Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.37 KB, 7 trang )

KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN
TÒA SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Xét xử tại phiên toà sơ thẩm là giai đoạn quan trọng nhất, là khâu then chốt trong quá trình
làm nhiệm vụ của Luật sư. Đây là khâu kết tinh các công sức của Luật sư từ việc chuẩn bị,
tìm tòi các chứng cứ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ đến việc đứng ra bênh vực, bảo
vệ quyền lợi cho họ một cách công khai. Kết quả của việc bào chữa cho bị cáo hoặc bảo vệ
quyền lợi cho đương sự sẽ được ghi nhận ở giai đoạn này. Vì vậy, Luật sư phải chuẩn bị
thật tốt mọi công việc trước khi ra phiên toà.
1. NHỮNG CÔNG VIỆC CẦN CHUẨN BỊ TRƯỚC KHI DIỄN RA PHIÊN TÒA
Chuẩn bị xong đề cương luận cứ bảo vệ mới là điều kiện cần để bảo vệ tại phiên toà.
Trước khi ra phiên toà, Luật sư phải đọc lại bản luận cứ bào chữa hoặc bảo vệ để xem có
cần bổ sung sửa chữa gì không. Đối với những điểm quan trọng cần phải viện dẫn tài liệu
hoặc lời khai của một người tham gia tố tụng nào đó, cần dùng bút nhớ dòng đánh dấu để
khi trình bày, Luật sư trích đọc tài liệu cần viện dẫn.
Căn cứ vào nội dung vụ án và đề cương luận cứ đã viết, Luật sư chuẩn bị các tài liệu có
liên quan để viện dẫn tại phiên toà. Thông thường Luật sư phải mang theo Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tùy thuộc vào việc bảo vệ (cho bị cáo hoặc đương sự) mà Luật
sư chuẩn bị các tài liệu cần thiết như các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao; Thông tư liên ngành của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp; Công văn của Toà án nhân dân tối cao về những vấn đề liên
quan đến việc bảo vệ. Luật sư cũng cần đọc kỹ các văn bản, tài liệu này, đánh dấu những
đoạn cần viện dẫn trích đọc để khi cần thì có thể sử dụng được ngay mà không phải mất
thời gian tìm kiếm.
Đối với một số tài liệu về nhân thân, hoàn cảnh gia đình bị cáo như các giấy tờ chứng nhận
thành tích trong công tác, trong học tập, sản xuất và chiến đấu; các giấy tờ chứng nhận bị
cáo thuộc diện chính sách ưu tiên, gia đình có công với cách mạng; các giấy tờ chứng nhận
về sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình của bị cáo… cũng phải được chuẩn bị để xuất trình cho
Hội đồng xét xử và sử dụng khi bào chữa.
Trước khi ra phiên toà, Luật sư phải dự kiến kế hoạch xét hỏi. Việc xây dựng kế hoạch xét
hỏi giúp Luật sư hỏi có trọng tâm, xác định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót,
không có những câu hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả lời của người


