Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 117 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HỮU TUẤN





HOÀN THIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƢ PHÁP HIỆN
NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà nội - 2009







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HỮU TUẤN




HOÀN THIỆN THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƢ PHÁP HIỆN NAY



Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40




TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI – 2009





1
MỤC LỤC



TRANG

Trang phụ bìa


LỜI CAM ĐOAN


Mục lục



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ
6
1.1.
Quy định chung về thủ tục tại phiên tòa hình sự
6
1.1.1.
Khái niệm về thủ tục tại phiên tòa hình sự
6
1.1.2.
Các nguyên tắc chung khi xét xử vụ án hình sự
9
1.2.
Quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
19
1.2.1.
Vị trí, vai trò của thủ tục phiên tòa sơ thẩm hình sự
19
1.2.2.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa
23

1.2.3.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
26
1.2.4.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa
30
1.2.5.
Thủ tục nghị án và tuyên án
39
1.2.6.
Thủ tục giải quyết đối với người vi phạm trật tự phiên tòa
40
1.3.
Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm ở một số nước trên thế giới
41
1.3.1.
Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự của Tòa án Hoa Kỳ
41
1.3.2.
Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự của Tòa án Pháp
43
1.3.3.
Thủ tục tố tụng tại Tòa án của Liên bang Nga
44
1.4.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
46

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC

51


2
TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ
2.1.
Thực trạng áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự
51
2.1.1.
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chưa được thực sự độc lập khi xét xử
53
2.1.2.
Vẫn còn tình trạng oan sai trong xét xử sơ thẩm
55
2.1.3.
Vi phạm các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa
56
2.2.
Nguyên nhân của những hạn chế
72
2.2.1.
Nguyên nhân khách quan
72
2.2.2.
Nguyên nhân chủ quan
74

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

76
3.1.
Những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp
và việc hoàn thiện các quy định về thủ tục phiên tòa sơ thẩm hình sự
76
3.2.
Những kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thủ tục phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu về cải cách
tư pháp hiện nay
78
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tố tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
78
3.2.2.
Hoàn thiện các quy định để đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
87
3.3.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp
luật về thủ tục phiên tòa sơ thẩm
92

Kết luận
100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101




3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX
: Héi ®ång xÐt xö
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


4

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng

Trang
2.1
Kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự (2003 - 2009)
51




















5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử các vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng trong quá trình
giải quyết một vụ án hình sự. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và quyết

định hình phạt đối với một người nhưng hoạt động này phải tuân theo những
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) hình sự thông qua việc xét
xử tại phiên tòa. Tại đây, Hội đồng xét xử (HĐXX) trực tiếp xác định những
tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến bị cáo, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự để đưa
ra phán quyết về việc bị cáo có phạm tội hay không, hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác cũng như các vấn đề khác của vụ án…
Để việc xét xử được chính xác, xác định vụ án một cách toàn diện,
khách quan, đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác
định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ của bị cáo
thì việc tuân thủ chặt chẽ các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa đóng
một vai trò rất quan trọng. Ngoài ra, việc tuân thủ này còn góp phần giáo dục
công dân trong việc tuân thủ pháp luật, góp phần vào công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung. ở phiên tòa sơ thẩm, việc tuân thủ thủ tục
phiên tòa càng có ý nghĩa quan trọng vì đây là giai đoạn xét xử đầu tiên, có ý
nghĩa quyết định vì có thể vụ án sẽ không tiếp diễn ở giai đoạn phúc thẩm nữa
hoặc nếu có thì cũng chỉ xem xét ở nội dung có kháng cáo, kháng nghị…
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, hiện tượng vi
phạm các quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự vẫn còn xảy ra
phổ biến, gây thiệt hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng, làm tăng tỷ lệ án bị hủy, bị sửa không cần thiết. Đặc biệt, trong bối cảnh


