Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ HƯƠNG






KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ HƯƠNG




KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh





HÀ NỘI - 2009

Mục lục



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Mở đầu
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
8
1.1.
Khái quát về khiếu nại, tố cáo
8
1.1.1.

Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công
dân
8
1.1.2.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
9
1.1.3.
Khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự của một số nước
trên thế giới
17
1.1.3.1.
Quy định về quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình
sự Cộng hòa Liên bang Đức
17
1.1.3.2.
Khiếu nại trong Bộ luật Tố tụng hình sự Canada 1994
20
1.1.3.3.
Khiếu nại trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga
21
1.2.
Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
24
1.2.1.
Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại
24
1.2.2.
Khái niệm, đặc điểm của tố cáo
27

1.2.3.
Tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
30
1.2.4.
Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với khiếu
nại bản án có hiệu lực pháp luật; tố cáo với tố giác tội phạm;
phân biệt với Luật Khiếu nại, tố cáo; khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực đất đai và các lĩnh vực khác
32
1.2.4.1.
Phân biệt khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng với
32
khiếu nại bản án có hiệu lực pháp luật
1.2.4.2.
Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm
34
1.2.4.3.
Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật
Khiếu nại, tố cáo
36
1.2.4.4.
Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
37

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ QUY
TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆTNAM
40
2.1.
Chủ thể khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự

40
2.1.1.
Chủ thể khiếu nại trong tố tụng hình sự
40
2.1.1.1.
Chủ thể có quyền khiếu nại trong tố tụng hình sự
40
2.1.1.2.
Chủ thể bị khiếu nại trong tố tụng hình sự
46
2.1.2.
Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự
48
2.1.2.1.
Chủ thể có quyền tố cáo trong tố tụng hình sự
48
2.1.2.2.
Chủ thể bị tố cáo trong tố tụng hình sự
50
2.1.3.
"Chủ thể" giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
51
2.1.3.1.
Chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
52
2.1.3.2.
Đối với hành vi bị tố cáo, chủ thể giải quyết tố cáo cũng
tương tự. Điều này có nghĩa chủ thể có thẩm quyền giải
quyết tố cáo phải là người không thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật bị tố cáo đó

52
2.1.4.
Mối quan hệ giữa các chủ thể trong khiếu nại, tố cáo
52
2.2.
Đối tượng của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
53
2.2.1.
Đối tượng của khiếu nại trong tố tụng hình sự
53
2.2.2.
Đối tượng của tố cáo trong tố tụng hình sự
55
2.3.
Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
56
2.3.1.
Quá trình giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự
56
2.3.1.1.
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự
56
2.3.1.2.
Thủ tục và thời hạn giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình
sự
61
2.3.2.
Quá trình giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự
63
2.3.2.1.

Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự
63
2.3.2.2.
Thủ tục và thời hạn giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự
64
2.3.3.
So sánh quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003 với các quy định trước đây
67

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
69
3.1.
Thực trạng và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam
69
3.3.1.
Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam
69
3.1.2.
Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
70
3.2.
Tồn tại và những nguyên nhân của tồn tại trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
72
3.2.1.

Những tồn tại của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam
72
3.2.2.
Nguyên nhân của những tồn tại trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
74
3.3.
Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
75
3.3.1.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể khiếu nại, tố cáo
75
3.3.2.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng khiếu nại, tố
cáo
76
3.3.3.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm đối với
chủ thể của khiếu nại, tố cáo
76
3.3.4.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo
78
3.4.
Một số giải pháp khác nhằm nâng cao nhận thức của người
dân, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
79

việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo

KẾT LUẬN
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84



1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp
quy định. Việc nghiên cứu sâu sắc và cụ thể các quy định về khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự sẽ góp phần vào việc nhận thức đúng, thực hiện đúng
các quy định về khiếu nại, tố cáo phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặc dù khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự rất quan trọng, song,
hiện nay, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách xác đáng
và toàn diện, còn nhiều nội dung chưa được thống nhất, rõ ràng cụ thể trên cả
phương diện lý luận và thực tiễn như: khái quát các quy định về khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử; phân biệt khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự với khiếu nại, tố cáo theo Luật Khiếu nại, tố cáo và
khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác; xem xét tính đặc thù của khiếu nại,
tố cáo; thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong giải quyết vụ việc; kết quả
của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về khiếu nại, tố cáo trong

tố tụng hình sự là cần thiết. Kết quả của việc nghiên cứu này giúp chúng ta nắm
bắt được những hạn chế trong các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa các quy
định này. Đây chính là lý do dẫn tôi đến việc chọn "Khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là một trong những nội dung
quan trọng thể hiện quyền cơ bản của công dân, có quan hệ mật thiết với Luật

2
Khiếu nại, tố cáo và các quy định về khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác.
Do vậy, dưới những góc độ nhất định, quy định này đã được một số các nhà
khoa học, các luật gia nghiên cứu. Cụ thể:
Bài nghiên cứu chuyên đề: Tố cáo và giải quyết tố cáo trong Luật tố
tụng hình sự: Những vấn đề lý luận - thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, của
TSKH.Lê Cảm - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa
học (chuyên san Kinh tế - Luật), Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007. Bài viết
đề cập những vấn đề lý luận về tố cáo trong tố tụng hình sự, qua đó phân tích
thực trạng tố cáo và giải quyết tố cáo, nêu ra những kẽ hở của pháp luật trong
lĩnh vực này, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của những kiến giải lập pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tương ứng. "Khiếu nại, tố cáo theo
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003", của PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học,
số 6/2004, trong bài viết này, tác giả phân tích và lý giải những vấn đề cơ bản
các quy định khiếu nại, tố cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như
điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. "Về người khiếu nại, tố cáo và
người bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự" của đồng tác giả TSKH. Lê
Cảm và ThS. Minh Phượng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2004, bài viết này đề cập
đến việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo hệ thống như sau: Quyền và nghĩa
vụ của người khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, quyền và

nghĩa vụ của người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo. "Về đảm
bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", tác giả
Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2007, trong bài viết
này, tác giả đã khái quát quyền khiếu nại, tố cáo trong lịch sử, đồng thời đưa
ra những khái niệm cơ bản về khiếu nại, tố cáo, phân biệt khiếu nại, tố cáo với
tố giác, tin báo về vi phạm pháp luật và vi phạm các quyền đó. Ngoài ra,
nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo còn được thể hiện trong "Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng hình sự" năm 2003, Nxb Công an nhân dân, do PGS.TS Võ

3
Khánh Vinh làm chủ biên; trong các sách giáo khoa chuyên ngành luật tố tụng
hình sự; các tập bài giảng của giảng viên
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả thường dưới
dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc một
phần trong các bài giảng của giáo trình giảng dạy hoặc một phần trong sách
chuyên khảo mà chưa cho công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ
thống và toàn diện về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận của khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự, như khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, quy
trình giải quyết của khiếu nại, tố cáo và thực tiễn áp dụng các quy định của
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Qua đó, phân định rõ ràng,
có hệ thống những nội dung cơ bản của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự, so sánh với các quy định liên quan khác. Mặt khác, phân tích những tồn
tại còn bất cập và đưa ra các giải pháp về mặt lý luận và hoàn thiện các quy
định trong thực tiễn áp dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả trong quá trình thực
hiện của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như khuyến
khích người dân tham gia giám sát phát hiện những sai sót trong quá trình này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích trên, chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: Xem xét có hệ thống sự phát triển của các quy định
khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử, phân tích
khái niệm, đưa ra nội hàm và các đặc trưng về bản chất của khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự, điều kiện áp dụng và quy trình giải quyết khiếu nại, tố
cáo, mối liên hệ giữa khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật Khiếu

