đồng Châu âu thông qua Công ước số 141 ngày
08/10/1990 về tội phạm rửa tiền; phát hiện, bắt giữ và tịch thu các khoản tiền
và tài sản do phạm tội mà có. Công ước này mở rộng khái niệm về hành vi
rửa tiền hơn so với Công ước Viên 1988 theo hướng không chỉ giới hạn ở
những thu nhập từ hoạt động buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất
hướng thần mà còn cả thu nhập có được từ các loại tội phạm khác.

Năm 2000, Công ước quốc tế về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia (gọi tắt là Công ước Palermo năm 2000) ra đời đã quy định những
hành vi bị coi là rửa tiền. Công ước Palermo năm 2000 yêu cầu các quốc gia
phê chuẩn Công ước phải hình sự hóa hành vi rửa tiền và quy định tất cả các
tội phạm nghiêm trọng (không chỉ riêng buôn bán bất hợp pháp ma túy và các
chất hướng thần) là tội phạm nguồn của tội rửa tiền.

8
Tháng 10/2003, Liên hợp quốc thông qua Công ước về chống tham
nhũng, có hiệu lực vào tháng 12/2005. Nội dung của Công ước về cơ bản nhất
trí quan điểm định nghĩa hành vi rửa tiền giống như Công ước Palermo năm
2000. Đồng thời Công ước về chống tham nhũng đã đưa ra các biện pháp
phòng, chống rửa tiền; kêu gọi các bên ký kết phải quy định hành vi che giấu,
tàng trữ tiền, tài sản do tham nhũng mà có là tội phạm và phải hình sự hóa
hành vi phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, đồng phạm trong pháp luật
quốc gia [28, Lời nói đầu, Điều 14, 23, 27].
Cho đến nay, hành vi rửa tiền đã trở nên phổ biến và ngày càng phát
triển hơn, thủ đoạn rửa tiền tinh vi hơn. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
có quy định trong pháp luật nước mình về các trường hợp bị coi là rửa tiền và
các biện pháp phòng, chống đối với hành vi rửa tiền.
1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển của các quy định pháp lý
về hành vi rửa tiền tại Việt Nam
Bộ luật Hình sự năm 1985, đã có quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có tại Điều 201. Hành vi chứa chấp
hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cũng là một trong những
hành vi rửa tiền theo quy định của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, quy định tại
Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 1985 chưa thể hiện được những hành vi bị coi
là rửa tiền.
Năm 1997, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua Luật các Tổ chức tín dụng, Luật này đã có quy định về trách nhiệm của

các tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền có nguồn gốc bất hợp pháp, nhưng
chưa sử dụng thuật ngữ "rửa tiền".
Ngày 21 tháng 12 năm 1999, Quốc hội thông qua Bộ luật Hình sự năm
1999 quy định hành vi rửa tiền trong các tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250 và tội hợp pháp hóa tiền, tài
sản do phạm tội mà có. Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy đã quy định đầy đủ hơn

9
hành vi rửa tiền trong các điều luật phần các tội phạm, nhưng vẫn chưa mô tả
được hết hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là hành vi rửa tiền.
Ngày 07/6/2005, để đáp ứng yêu cầu hội nhập và tham gia các tổ chức
quốc tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2005/NĐ-CP ngày
07/6/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 74/2005/NĐ-CP). Nghị định đã mô tả những hành vi bị coi là rửa tiền,
tuy nhiên trong quá trình áp dụng vào thực tế, Nghị định đã bộc lộ những
thiếu sót nhất định như: Nghị định số 74/2005/NĐ-CP chưa phải là văn bản
quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật; Đối tượng có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền theo
quy định tại Điều 6 Nghị định số 74/2005/NĐ-CP chưa bao gồm tổ chức hành
nghề công chứng, kế toán viên hành nghề độc lập…; chưa có những quy định
về vấn đề ngân hàng vỏ bọc, tài khoản vô danh hoặc tài khoản sử dụng tên
giả, cá nhân có ảnh hưởng chính trị…[12].
Ngày 19/6/2009, Quốc hội thông qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, Luật số 37/2009/QH12 đã sửa tội
danh tại Điều 251 từ "tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có" thành
"tội rửa tiền", đồng thời cũng đã quy định rõ những hành vi nào bị coi là tội
rửa tiền phù hợp với Công ước quốc tế. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ "rửa
tiền" được quy định trong văn bản pháp luật hình sự, là cơ sở để các cơ quan
tiến hành tố tụng đấu tranh đối với loại tội này.
Ngày 16/6/2010, Quốc hội thông qua Luật Các tổ chức tín dụng năm