6
khi Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện được tăng thẩm quyền xét xử đến
loại tội phạm "rất nghiêm trọng", Nghị quyết 08/ NQ-TW của Bộ Chính trị ra
đời có nội dung nhấn mạnh yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án
hình sự. Trong khi đó, trình độ của Hội thẩm nhân dân, Thẩm phán nhiều khi

chưa đáp ứng được yêu cầu mới thì việc tuân thủ các thủ tục tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự là một yêu cầu cấp thiết hơn lúc nào hết.
Ngoài ra, tuy BLTTHS năm 2003 đã khắc phục được nhiều hạn chế
trong BLTTHS cũ, trong đó có các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm nhưng qua thực tế cũng còn xuất hiện nhiều điểm chưa hợp lý, chưa
thống nhất hoặc không cụ thể dẫn đến việc áp dụng còn nhiều lúng túng, ảnh
hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án.
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự tuân thủ đúng đắn thủ tục tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt động tố
tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đảm bảo mọi quyết
định của HĐXX phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh luận tại phiên tòa;
đồng thời góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, tìm ra những điểm bất hợp lý
so với thực tế, từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp
dụng các quy định của BLTTHS và hoàn thiện các quy định về thủ tục phiên
tòa sơ thẩm, tác giả chọn đề tài: "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay" làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở
lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung của thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hình sự, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong việc áp dụng quy
định của BLTTHS về thủ tục phiên tòa sơ thẩm cũng như những bất hợp lý
của các quy định hiện tại, thông qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực,
đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của


7
BLTTHS về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, hướng tới xây
dựng một phiên tòa hình sự thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện
quá trình cải cách tư pháp.

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được
đặt ra là:
1- Nghiên cứu cơ sở lý luận của thủ tục phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự, trong đó có đề cập tới quy định về phiên tòa hình sự nói chung và phiên
tòa sơ thẩm hình sự nói riêng
2- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của BLTTHS ở
Việt Nam những năm gần đây, qua đó rút ra những mặt tích cực cũng như
những tồn tại, hạn chế trong hoạt động này, lý giải những nguyên nhân dẫn
đến tồn tại trên.
3- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng các
phiên tòa sơ thẩm hình sự hiện nay, luận văn nêu ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm, kiến nghị
để hoàn thiện các quy định trong BLTTHS trong hoạt động này trước yêu cầu
cải cách tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự là vấn đề lớn trong hoạt
động tố tụng, có nhiều nội dung thể hiện ở các giai đoạn cụ thể như: Bắt đầu
phiên tòa, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án nên trong phạm vi của
một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết một cách cụ thể hết mọi
vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định trong BLTTHS năm 2003 về
thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm và thực tiễn áp thi hành các quy định này,
chỉ ra vướng mắc và đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự. Qua luận văn, tác giả cũng muốn góp phần hoàn
thiện các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự trong
quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.


8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận

của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về pháp luật, về cải cách tư pháp.
Đồng thời, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương
pháp lịch sử; phương pháp khảo sát thực tiễn tại những phiên sơ thẩm vụ án
hình sự
5. Những điểm mới của luận văn
Là công trình đề cập tới thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự,
luận văn có những điểm mới sau:
1- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thủ tục phiên tòa sơ thẩm hình sự, góp
phần nâng cao nhận thức về nội dung, bản chất của hoạt động của Tòa án khi
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2- Luận văn đánh giá thực trạng áp dụng các quy định trên, chỉ ra
những hạn chế tồn tại trong việc áp dụng các quy định của BLTTHS về thủ
tục phiên tòa sơ thẩm hình sự, làm rõ nguyên nhân của tồn tại đó.
3- Các giải pháp về hoàn thiện pháp luật; hướng dẫn, giải thích pháp
luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của BLTTHS năm 2003 về thủ tục
phiên tòa sơ thẩm hình sự mà luận văn đưa ra sẽ giúp ích cho Tòa án nâng cao
hiệu quả hoạt động xét xử của mình
4- Đề xuất một số kiến nghị để sửa đổi, bổ sung các quy định của luật
tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục phiên tòa sơ thẩm nhằm đổi mới phiên
tòa hình sự sơ thẩm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay.


9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự.
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện thủ tục tố tụng
và nâng cao chất lượng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự.






10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM HÌNH SỰ

1.1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
1.1.1 . Khái niệm về thủ tục tại phiên tòa hình sự
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được ghi nhận trong Hiến pháp
Việt Nam năm 1992 bảo đảm "mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp
thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật" 6. Điều 3, BLTTHS
quy định: "Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải tiến hành theo quy định của
Bộ luật này" 9. Như vậy, để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật bắt buộc phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và
do nhiều cơ quan khác nhau tiến hành nhưng tất cả các hoạt động tố tụng của
các cơ quan này đều phải được quy định trong BLTTHS, mỗi giai đoạn tố tụng
hình sự phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật đã quy
định.
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử là đặc biệt quan trọng, biểu