bị hỏi. Tuỳ vào nội dung vụ án, các tình tiết được thể hiện trong hồ sơ, Luật sư dự kiến
những người cần xét hỏi, thứ tự xét hỏi (nếu vụ án có nhiều bị cáo), hỏi ai trước, ai sau; Dự
kiến cách đặt câu hỏi; Nhất thiết những câu hỏi phải làm rõ các tình tiết của vụ án sao cho
có lợi cho người mình bảo vệ. Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và không làm cho
người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung, dài dòng
hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như thế sẽ làm cho người bị hỏi
không biết phải trả lời như thế nào. Nếu muốn yêu cầu người bị hỏi giải thích một số điểm
trong lời khai được khai tại cơ quan điều tra của họ, Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này,
đánh dấu những điểm cần hỏi để luôn luôn chủ động khi xét hỏi.
2. CÁC KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA
2.1. ở phần thủ tục bắt đầu phiên toà
Luật sư cần chú ý theo dõi diễn biến của phiên toà xem có bảo đảm các thủ tục tố tụng mà
Bộ luật TTHS quy định hay không. Khi thư ký phiên toà báo cáo danh sách những người
được triệu tập, Luật sư cần ghi lại để biết những người nào Toà án triệu tập đã có mặt,
người nào vắng mặt. Nếu thấy sự vắng mặt của một người tham gia tố tụng nào đó sẽ cản
trở xét xử thì Luật sư phải chuẩn bị sẵn ý kiến để khi chủ toạ phiên tòa hỏi ý kiến về việc
người tham gia tố tụng vắng mặt thì trình bày được ngay ý kiến đã chuẩn bị của mình để
bảo đảm quyền lợi cho người mà mình bảo vệ.
Luật sư cần căn cứ vào quy định tại các Điều: 189, 190, 191, 192, 193 Bộ luật Tố tụng
Hình sự về sự có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên toà để đề xuất ý kiến cho
chính xác.
Theo quy định tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì bị cáo phải có mặt tại phiên toà
theo giấy triệu tập của Toà án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải; nếu
bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà. Điều 190 Bộ luật Tố tụng
Hình sự quy định người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên toà. Nếu người bào chữa
vắng mặt, nhưng có gửi trước bản bào chữa thì Toà án vẫn mở phiên toà xét xử. Trong
trường hợp người bào chữa quy định tại khoản 2 Điều 57 luật mới Bộ luật tố tụng hình sự
vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Điều 191 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy
định: 1- Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tuỳ trường

hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. 2- Nếu thấy sự
vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo
thủ tục tố tụng dân sự. Điều 192 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người làm chứng tham
gia phiên toà để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng
trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì Chủ toạ phiên toà công bố những lời khai đó.
Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng
xét xử quyết định hoãn phiên toà hoặc vẫn tiến hành xét xử. Điều 193 Bộ luật Tố tụng
Hình sự quy định người giám định tham gia phiên toà khi được Toà án triệu tập. Nếu
người giám định vắng mặt thì tuỳ trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà
hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Hội đồng xét xử bắt buộc phải hoãn phiên toà
trong một số trường hợp, còn một số trường hợp khác lại được xem xét để quyết định hoãn
phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử. Tuỳ vào từng vụ án, vào việc bào chữa cho bị cáo hay
bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà Luật sư đề nghị hoãn phiên toà hoặc phản đối ý kiến đề
nghị hoãn phiên toà của người khác. Ví dụ: Nếu thấy vắng mặt người làm chứng về những
vấn đề quan trọng sẽ trở ngại cho việc xét xử, không có lợi cho người mình bảo vệ thì đề
nghị hoãn phiên toà. Trường hợp vắng mặt người bị hại nhưng chỉ trở ngại cho việc giải
quyết vấn đề bồi thường và ý kiến của Luật sư bảo vệ cho người bị hại đề nghị hoãn phiên
toà, nếu xét thấy việc hoãn phiên toà là không cần thiết chỉ kéo dài thời gian bị cáo bị tạm
giam thì Luật sư bào chữa cho bị cáo cần đề nghị với Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
và tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trong trường hợp bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng hoặc quyết định đưa vụ án ra xét
xử thì Luật sư phải yêu cầu Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Nếu bị cáo hoặc đương sự
không được chủ toạ giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà hoặc không hỏi họ
có đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch hay không
thì Luật sư phải đề nghị Hội đồng xét xử cho họ được thực hiện các quyền đó theo quy
định của pháp luật. Nếu thấy cần đưa thêm tài liệu, chứng cứ ra xem xét tại phiên toà mà
trước đó Luật sư chưa có hoặc chưa muốn cung cấp cho Toà án, hoặc thấy cần đề nghị
triệu tập thêm người làm chứng quan trọng của vụ án thì Luật sư phải đề nghị với Hội