2010 với các quy định liên quan đến việc phòng, chống rửa tiền và tài trợ
khủng bố. Các tổ chức tín dụng, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không
được che giấu, thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến khoản tiền có
nguồn gốc bất hợp pháp; phải xây dựng, thực hiện các biện pháp phòng,
chống rửa tiền, cũng như hợp tác với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc điều tra hoạt động rửa tiền [56, Điều 11]

10
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập và để đảm bảo tuân thủ các
cam kết quốc tế, ngày 06/8/2011, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
07/2011/QH13 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012, trong đó
có nội dung xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền trình Quốc hội thông qua
vào kỳ họp thứ 3 (tháng 05/2012). Ngày 18 tháng 6 năm 2012, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật phòng, chống rửa tiền.
1.2. QUY ĐỊNH VỀ RỬA TIỀN TRONG MỘT SỐ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ,
40+9 KHUYẾN NGHỊ CỦA FATF VÀ TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
1.2.1. Quy định về rửa tiền trong một số Văn kiện pháp lý quốc tế
1.2.1.1. Công ước Viên năm 1988
Công ước Viên năm 1988 của Liên hợp quốc về chống buôn bán bất
hợp pháp ma túy và các chất hướng thần có hiệu lực từ tháng 11/1990 là văn
bản pháp lý đầu tiên ghi nhận hành vi rửa tiền bao gồm:
Hành vi chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản khi biết rằng tài sản đó
có nguồn gốc từ buôn bán ma túy hoặc từ việc tham gia vào hoạt động phạm
tội với mục đích che giấu nguồn gốc tài sản hoặc giúp người thực hiện các
hành vi trên trốn tránh trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi của mình;
Hành vi che giấu hoặc ngụy trang bản chất, nguồn gốc, địa điểm, việc
định đoạt, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc các quyền liên quan đến
tài sản mà biết rõ tài sản do buôn bán ma túy mà có;
Hành vi mua bán, tàng trữ hoặc sử dụng tài sản trong khi biết rõ tài

sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có [25, Điều 3 (b), (c), (i)].
Công ước chủ yếu đề cập đến các quy định liên quan đến việc chống
buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, các vấn đề liên quan
đến thi hành pháp luật. Công ước yêu cầu các nước thành viên phải xây dựng
hệ thống pháp luật quốc gia về hoạt động điều tra, bắt giữ đối với các đối

11
tượng có hành vi liên quan đến hoạt động buôn bán ma túy, quy định về việc
tịch thu các khoản tiền liên quan đến hoạt động buôn bán ma túy. Tuy nhiên,
Công ước chỉ giới hạn hành vi rửa tiền đối với loại tội phạm nguồn là buôn
bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần. Đây là một điểm hạn chế
trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền trên thế giới.
1.2.1.2. Công ước 141 về tội phạm rửa tiền; phát hiện, bắt giữ và
tịch thu các khoản tiền và tài sản do phạm tội mà có
Ngày 08/10/1990, Hội đồng Châu Âu đã mở rộng khái niệm của Công
ước Viên thông qua Công ước 141 về tội phạm rửa tiền; phát hiện, bắt giữ và
tịch thu các khoản tiền và tài sản do phạm tội mà có. Công ước 141 mở rộng
khái niệm rửa tiền theo hướng không chỉ giới hạn ở những thu nhập từ hoạt
động buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần mà còn cả thu
nhập có được từ các loại tội phạm khác, trong đó có các hành vi sau:
- Chuyển đổi hoặc chuyển giao những giá trị vật chất khi biết rằng
những giá trị vật chất đó được thu nhập, có nguồn gốc từ hoạt động tội phạm
với mục đích che giấu nguồn gốc những giá trị vật chất này hoặc giúp người
thực hiện hành vi trên trốn tránh trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình.
- Che giấu hoặc ngụy trang bản chất, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt,
chuyển nhượng các giá trị vật chất hoặc các quyền có liên quan đến giá trị vật
chất mà biết rõ những giá trị vật chất này có được bằng hoạt động phạm tội.
- Mua bán, tàng trữ hoặc sử dụng những giá trị vật chất trong khi biết
rõ những giá trị vật chất này có được bằng hoạt động phạm tội.
- Tham gia vào một trong những hoạt động phạm tội hoặc bất kỳ một