4
nại, tố cáo và các lĩnh vực liên quan khác, kết quả thực hiện việc khiếu nại,
tố cáo, từ đó làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Đánh giá, so sánh kết quả áp dụng thực tiễn của khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đồng thời phân tích những nguyên nhân
khách quan, chủ quan đối của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tế cũng như
hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khiếu
nại, tố cáo.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận của khiếu
nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự hiện hành; xác định tồn tại, nguyên nhân của tồn tại
và hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản của khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành, bên cạnh đó có so sánh, đối chiếu
với Luật Khiếu nại, tố cáo và các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
khác nhằm cho việc xác định bản chất và hướng hoàn thiện của các quy định
khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi về thời gian:

- Các vấn đề lý luận nghiên cứu trong giai đoạn từ 1988 (Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988) đến nay.
- Về thực tiễn: nghiên cứu các kết quả áp dụng của khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay.

5
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như đảm bảo cơ chế hoạt động
đúng, đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng
như đảm bảo về các quyền của công dân được khiếu nại, tố cáo khi thấy
người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có những hành vi, quyết
định tố tụng trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra,
luận văn còn áp dụng các thành tựu về khoa học của chuyên ngành pháp lý,
các nhà chuyên môn, các luận điểm nghiên cứu của các nhà khoa học, các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp
lý được đăng trên các tạp chí.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản
sau để làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu:
- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh đặc
trưng để phân biệt về mặt lý luận cũng như thực tiễn của khiếu nại, tố cáo qua
các giai đoạn được quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thể hiện của
phương pháp này là các đối chiếu về cơ chế, các điều kiện áp dụng của các
quy định này. Ngoài ra, phương pháp so sánh cũng được thể hiện trong luận văn
khi đề cập giữa các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và Luật
Khiếu nại, tố cáo cũng như các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực khác.
- Phương pháp phân tích: phương pháp này thể hiện trong luận văn là
những lý giải về cơ chế đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự,

đặc trưng, bản chất và các điều kiện áp dụng, cũng như lý giải về những
nguyên nhân và các giải pháp hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo.
- Phương pháp thống kê xã hội học: được thể hiện là những tài liệu
được tổng hợp qua thực tiễn áp dụng như tổng hợp các kết quả giải quyết

6
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tổng hợp các vụ việc trong đó có khiếu
nại, tố cáo để làm cơ sở phân tích về nguyên nhân và giải pháp. Bên cạnh đó
phương pháp này còn thể hiện về các số liệu, tài liệu nghiên cứu trên mạng
Internet cũng như tổng hợp các tri thức khoa học tương ứng của đề tài.
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như:
phương pháp lịch sử, tổng hợp… đồng thời đề tài còn sử dụng các nghị quyết
của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước, những vụ việc của Tòa án, tài liệu
của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện các giai đoạn
tố tụng có liên quan đến khiếu nại, tố cáo.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài giải quyết được
các nội dung sau:
- Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: khái niệm khiếu nại; khái niệm tố cáo;
các đặc điểm pháp lý của khiếu nại, tố cáo; cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
hình sự với các lĩnh vực khác, mối quan hệ giữa chúng.
- Tổng kết, đánh giá các quy định về khiếu nại, tố cáo qua các giai
đoạn phát triển, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm, và
hướng khắc phục.
- Phân tích, so sách các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự theo hướng loại trừ để xác định sự cần thiết của khiếu nại, tố cáo trong các
giai đoạn tố tụng của luật tố tụng hình sự Việt Nam.

- Tổng hợp và phân tích các nguyên nhân của tồn tại trong quá trình
thực hiện và giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo, đánh giá tác động của
các hệ quả này đối với thực tiễn áp dụng.