đồng xét xử những vấn đề đó.
Khi thấy sự có mặt của người làm chứng là cần thiết cho việc xét xử. Người làm chứng này
biết được nhiều tình tiết của vụ án và có khả năng cung cấp cho Toà án những tình tiết đó
nhưng họ lại không được Toà án triệu tập thì Luật sư phải đề nghị Hội đồng xét xử triệu
tập thêm người làm chứng. Luật sư cần nói rõ lý do đề nghị triệu tập người làm chứng để
Toà án biết. Nếu có các tài liệu chứng cứ quan trọng cần được xem xét tại phiên toà, nhưng
trước đó chưa cung cấp cho Toà án thì Luật sư phải đưa ra tài liệu chứng cứ và đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét tại phiên toà.
Trước khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Chủ tọa phiên toà thường hỏi các Luật
sư có ý kiến gì không. Nếu đồng ý thì trả lời không có ý kiến gì, nếu thấy cần bổ sung
thêm thủ tục nào để bảo đảm quyền lợi của người mình bảo vệ thì đề nghị với Hội đồng
xét xử xem xét.
2.2. Phần xét hỏi
Xét hỏi tại phiên toà là bước điều tra công khai, có sự tham gia của tất cả những người
tham gia tố tụng nhằm kiểm tra các chứng cứ và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án.
Để nắm được các tình tiết của vụ án, Luật sư phải theo dõi mọi diễn biến tại phiên toà, lắng
nghe các câu hỏi của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, Luật sư đồng nghiệp và các câu trả
lời của những người bị hỏi. Kết hợp với việc nghe, Luật sư cần ghi chép những điểm quan
trọng có liên quan đến việc bảo vệ cho bị cáo hoặc đương sự. Thông thường, Luật sư cần
ghi lại lời trình bầy của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm
chứng. Cần ghi tóm tắt lời khai, sao cho vừa đầy đủ, ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh được
nội dung chính. Trong trường hợp Hội đồng xét xử hỏi những bị cáo khác (trong vụ án
đồng phạm) về các tội phạm hoặc những vấn đề không liên quan đến bị cáo hoặc đương sự
mà mình bảo vệ thì Luật sư chỉ nghe mà không cần ghi chép. Ví dụ, ngày thứ nhất Hội
đồng xét xử đã hỏi xong bị cáo của mình bào chữa, sang ngày hôm sau Hội đồng xét xử
hỏi các bị cáo khác về những tội phạm không liên quan đến việc bào chữa thì không cần
ghi chép. Tuy vậy, Luật sư vẫn phải có mặt để theo dõi diễn biến của phiên toà và khi thấy
có điểm cần thiết thì ghi lại ngay để sử dụng khi bảo vệ.
Trong khi theo dõi diễn biến của phiên toà, Luật sư cũng chú ý phân tích các câu hỏi, câu
giải thích cho bị cáo của Hội đồng xét xử, kiểm sát viên. Qua đó, Luật sư có thể nắm được