liên hiệp, liên minh, có mưu đồ hay cùng tham gia giúp đỡ hoặc tạo điều kiện
cho người khác hoạt động phạm tội.



12
1.2.1.3. Công ước Palermo năm 2000
Cuối năm 2000, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia (gọi tắt là Công ước Palermo năm 2000) được ký kết bởi
124 quốc gia (trong đó có Việt Nam) với các quy định về hành vi rửa tiền và
hình sự hóa hành vi rửa tiền. Theo Công ước thì hành vi rửa tiền là:
- Chuyển đổi hay chuyển nhượng tài sản, cho dù biết đó là tài sản do
phạm tội mà có, nhằm che giấu hoặc ngụy trang nguồn gốc bất hợp pháp của
tài sản đó hoặc nhằm giúp đỡ bất kỳ ai có liên quan đến việc thực hiện tội
phạm chính để lẩn tránh trách nhiệm pháp lý do hành vi của người này mang lại.
- Che giấu hoặc ngụy trang bản chất thực sự, nguồn gốc, địa điểm sự
chuyển nhượng, sự vận chuyển hoặc sở hữu hoặc các quyền liên quan đến tài
sản, dù biết tài sản đó do phạm tội mà có.
- Phụ thuộc vào các khái niệm căn bản của hệ thống pháp luật quốc
gia: Nhận, sở hữu hoặc sử dụng tài sản, mà tại thời điểm nhận đã biết rằng tài
sản đó do phạm tội mà có; tham gia, phối hợp hoặc có âm mưu thực hiện hành
vi, cố gắng thực hiện hành vi hay giúp sức, xúi giục, tạo điều kiện thuận lợi và
bầy mưu để thực hiện bất kỳ một tội phạm nào tương ứng với quy định tại
điều này khi biết rõ là tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có [27, Điều 6].
Công ước Palermo năm 2000 yêu cầu các quốc gia phê chuẩn Công
ước phải hình sự hóa hành vi rửa tiền [27, Điều 6] và quy định tất cả các tội
phạm nghiêm trọng (không chỉ riêng buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất
hướng thần) là tội phạm nguồn của tội rửa tiền. Công ước yêu cầu các quốc
gia phải có hệ thống thông tin và báo cáo thông tin kịp thời những giao dịch
đáng ngờ, phải tạo điều kiện cho việc kiểm tra, điều tra, khởi tố hành vi rửa

tiền… cũng như việc phối hợp đấu tranh phòng, chống rửa tiền giữa các nước.
Cho tới nay, hầu hết các nước đều tán thành định nghĩa về rửa tiền
được sử dụng trong Công ước Viên 1988 và Công ước Palermo năm 2000.


13
1.2.1.4. Một số Công ước quốc tế khác
Năm 2002, Công ước quốc tế về trấn áp hành vi tài trợ cho khủng bố
được Liên hợp quốc thông qua với nội dung yêu cầu các quốc gia thành viên
phải hình sự hóa hành vi khủng bố, trấn áp các hành vi tham gia trực tiếp hoặc
đồng phạm trong việc cung cấp bất hợp pháp hoặc quyên góp tiền, tài sản bất
hợp pháp trong cả trường hợp đã hoàn thành và chưa hoàn thành.
Tháng 10/2003, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước về
chống tham nhũng, Công ước này có hiệu lực từ tháng 12/2005 cơ bản đồng
nhất quan điểm định nghĩa về hành vi rửa tiền giống như Công ước Palermo
năm 2000, đồng thời Công ước về chống tham nhũng đã đưa ra các biện pháp
phòng chống rửa tiền; kêu gọi các bên ký kết phải quy định hành vi che giấu,
tàng trữ tiền, tài sản do tham nhũng mà có là tội phạm và phải hình sự hóa
hành vi phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, đồng phạm trong pháp luật
quốc gia [28, Lời nói đầu, Điều 14, 23, 27].
Như vậy, trong các Công ước quốc tế xuất hiện các thuật ngữ tội phạm
gốc, tội phạm chính ngoài ra còn có thuật ngữ tội phạm nguồn. Theo điểm g
Điều 2 Công ước Palermo năm 2000 thì "Tội phạm chính" là tất cả những tội
phạm làm phát sinh những tài sản có thể trở thành đối tượng của một trong
những hành vi phạm tội được quy định tại điều 6 của Công ước này”. Theo
quy định tại điểm h Điều 2 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng thì "Tội phạm gốc" là bất kỳ tội phạm nào mà tài sản có được từ tội
phạm đó có thể trở thành đối tượng của một tội phạm được quy định tại Điều
23 của Công ước này”. Đối với tội phạm nguồn, được định nghĩa như sau:
"Tội phạm nguồn" của tội rửa tiền là hành vi phạm tội chính, từ đó đã tạo ra