hiện tập trung cao nhất của cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Qua hoạt
động xét xử, Tòa án - với vai trò nhân danh Nhà nước - mới có thể ra được
bản án phán quyết về một vụ án bất kể đó là vụ án lớn hay nhỏ, bị cáo đưa ra
truy tố được phán quyết có tội hay không có tội…, nhất là trong khi Hiến
pháp năm 1992 (Điều 72) đã quy định rõ: "Không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật"
22. Điều này cũng có nghĩa, tội phạm phải bị trừng phạt, người phạm tội
phải chịu các biện pháp cưỡng chế phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
của tội phạm mà họ đã gây ra.
Ngược lại, nếu không có hoạt động xét xử của tòa án thì cũng không
thể kết tội bất kỳ một con người nào đó. Hoạt động xét xử càng có tầm quan


11
trọng đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền do dân, vì dân. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chủ
trương cải cách tư pháp, trong đó lấy Tòa án và hoạt động xét xử của tòa là
trung tâm, được đặc biệt quan tâm.
Chỉ có qua hoạt động xét xử công khai của tòa án, mọi hoạt động của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án đều được thể hiện một cách
toàn diện, đầy đủ. Tại đây, những người tham gia tố tụng được công khai
tranh tụng, đưa ra lý lẽ để bảo vệ mình hoặc bác bỏ lý lẽ của người khác. Hoạt
động xét xử còn góp phần vào công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật và phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự trị an…
Hoạt động xét xử sơ thẩm là giai đoạn đặc biệt quan trọng trong tố
tụng hình sự. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, xã hội cũng như
quyền lợi chính đáng của công dân việc xét xử vụ án hình sự có thể phải trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông thường, xét xử sơ thẩm là bắt buộc đối
với mọi vụ án hình sự. Trên cơ sở cáo trạng của VKS chuyển sang, Toà án cấp
sơ thẩm lần đầu tiên đưa vụ án ra xem xét công khai tại phiên toà. Trong

trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có thể được đưa ra xét xử phúc
thẩm và khi có một số điều kiện nhất định, vụ án có thể được xem xét theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2004 của Viện Ngôn ngữ học, thủ tục
được hiểu là "những việc cụ thể phải làm theo một trình tự quy định để tiến
hành một công việc có tính chất chính thức"; tố tụng là việc "tiến hành các
hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự"; phiên toà là
"lần họp để xét xử của Toà án"; sơ thẩm là "xét xử một vụ án với tư cách là
Toà án ở cấp xử thấp nhất" 65.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia đưa ra khái niệm:


12
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá
trình tố tụng hình sự trong đó, Toà án có thẩm quyền, sau khi nghiên
cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xem xét công khai
trước phiên toà nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một
người có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra bản án, quyết định
phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố 14.
Còn theo cách hiểu của PGS,TS. Nguyễn Thái Phúc thì:
Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực hiện chức năng xét
xử của Toà án dưới hình thức phiên toà xem xét và giải quyết thực
chất vụ án hình sự. Xét xử vụ án một cách thực chất có nghĩa là cơ
quan Toà án trên cơ sở các chứng cứ được kiểm tra tại phiên toà
đưa ra quyết định về các nội dung truy tố bị cáo có căn cứ, hợp
pháp hay không, bị cáo có tội hay không, có phải chịu trách nhiệm
hình sự hay không?" 34
Tuy có cách thể hiện khác nhau nhưng hai khái niệm trên đều cho thấy
sự khác biệt mấu chốt để phân biệt xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm vụ án

hình sự. Phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án hình sự chỉ được tiến hành sau khi
Toà án nhận được bản cáo trạng và hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang. Đối
tượng của phiên toà sơ thẩm là cáo trạng của VKS truy tố bị cáo vì họ đã thực
hiện những hành vi có dấu hiệu tội phạm. Toà án sơ thẩm có trách nhiệm xem
xét cáo buộc của VKS có căn cứ và hợp pháp hay không và thể hiện trong
quyết định, bản án của mình. Với phiên toà phúc thẩm, chỉ được tiến hành khi
có kháng nghị của VKS hoặc kháng cáo của các bên đối với bản án sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án này chính là đối tượng xem xét của phiên
toà phúc thẩm chứ không phải là cáo trạng như phiên toà sơ thẩm.
Như những nội dung đã nêu trên, có thể khẳng định, xét xử sơ thẩm là
trung tâm của tố tụng hình sự. Vai trò, tầm quan trọng, tính thiêng liêng, tối
thượng… của bản án nói chung và bản án sơ thẩm nói riêng sẽ chỉ được đảm