một phần về quan điểm của họ để tự điều chỉnh bản luận cứ hoặc đặt câu hỏi với những
người tham gia tố tụng cho phù hợp nhằm bảo vệ tốt nhất cho thân chủ của mình.
Khi nghe và ghi chép, Luật sư phải hết sức nhanh nhạy để phát hiện trong các lời khai của
những người được hỏi những tình tiết có lợi cho thân chủ, những tình tiết có mâu thuẫn
không phù hợp với thực tế khách quan hoặc các chứng cứ khác của vụ án, những tình tiết
chưa được làm rõ để điều chỉnh nội dung, kế hoạch xét hỏi đã dự kiến và chuẩn bị các câu
hỏi mới đối với những người tham gia tố tụng.
Khi chủ tọa dành cho quyền hỏi, Luật sư phải đặt những câu hỏi sắc bén, ngắn gọn, tập
trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời
của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Tránh đặt những câu hỏi quá
dài, không đi vào trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân tích, bình luận làm lẫn lộn với
phần tranh luận để Chủ toạ phiên toà phải nhắc nhở. Tuỳ từng trường hợp có thể sử dụng
những loại câu hỏi sau.
2.2.1. Câu hỏi bổ sung lời khai
Mục đích sử dụng câu hỏi này để làm rõ hơn về các tình tiết của vụ án đã được người tham
gia tố tụng khai báo tại phiên toà nhưng chưa rõ. Câu hỏi này được dùng trong trường hợp
thân chủ của mình đã trả lời câu hỏi của Hội đồng xét xử nhưng chưa làm rõ được các tình
tiết của vụ án có lợi cho họ. Nguyên nhân có thể do họ mất bình tĩnh mà khai sai. Luật sư
cần đặt câu hỏi để người này khai bổ sung những điểm chưa rõ hoặc còn sót. Cũng có thể
đặt câu hỏi này với những người làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác khi
thấy lời khai bổ sung của họ sẽ có lợi cho thân chủ của mình.
2.2.2. Câu hỏi gợi mở
Mục đích của câu hỏi này để phục hồi trí nhớ, khơi dậy trong trí nhớ của người được hỏi
mối liên tưởng về thời gian, sự việc nhờ đó họ có thể khai báo được chính xác tình tiết của
vụ án. Luật sư dùng câu hỏi này để hỏi người làm chứng, người bị hại, bị cáo giúp họ có
điều kiện nhớ lại thời gian, địa điểm, sự việc liên quan đến vụ án nhưng bị lãng quên.
2.2.3. Câu hỏi vạch rõ sự gian dối
Câu hỏi này nhằm mục đích chỉ ra sự gian dối, tính không hợp lý trong lời khai của những
người có quyền lợi đối lập với thân chủ của mình hoặc của người làm chứng. Câu hỏi này
thường có hai phần: phần một nêu những chứng cứ hoặc sự việc đã được kiểm tra và xác

định là đúng; phần hai nêu nội dung lời khai của người được hỏi có mâu thuẫn với các
chứng cứ, sự việc đã đưa ra ở phần một và yêu cầu người này giải thích về sự mâu thuẫn
đó để vạch rõ sự gian dối của lời khai
Chú ý: Đối với người mà mình bảo vệ, Luật sư không đặt câu hỏi phức tạp, câu hỏi mà
trước đó chưa có sự trao đổi thống nhất. Chỉ nên đặt loại câu hỏi bổ sung lời khai, câu hỏi
gợi mở hoặc câu hỏi đã có sự trao đổi thống nhất giữa Luật sư với người được bảo vệ.
Tránh tình trạng Luật sư đặt câu hỏi quá khó làm cho người được Luật sư bảo vệ không
biết trả lời thế nào hoặc trả lời lại không có lợi cho họ. Chú ý khi đặt câu hỏi gợi mở không
được gợi ý cho người được hỏi trả lời mà chỉ nhằm giúp họ nhớ lại những gì đã biết nhưng
do lâu ngày bị lãng quên.
Căn cứ vào diễn biến tại phiên toà, Luật sư có thể đưa ra các yêu cầu cần thiết như đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét vật chứng, hỏi những người có liên quan để làm rõ vật chứng;
nếu thấy cần thiết có thể đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ những vật chứng không
thể đưa đến phiên toà được. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chứng cứ mới; yêu cầu công
bố tài liệu có trong hồ sơ có lợi cho thân chủ của mình. Chú ý chỉ đề nghị Hội đồng xét xử
công bố lời khai tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp sau:
- Lời khai của người được xét hỏi tại phiên toà có mâu thuẫn với lời khai của họ tại Cơ
quan Điều tra;
- Người được xét hỏi không khai tại phiên toà;
- Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
Trong trường hợp một người có mặt tại phiên toà và họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra,
nhưng lời khai này có nhiều tình tiết không khách quan, bất lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử
chưa hỏi họ nhưng đã định nhắc lại hoặc công bố lời khai này thì Luật sư phải đề nghị Hội
đồng xét xử xét hỏi họ trước khi công bố lời khai. Nếu thấy có sự ép cung, truy bức bị cáo,
Luật sư phải đề nghị chấm dứt ngay việc đó, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo (nếu bào
chữa cho bị cáo).
Căn cứ diễn biến của việc xét hỏi tại phiên toà, Luật sư kịp thời điều chỉnh, bổ sung vào
bản luận cứ bảo vệ cho phù hợp. Thực tiễn bào chữa cho thấy có trường hợp bị cáo bị Viện
kiểm sát truy tố nhiều tội trong đó có “Tội tham ô tài sản” và “Tội cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Qua xét hỏi đã có đủ căn cứ