những đồng tiền mà khi đã được rửa thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội rửa tiền
[47, tr.3].



14
1.2.2. 40+9 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về
chống rửa tiền quốc tế (FATF)
FATF là một tổ chức liên chính phủ, có chức năng đưa ra các tiêu
chuẩn, xây dựng và phát triển các chính sách chống rửa tiền và tài trợ khủng
bố. Hiện tại FATF có 33 thành viên (gồm 31 quốc gia và chính phủ và 2 tổ
chức quốc tế) cùng hơn 20 quan sát viên (có 5 cơ quan khu vực theo mô hình
FATF và hơn 15 tổ chức hoặc cơ quan quốc tế khác).
FATF là lực lượng quốc tế quan trọng nhất về chống rửa tiền và tài trợ
khủng bố. FATF là cơ quan liên chính phủ được thành lập vào tháng 7/1989
tại Hội nghị thượng đỉnh G7 tổ chức tại Paris với nhiệm vụ thiết lập các tiêu
chuẩn, phát triển và thúc đẩy các chính sách quốc gia và quốc tế nhằm chống
rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
Theo FATF thì hành vi rửa tiền bao gồm các hành vi sau:
- Giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật;
- Cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay
chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp;
- Cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp.
Mặc dù khuyến nghị của FATF không mang tính chất bắt buộc nhưng
là những quy định mang tính khuyến khích các quốc gia thực hiện và ghi nhận
như là một công cụ hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.
Nội dung cơ bản của 40 khuyến nghị gồm các vấn đề sau:
- Phạm vi của tội phạm hình sự rửa tiền, các biện pháp tạm thời và
tịch thu (khuyến nghị 1, 2, 3);
- Các biện pháp được các định chế tài chính và các loại hình phi tài

chính thực hiện nhằm ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố (từ
khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 16);

15
- Các biện pháp tổ chức và biện pháp khác cần thiết trong hệ thống
chống rửa tiền và tài trợ khủng bố (từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 34);
- Hợp tác quốc tế (từ khuyến nghị 35 đến khuyến nghị 40).
Như vậy, định nghĩa về hành vi rửa tiền theo quy định của pháp luật
quốc tế liệt kê các hành vi một cách tương đối đầy đủ hoạt động rửa tiền.
1.2.3. Quy định về rửa tiền trong pháp luật một số nước trên thế giới
1.2.3.1. Pháp luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Rửa tiền là hành vi che đậy hoặc ngụy trang bản chất, nguồn gốc,
quyền sở hữu hoặc kiểm soát những khoản tiền kiếm được do trái pháp luật.
Nếu hành vi rửa tiền được thực hiện thành công thì tội phạm rửa tiền sẽ duy
trì được quyền sở hữu những khoản tiền trái phép và tạo được vỏ bọc ngụy
trang cho nguồn thu nhập bất hợp pháp của mình. Luật rửa tiền được áp dụng
đối với mọi nguồn tiền bất hợp pháp, ví dụ như tiền kiếm được do buôn bán
người trái phép, buôn lậu ma túy, khủng bố, các tội phạm có tổ chức, trốn
thuế, và một số tập thể hoặc cá nhân giao dịch, sử dụng hoặc đầu tư bằng tiền
bất hợp pháp.
Ở Mỹ, theo thống kê hàng năm trong lĩnh vực tài chính - tín dụng của
Mỹ có khoảng 500 tỷ đô la Mỹ được tẩy rửa. Theo các chuyên gia Mỹ, khi tội
phạm có tổ chức huy động toàn bộ lực lượng và phương tiện cho việc hợp
pháp hóa thu nhập bất hợp pháp, để bảo đảm mức độ tin cậy cao trong hoạt
động rửa tiền, chúng tiến hành phân tuyến nhiều lần đồng đô la Mỹ bằng cách
chuyển những đồng tiền "bẩn" từ một tài khoản này sang tài khoản khác nhiều
lần trong phạm vi nước Mỹ. Ngoài ra chúng còn sử dụng cả các kênh chuyển
tiền quốc tế [34, tr. 30].
Do giới tội phạm thường che giấu các hoạt động của mình nên những
số tiền được thay tên đổi họ này không được biết một cách chính xác nhưng

Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền này có thể lên đến từ

16
2% đến 5% tổng GDP toàn thế giới, so với GDP năm 2009 thì con số 2% -
5% tương đương khoảng 800 tỷ đến 2000 tỷ đô la Mỹ.
Lực lượng đặc nhiệm tài chính của nhóm Giao thông đã đưa ra con số
khác từ 300.000 triệu đến 500.000 triệu đô la Mỹ. Theo tạp chí Business
Week, chỉ riêng trong nền kinh tế Mỹ, hàng ngày có khoảng 2 triệu đô la Mỹ
được chuyển qua chủ mới.
Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ
Hoa Kỳ là phải có những quy định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu
hiệu chống rửa tiền. Trong đó, những điểm cần chú ý là: Kết hợp hoạt động
trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế bởi theo ý kiến của một số
quan chức Hoa Kỳ thì thường việc thực thi pháp luật Hoa Kỳ bị thất bại do sự
phức tạp của những điều luật của nước ngoài cũng như sự thiếu hợp tác của
Chính phủ nước ngoài. Do vậy việc phối hợp trong hành động chống "rửa
tiền" là hết sức cần thiết.
Năm 1970, Mỹ đã thông qua Luật về bí mật ngân hàng; năm 1986, Mỹ
thông qua Luật về kiểm soát tẩy rửa tiền và Luật về tẩy rửa tiền đặc biệt. Luật
về kiểm soát tẩy rửa tiền quy định tẩy rửa tiền là hành vi phạm tội bị truy tố ở
cấp Liên bang. Còn Luật về tẩy rửa tiền đặc biệt thì quy định các ngân hàng
có nghĩa vụ thống kê mọi giấy tờ và báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền về
những giao dịch vượt quá mức tiền quy định. Năm 1995, Tổng thống Mỹ ban
hành sắc lệnh N42 coi hoạt động rửa tiền là mối đe dọa đối với nền an ninh
của Mỹ và các nước khác.
1.2.3.2. Pháp luật của Liên bang Nga
Theo ước tính của John Walker (nhà phân tích xu hướng tội phạm) về
tình hình rửa tiền năm 1998, rửa tiền chiếm đến 15% GDP của Nga, đứng thứ
3 trong tốp 20 nước đứng đầu về tội rửa tiền, và trong cả tốp 20 nước là điểm
đến hàng đầu cho tội phạm rửa tiền.