13
bảo khi hoạt động xét xử phải tuân thủ đúng những thủ tục cụ thể tại phiên tòa
xét xử. Tức là việc xét xử của tòa phải tuân theo những nguyên tắc, trình tự…
nhất định được quy định trong luật tố tụng hình sự. Việc vi phạm bất kỳ một
nguyên tắc hay trình tự quy định nào đều có thể kéo theo những hậu quả đáng
tiếc (như phải xem xét lại bản án theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm hay phải hủy bản án, sửa bản án…) và ảnh hưởng tới việc bảo vệ quyền
lợi của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
1.1.2. Các nguyên tắc chung khi xét xử vụ án hình sự
Như vậy, trước hết, phiên tòa hình sự phải tuân theo những nguyên tắc
mà BLTTHS quy định, trong đó có các "nguyên tắc cơ bản" liên quan đến quá
trình xét xử tại Tòa án, được quy định tại chương II. BLTTHS năm 2003 như:
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; tôn trọng và bảo vệ
các quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật; tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; không ai
bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;

xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc tham
gia tố tụng; thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân tham gia; thẩm phán và
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử tập thể; xét
xử công khai; bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án; thực hiện chế độ hai
cấp xét xử; bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Tòa án; thực hiện
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự;
tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự… Trong phạm vi này, chúng
tôi chỉ đề cập đến một số nguyên tắc cơ bản, có tính đặc trưng của phiên toà
sơ thẩm xét xử vụ án hình sự:
Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm tham gia (Điều 15 BLTTHS).


14
Theo nguyên tắc này, việc xét xử của TAND có Hội thẩm nhân dân,
của Toà án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, hội thẩm
ngang quyền với thẩm phán.
Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trong chính sách pháp luật của
Nhà nước ta. Nội dung của nguyên tắc này là khi xét xử tại phiên toà, bên
cạnh thẩm phán là người có trình độ pháp lý, được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm
vụ xét xử vụ án còn có hội thẩm nhân dân hoặc hội thẩm quân nhân. Hội thẩm
nhân dân, hội thẩm quân nhân là người được bầu hoặc cử tham gia xét xử và
có ngang quyền với thẩm phán.
Nguyên tắc khi xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia không phải là
nguyên tắc tố tụng nói chung mà chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét
xử và cũng không phải là nguyên tắc bắt buộc đối với tất cả các giai đoạn xét
xử mà chỉ bắt buộc đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật (Điều 16 BLTTHS)
Khi xét xử các vụ án hình sự, HĐXX căn cứ vào các tình tiết của vụ

án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên toà và căn cứ vào các
quy định của pháp luật - cụ thể ở đây là bộ luật hình sự và bộ luật tố tụng hình
sự để xác định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội. Không một ai,
một cơ quan nào có quyền can thiệp, yêu cầu HĐXX phải làm trái các quy
định của pháp luật.
Sự độc lập của HĐXX thể hiện ở việc độc lập giữa thẩm phán với hội
thẩm trong việc xét xử và độc lập giữa HĐXX với các cơ quan khác. Các
thành viên của HĐXX độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét,
đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết luận của mình không phụ thuộc vào ý
kiến của các thành viên khác. Tất cả các thành viên của HĐXX đều được
tham gia vào toàn bộ các hoạt động tố tụng tại phiên toà được đặt câu hỏi với
bị cáo và người làm chứng để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến việc


15
giải quyết vụ án. Mỗi thành viên của HĐXX có quyền độc lập khi quyết định
các vấn đề trong vụ án. Mặc dù vụ án được giải quyết trên cơ sở biểu quyết đa
số nhưng người có ý kiến khác có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn
bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong quan hệ giữa Toà án các cấp, thẩm phán và hội thẩm xét xử độc
lập không chịu sự chỉ đạo của Toà án cấp trên. Toà án cấp trên hướng dẫn Toà
án cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật nhưng không được quyết định
trước hay gợi ý cho Toà án cấp dưới chủ trương xét xử một vụ án cụ thể.
Nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 17
BLTTHS)
Nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số là một
nguyên tắc dân chủ nhằm huy động được trí tuệ của tập thể, đảm bảo cho việc
xét xử được khách quan, thận trọng, chính xác, tránh độc đoán.
Theo nguyên tắc này, việc xét xử các vụ án ở các cấp Toà án không
phải do một thẩm phán tiến hành mà đều thực hiện theo chế độ Hội đồng.