xác định đối với hành vi bị truy tố là tham ô thì bị cáo không chiếm đoạt mà chỉ do làm trái
các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nên gây thiệt hại tài sản; đối với hành vi bị
truy tố là cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế thì không làm rõ được bị
cáo làm trái văn bản nào, quy định nào của Nhà nước về quản lý kinh tế. Căn cứ diễn biến
tại phiên toà nói trên, Luật sư phải kịp thời điều chỉnh lại đề cương bào chữa của mình để
đề nghị Hội đồng xét xử không xử phạt bị cáo về hành vi tham ô tài sản như truy tố của
Viện kiểm sát mà xử bị cáo về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với hành vi của bị cáo mà Viện Kiểm sát truy tố là
cố ý làm trái thì Luật sư đề nghị xử bị cáo không phạm tội.
2.3. Phần tranh luận
Trong trình tự tố tụng tại phiên toà, đối với Luật sư giai đoạn tranh luận có một vị trí quan
trọng nhất vì nó là giai đoạn mà Luật sư được thể hiện tất cả mọi quan điểm bảo vệ cho
thân chủ của mình, là giai đoạn quyết định việc bảo vệ của Luật sư có thành công hay
không. ở đó, Luật sư sử dụng quyền tranh luận của mình để phân tích, lập luận đưa ra các
lý lẽ bảo vệ cho thân chủ.
Có thể nói tranh luận tại phiên toà là giai đoạn mà Hội đồng xét xử được nghe một cách
toàn diện nhất, tập trung nhất ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia
tố tụng về việc giải quyết vụ án. Vì vậy, Luật sư cần nắm vững thủ tục tố tụng trong tranh
luận và thực hiện thật hoàn hảo các kỹ năng tranh luận.
2.3.1. Về trình tự, thủ tục tranh luận
Điều 217 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định rõ trình tự phát biểu khi tranh luận như sau:
Mở đầu tranh luận, kiểm sát viên trình bầy lời luận tội, phân tích các chứng cứ của vụ án
để xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội. Nếu bị cáo phạm tội thì phân tích đánh
giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tác hại của tội phạm, nhân thân của
bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội
đồng xét xử kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng. Nếu có căn cứ
xác định bị cáo phạm tội khác nhẹ hơn tội đã truy tố thì kết luận về tội danh khác nhẹ hơn.
Nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng
xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Sau khi đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, bị cáo được trình bày lời bào chữa,

nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Khi người bào chữa đã
trình bày xong, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
Tiếp theo người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. Nếu những người này có nhờ Luật sư, bào chữa viên nhân dân
hoặc người khác được Toà án chấp nhận, bảo vệ quyền lợi cho mình thì người bảo vệ
quyền lợi cho họ trình bày ý kiến. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền bổ sung ý kiến để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
2.3.2. Về phần đối đáp
Điều 218 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định những người tham gia tranh luận có quyền đáp
lại ý kiến của người khác nhưng không quy định cụ thể về trình tự đối đáp, song về nguyên
tắc, với tư cách là người duy trì quyền công tố Nhà nước tại phiên toà, sau khi nghe ý kiến
của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… việc đối đáp được bắt đầu từ
phía Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên trả lời các ý kiến của những người tham gia tố tụng về những vấn đề liên

×