17
Trước những số liệu thống kê đáng lo ngại đó và việc luật chống rửa
tiền của Nga còn chưa phát triển, năm 2000, FATF đã liệt Nga vào danh sách
đen những "cảng tránh thuế" [76]. Những năm gần đây, Nga đã có những
bước cải thiện đáng kể, được thể hiện qua việc vào năm 2001 Nga đã phê
chuẩn Công ước của Hội đồng Châu Âu về rửa tiền, điều tra, bắt giữ và tịch
thu tài sản. Sau đó ngày 01/1/2002, Nga đã thông qua Bộ luật Liên bang số
115FZ về chống rửa tiền và tội phạm tài chính. Theo luật này thì các ngân
hàng, tổ chức tài chính phải chịu sự giám sát và phải báo cáo với Chính phủ:
- Mọi giao dịch từ 600.00 rúp trở lên (tương đương với 17.500 Euro)
và bao gồm hoặc có liên quan tới: thanh toán tiền mặt, các tổ chức hoặc pháp
nhân ở các nước không tham gia vào cuộc chiến quốc tế về chống rửa tiền,
tiền gửi ngân hàng, đá hoặc kim loại quý, các khoản thanh toán thuộc chính
sách bảo hiểm nhân thọ, hoặc cờ bạc.
- Mọi giao dịch của các cá nhân hoặc tổ chức cực đoan được liệt kê
trong danh sách của Nga
- Các dịch đáng ngờ
Các giao dịch bất động sản từ 3.000.000 rúp trở lên (xấp xỉ 84.500 Euro)
cũng bị bắt buộc kiểm soát. Luật này cũng yêu cầu các tổ chức tài chính phải
nắm chắc thông tin khách hàng, và không cho phép lập hoặc duy trì các tài
khoản nặc danh.
Theo thống kê của Ban giám sát tài chính liên bang, năm 2003 có
14 người phạm tội rửa tiền, năm 2005 có 419 người, năm 2006 có 532 người,
đến năm 2007 có hơn 140 vụ án rửa tiền với tổng số tiền bất hợp pháp thu
được là 289 tỷ Rúp (khoảng 15 tỉ Euro) [76].
Nga trở thành thành viên chính thức của FATF vào năm 2003. Bộ luật
Hình sự Nga quy định ba tội phạm liên quan đến rửa tiền là Tội hợp pháp hóa
tiền và tài sản khác do người khác có được một cách bất hợp pháp (Điều 174);
Tội hợp pháp hóa tiền hoặc tài sản do mình phạm tội mà có (Điều 174.1); Tội

sở hữu hoặc tiêu thụ tài sản biết rõ là do phạm tội mà có (Điều 175). Luật

18
hình sự Nga quy định tất cả các hành vi liên quan đến việc rửa tiền từ hoạt
động tội phạm gốc là tội phạm. Pháp luật hình sự của Nga không truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thực hiện hành vi rửa tiền mà chỉ truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân.
1.2.3.3. Pháp luật của Úc
Úc là một trong những nước được coi là thị trường vốn lớn nhất trong
khu vực Châu Á - Thái bình dương. Theo ước tính của Chính phủ Úc thì mỗi
năm lượng tiền được rửa tại nước này khoảng 2 - 3 tỷ AUD [69, tr. 32].
Năm 1988, Úc ban hành luật về báo cáo giao dịch tài chính. Luật này
yêu cầu các ngân hàng, các tổ chức tài chính phải cập nhật thông tin của chủ
tài khoản, lưu hồ sơ trong thời gian 7 năm kể từ ngày đóng tài khoản. Luật
quy định phải báo cáo các giao dịch đáng ngờ, giao dịch tiền mặt có số tiền từ
10.000 AUD (khoảng 7.500 USD) và mọi giao dịch chuyển tiền quốc tế vào
hoặc ra khỏi Úc (bất kể giá trị tiền là bao nhiêu).
Năm 1987, Úc đã ban hành Luật tội phạm, trong đó quy định về tội
phạm về rửa tiền liên quan đến tội phạm nghiêm trọng. Luật tội phạm năm 2002
thay thế quy định về tội phạm rửa tiền theo quy định của Luật tội phạm năm
1987. Trong đó Luật tội phạm năm 2002 quy định về tội phạm rửa tiền phù
hợp với quy định của Bộ luật Hình sự. Luật tội phạm năm 2002 cũng cho phép
các Công tố viên áp dụng tạm giữ và tịch thu tiền, tài sản có được từ tội phạm.
1.2.3.4. Pháp luật của Vương quốc Anh
Từ năm 1986, tại Anh hành vi rửa tiền đã được coi là phạm tội và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ ngày 15/6/2006, Anh áp dụng quy định số 1889/2005 của Hội đồng
Liên minh Châu Âu về Quy chế kiểm soát tiền mặt, trong đó quy định việc
thiết lập hệ thống khai báo tiền mặt từ 10.000 Euro hoặc ngoại tệ khác tương
đương cho tất cả mọi người ra vào Châu âu.

×