HĐXX sơ thẩm thường gồm một thẩm phán và hai hội thẩm, trong trường
hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX có thể gồm hai thẩm
phán và ba hội thẩm. HĐXX phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trường hợp cần
thiết có thể có thêm hai hội thẩm. Bất kỳ một vụ án nào cũng phải đảm bảo về
số lượng thành phần HĐXX như đã đề cập ở trên. Khi giải quyết các vấn đề
của vụ án, các thành viên HĐXX phải biểu quyết theo đa số từng vấn đề một.
Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và
được lưu vào hồ sơ vụ án,
Nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18 BLTTHS)
Nguyên tắc này được hiểu, phiên toà phải được tiến hành công khai,
mọi công dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền được dự và theo dõi diễn biến
của phiên toà. Trước khi xét xử, Toà án phải niêm yết công khai nội dung,
thời gian, địa điểm mở phiên toà. Trừ trường hợp đặc biệt để giữ bí mật của nhà


16
nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo
yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín nhưng phải tuyên án công
khai.
Nguyên tắc này nhằm bảo đảm cho nhân dân tham gia vào việc kiểm
tra, giám sát hoạt động của cơ quan xét xử, nâng cao trách nhiệm của Toà án
trước nhân dân. Xét xử công khai còn có tác dụng nâng cao trình độ của
những người tiến hành tố tụng bởi lẽ các hoạt động của họ đều có sự giám sát
của nhân dân.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19 BLTTHS)
Tại phiên toà, kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra
yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều

kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ
án.
Đây là một nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng để giải quyết vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc này chỉ có thể thực hiện
được khi chủ toạ phiên toà phải làm tốt nhiệm vụ là người điều khiển phiên
toà, là trọng tài công minh, thành viên HĐXX phải có thái độ khách quan, tôn
trọng các chứng cứ, tranh luận mà các bên đưa ra để xem xét và có các quyết
định công minh.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo (Điều 11 BLTTHS)
Quyền bào chữa chỉ là một trong số rất nhiều quyền mà bị cáo được
hưởng khi tham gia phiên toà. Tại phiên toà, bị cáo được sử dụng tất cả các
biện pháp mà pháp luật quy định nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bị cáo có thể nhờ người khác bào chữa cho
mình. Trong một số trường hợp nhất định, mặc dù bị cáo không tự bào chữa


17
và cũng không nhờ người khác bào chữa thì Toà án phải chỉ định người bào
chữa cho bị cáo.
Ở giai phiên toà sơ thẩm, nguyên tắc bảo đảm bị cáo có quyền đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, được
trình bày ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung
hoặc giám định lại, có quyền đề nghị triệu tập thêm người làm chứng hoặc đề
nghị đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét, được tham gia tranh luận tại
phiên toà, trình bày lời bào chữa và đáp lại ý kiến của người khác…
Ngoài những nguyên tắc cơ bản được quy định tại Chương II, BLTTHS,
còn một số nguyên tắc hết sức quan trọng được quy định tại chương XVIII,
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 "Quy định chung về thủ tục tố tụng phiên
tòa". Chính vậy, khi xét xử sơ thẩm cũng phải tuân thủ triệt để những nguyên
tắc này, gồm:

Nguyên tắc xét xử trực tiếp (Điều 184 BLTTHS): Tòa án phải trực tiếp
xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng,
người giám định; xem xét vật chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Tại phiên tòa,
HĐXX phải kiểm tra các chứng cứ mà VKS nêu trong bản cáo trạng cũng như
các chứng cứ do bị cáo, người bị hại, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày. HĐXX có
trực tiếp kiểm tra lại các chứng cứ thì mới có thể xét xử được chính xác. Nếu
chứng cứ chưa được xem xét tại phiên tòa thì cho dù chứng cứ do do Cơ quan
điều tra thu thập hoặc do bất kỳ ai cung cấp cũng không được dùng làm căn
cứ trong bản án. Bản án chỉ được tuyên dựa trên những chứng cứ đã được
xem xét tại phiên tòa.


18
Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này sở cho việc HĐXX xác định
sự thật của vụ án, giải quyết vụ án một cách chính xác và góp phần đảm bảo
nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án. HĐXX dựa vào kết quả điều tra, xác
minh, đánh giá, kiểm tra chứng cứ tại phiên tòa chứ không dựa hoàn toàn vào
kết quả điều tra của Cơ quan điều tra, VKS. Và như vậy thì HĐXX có quyền
ra phán quyết thể hiện quan điểm khác với quan điểm của Kiểm sát viên tại
phiên tòa.
Nguyên tắc xét xử bằng lời nói (Điều 184 BLTTHS): HĐXX hỏi những
người tham gia tố tụng về mọi tình tiết của vụ án. Những người tham gia
phiên tòa cũng có nghĩa vụ trả lời các câu hỏi của HĐXX. Nếu trong số
những người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt, Tòa sẽ đảm bảo việc xét
xử bằng lời nói qua việc cử người phiên dịch để đảm bảo tiếng nói được dùng
thống nhất trong phiên tòa. Trong trường hợp một người cần xét hỏi tại phiên

tòa nhưng lại vắng mặt thì HĐXX phải công bố lời khai của họ trong hồ sơ vụ
án. Ngoài ra, các chứng cứ kết tội, gỡ tội cho bị cáo cũng phải công bố công
khai tại phiên tòa.
Có thể nói, việc xét xử bằng lời nói luôn gắn liền với việc xét xử trực
tiếp vì việc xét xử trực tiếp đòi hỏi phải xét xử bằng lời và ngược lại.
Nguyên tắc xét xử liên tục (Điều 184 BLTTHS): Khi đã xét xử một vụ
án, tòa án phải xét xử liên tục từ khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa cho
đến khi tuyên án, trừ thời gian nghỉ cần thiết như nghỉ giải lao, nghỉ trưa, nghỉ
hết ngày làm việc. Thời gian nghị án cũng được coi là thời gian HĐXX làm
việc và thời gian này có thể kéo dài tùy thuộc vào sự phức tạp của từng vụ án.
Việc xét xử trực tiếp, liên tục đòi hỏi sự có mặt của rất nhiều người
tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng như: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Kiểm sát viên, người bào chữa, người giám định, người làm chứng, bị cáo…
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (tại phiên tòa sơ thẩm) có vai trò rất
quan trọng trong phiên tòa vì chính người này, với vai trò là thành viên của


19
HĐXX mới có quyền nghị án, biểu quyết để đưa ra bản án nhân danh Nhà
nước phán quyết về tội danh và hình phạt đối với bị cáo đưa ra truy tố. HĐXX
sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trường hợp vụ án có
tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai thẩm
phán và ba hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội
theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm nhân dân. Việc xét xử trực tiếp, liên tục đòi hỏi các
thành viên HĐXX phải có mặt tại phiên tòa và phải xét xử vụ án từ khi bắt
đầu đến khi kết thúc. Khi xét xử, vì một lý do nào đó mà các thành viên
HĐXX không thể tiếp tục tham gia xét xử thì có thể được thay thế nếu có
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân dự khuyết. Tuy nhiên, để được thay thế thì
Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân dự khuyết phải có mặt từ đầu thì mới

được tham gia xét xử. Trong trường hợp HĐXX có hai Thẩm phấn mà Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa không tham gia xét xử được thì Thẩm phán là thành
viên HĐXX làm chủ tọa và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành
viên HĐXX.
Bên cạnh HĐXX thì Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố là người
tham gia tố tụng bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa. Nếu Kiểm sát viên được
VKS cùng cấp phân công tham gia phiên tòa nhưng họ vắng mặt hoặc tuy có
mặt nhưng bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì
HĐXX phải hoãn phiên tòa, đồng thời thông báo ngay cho VKS cùng cấp.
Thông thường, mỗi vụ án có một Kiểm sát viên tham gia. Nếu vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp thì VKS có thể cử hai Kiểm sát viên cùng tham
gia phiên tòa hoặc có thể có Kiểm sát viên dự khuyết.
Đối với bị cáo, sự có mặt của họ tại phiên tòa vừa là quyền, vừa là
nghĩa vụ bởi khi có mặt, họ có thể thực hiện quyền bào chữa của mình một
cách hiệu quả nhất. Vì vậy, trong mọi trường hợp, tòa án phải triệu tập bị cáo
đến phiên tòa. Nếu bị cáo vắng mặt, cần làm rõ nguyên nhân. Trường hợp bị


20
cáo tại ngoại nhưng không được triệu tập hoặc chưa được tống đạt hợp lệ mà
vẫn tiến hành xét xử thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Khi tòa án đã triệu tập bị cáo một cách hợp lệ mà bị cáo vắng mặt có
lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa để tiến hành xét xử vào thời gian
thích hợp và phải tiến hành triệu tập lại. Nếu bị cáo vắng mặt không có lý do
chính đáng thì phải bị áp giải theo thủ tục quy định của pháp luật. Hiện nay,
theo hướng dẫn của Bộ Công an thì lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư
pháp làm nhiệm vụ này theo quy trình "xác định đúng người đã có lệnh hoặc
quyết định áp giải của Tòa án; đọc và giải thích lệnh hoặc quyết định áp giải;
Kiểm tra tư trang và đồ vật bị cáo mang theo (nếu có); phổ biến cho bị cáo
biết về quy định trên đường đi; lập biên bản về việc áp giải; tiến hành áp giải

bị cáo đến phiên tòa…" (Quyết định 810 của Bộ Công an).
Trường hợp bị cáo vắng mặt nhưng qua xác minh thấy rằng bị cáo bỏ
trốn khỏi nơi cư trú thì HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và đề nghị cơ
quan công an tiến hành truy nã bị cáo. HĐXX cũng tạm đình chỉ vụ án trong
trường hợp bị cáo bị bệnh hiểm nghèo mà không thể đến phiên tòa. Việc tạm
đình chỉ kết thúc khi các lý do tạm đình chỉ xét xử vụ án không còn (bắt được
bị cáo hay bị cáo đã khỏi bệnh).
Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp xét xử đều đòi hỏi sự có
mặt của bị cáo. Để đảm bảo việc xử lý tội phạm được kịp thời, BLTTHS cho
phép HĐXX xét xử vắng mặt bị cáo trong một số trường hợp như, bị cáo cố
tình trốn tránh mà Cơ quan điều tra đã báo cáo là việc truy nã không có kết
quả hay trường hợp bị cáo đang ở nước ngoài, không thể triệu tập đến phiên
tòa được. Những vụ án mà sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét
xử và bị cáo đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt thì HĐXX cũng có thể
xét xử vắng mặt bị cáo. Kết quả xét xử được thể hiện qua bản án sẽ được tống
đạt cho bị cáo sau khi phiên tòa kết thúc.


21
Để đảm bảo sự có mặt của bị cáo trong quá trình xét xử liên tục của
tòa, luật quy định những bị cáo không bị tạm giam phải có nghĩa vụ có mặt tại
phiên tòa trong suốt thời gian xét xử của vụ án. Trường hợp đang tiến hành
xét xử đến một giai đoạn nào đó mà bị cáo bỏ về thì HĐXX sẽ quyết định áp
giải bị cáo hoặc tiếp tục xét xử vắng mặt (giống như trường hợp bị cáo vắng
mặt từ trước khi khai mạc phiên tòa).
Đối với bị cáo đang bị tạm giam thì sự có mặt của họ được đảm bảo
bằng lực lượng cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp (tiến hành trích xuất và dẫn
giải ra phiên tòa). Trong quá trình phiên tòa diễn ra, "cán bộ chiến sĩ trong khi
làm nhiệm vụ phải giám sát chặt chẽ mọi hành vi của bị cáo… Trường hợp bị
cáo đột xuất phát bệnh, cán bộ y tế khám cấp cứu tại chỗ. Nếu thấy cần thiết

thì phải báo cáo Chủ tọa phiên tòa đưa bị cáo đến bệnh viện hoặc trung tâm y
tế gần nhất". Trong một số trường hợp đặc biệt, khi tiến hành xét hỏi trong vụ
án có nhiều bị cáo, HĐXX có thể quyết định cách ly các bị cáo, đưa bị cáo ra
khỏi phòng xử. Tuy nhiên, sự vắng mặt của bị cáo này là tạm thời, không ảnh
hưởng đến việc xét xử. Khi không cần thiết phải bị cách ly, bị cáo được trở lại
phòng xử và tiếp tục tham gia trực tiếp phiên tòa tại phòng xử án.
Bảo vệ quyền lợi và bào chữa cho bị cáo trước tòa có người bào chữa.
Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, Người bào chữa có một vị trí quan
trọng trong thủ tục tố tục hình sự cũng như tại phiên tòa sơ thẩm. Để thực
hiện nhiệm vụ bào chữa cho bị cáo, người bào chữa có nghĩa vụ tham gia
phiên tòa. Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho tòa án. Nếu
người bào chữa vắng mặt thì Tòa vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục
chung, trừ trường hợp bị cáo bị xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình hoặc bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất.
Người làm chứng có nghĩa vụ tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án, họ phải có mặt tại phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết của


22
vụ án mặc dù đã có lời khai tại cơ quan điều tra. Sự có mặt của người làm
chứng không chỉ đảm bảo cho việc xác minh trực tiếp, công khai các chứng
cứ mà người làm chứng còn phải giải thích thêm về lời khai của mình. Nếu
người làm chứng vắng mặt và lời khai của họ không đóng vai trò mấu chốt,
quyết định, HĐXX có thể công bố những lời khai của họ tại Cơ quan điều tra.
Nếu những lời khai này đã rõ và phù hợp với các chứng cứ khác thì tòa án có
thể xét xử vắng mặt người làm chứng và lời khai này được dùng làm chứng
cứ trong bản án
Để làm rõ các tình tiết và chứng cứ trong vụ án, ngoài người làm
chứng còn cần sự tham gia của người giám định. Người giám định có nghĩa

vụ tham gia phiên tòa khi được tòa án triệu tập để trình bày kết luận, giải
thích về vấn đề được trưng cầu giám định. Nếu người giám định vắng mặt thì
tùy từng trường hợp mà HĐXX quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành
xét xử. Thực tiễn xét xử, đối với những vụ án không có tính chất phức tạp, kết
luận giám định đã rõ ràng, đầy đủ và những người tham gia tố tụng không có
yêu cầu gì thì Tòa án có thể không triệu tập người giám định đến phiên tòa.
Đối với những trường hợp người giám định đã được triệu tập đến tòa mà vắng
mặt thì tùy từng trường hợp mà HĐXX quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn
tiến hành xét xử vụ án. Nếu có vấn đề cần hỏi thêm người giám định hoặc có
ý kiến thắc mắc về kết luận giám định thì cần hoãn phiên tòa để triệu tập lại.
Pháp luật tố tụng hình sự còn quy định sự tham gia phiên tòa của
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ cho những người
này có điều kiện bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình…
Để đảm bảo HĐXX ra một bản án đúng luật, bảo đảm quyền của bị
cáo, luật tố tụng hình sự còn có quy định về giới hạn của việc xét xử.
BLTTHS quy định: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo
tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử".


23
Như vậy, Tòa án sẽ không xét xử những người và những hành vi mà VKS
không truy tố hoặc xét xử theo tội danh mà VKS truy tố. Nếu qua xét xử, Tòa
án thấy cần thay đổi tội danh thì HĐXX chỉ có thể xét xử bị cáo theo khoản
khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
Kết quả quan trọng của phiên tòa là việc ra bản án hoặc các quyết định
khác của HĐXX. Nội dung bản án bắt buộc phải thể hiện việc bị cáo phạm tội
hay không phạm tội. Nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điểm, khoản và điều
luật nào của Bộ luật hình sự; Hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện

pháp tư pháp đối với bị cáo; án phí hình sự, án phí dân sự, quyền kháng cáo
đối với bản án… Nếu bản án tuyên bị cáo không phạm tội thì phải ghi rõ
những cán cứ xác định bị cáo không có tội, giải quyết việc khôi phục danh dự,
quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Bản án phải được thảo luận và thông qua tại
phòng nghị án. Còn các quyết định về việc thay đổi thành viên HĐXX, Kiểm
sát viên, Thư ký tòa án, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu
cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, việc bắt tạm giam
hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án
và phải được lập thành văn bản. Việc quyết định về các vấn đề khác được
HĐXX thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không cần lập thành văn bản
nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
Không chỉ việc những hoạt động trên phải được ghi vào biên bản
phiên tòa mà mọi diễn biến của phiên tòa đều phải được thư ký ghi rõ vào
biên bản phiên tòa. Cùng với việc ghi biên bản này, Tòa án có thể tổ chức
việc ghi âm, ghi hình về diễn biến của phiên tòa. Việc ghi biên bản phiên tòa
đầy đủ, chính xác là rất quan trọng vì bản án chỉ có thể dựa trên các chứng cứ
đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa. Tòa án không thể viện dẫn những
chứng thu thập trong hồ sơ vụ án nhưng chưa được kiểm tra tại phiên tòa,
không được phản ánh trong biên bản phiên tòa làm cơ sở cho các quyết định

×