7
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao nhận thức của
người dân về quyền khiếu nại, tố cáo, cũng như hạn chế những sai sót đối với
người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đề tài có những đóng góp nhất định về mặt lý luận về
pháp luật khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự như đưa ra những khái niệm
pháp lý và các đặc trưng liên quan trong tố tụng hình sự.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn cũng
như làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo, phân tích những nguyên nhân của
tồn tại và đưa ra những giáp pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện các quy định về
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn ý nghĩa làm tài
liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các học sinh, sinh viên và những ai quan
tâm đến vấn đề này cũng như nâng cao hiểu biết pháp luật đối với người dân -
những người có quyền khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn của tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và quy trình giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự.


8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1.1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
Trong giai đoạn hiện nay, khi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền, một trong những nguyên tắc, yêu cầu cơ bản nhất là đảm bảo, bảo vệ
các quyền con người bằng pháp luật và các biện pháp xã hội. Quy định và bảo
vệ quyền con người là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hệ thống chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ta. Điều 50, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công
dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật" [47].
Trong các quyền cơ bản của công dân được thể hiện theo các nhóm
quyền như: nhóm quyền công dân về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế,
xã hội và văn hóa, thì một trong những quyền đặc biệt là quyền được khiếu
nại, tố cáo của công dân.
Bản chất của quyền được khiếu nại, tố cáo chính là đảm bảo cơ chế
giám sát một cách thực thi nhất đối với các hoạt động của Nhà nước. Khi thực
hiện chức năng quản lý xã hội các hoạt động quản lý này có thể vì một lý do
nào đó không thực hiện đúng, đủ hoặc trái luật, xâm phạm tới quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân. Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo một mặt là đảm bảo
các hoạt động này đúng pháp luật, mặt khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình đồng thời là phương thức hạn chế sự lạm quyền trong chức năng
quản lý xã hội của Nhà nước.

9
Mặc dù quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ được ghi nhận từ bản

Hiến pháp năm 1946, trong quá trình phát triển của xã hội, quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân ngày càng được quy định cụ thể qua các bản Hiến pháp và
pháp luật đủ thấy tầm quan trọng của nhóm quyền này trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
Việc quy định và thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng
hình sự qua các giai đoạn lịch sử, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá các
quyền này thông qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Bởi lẽ,
khiếu nại, tố cáo được coi là một trong những quyền cơ bản của công dân
được quy định bằng một văn bản pháp luật có giá trị cao nhất đó là Hiến
pháp. Từ các quyền này, sau khi được hiến định sẽ được quy định cụ thể bằng
các văn bản luật trong đó có pháp luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tìm hiểu
các ưu điểm và nhược điểm của pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở các giai đoạn
và xu hướng vận động tiến bộ của nó.
Khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
nói riêng được xuất phát điểm từ tư tưởng "dân chủ, nhân quyền" của chủ tịch
Hồ Chí Minh và thể hiện rất đậm nét ngay từ những ngày đầu lập nước. Trong
Điều 2 Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 quy định về thành lập
Ban thanh tra đặc biệt, với các nhiệm vụ như: "Nhận đơn khiếu nại của nhân
dân; điều tra hội chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của Ủy ban nhân dân
hoặc các cơ quan cần thiết cho việc giám sát" [16].
Ngày 11 tháng 11 năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua, lần đầu tiên trong lịch sử,
các quyền tự do của công dân đã được ghi nhận trong văn bản pháp luật có
hiệu lực cao nhất, cùng với một cơ chế, bộ máy nhà nước kiểu mới. Mặc dù
Hiến pháp năm 1946 chưa có những điều khoản cụ thể quy định quyền khiếu

10
nại, tố cáo của công dân nhưng chế độ dân chủ được Hiến pháp ghi nhận là cơ

sở bảo đảm cho sự hình thành, phát triển của pháp luật về quyền khiếu nại, tố
cáo của công dân sau này. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các văn
bản cụ thể hóa tư tưởng về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
như: Sắc lệnh số 09 ngày 29 tháng 01 năm 1947 ấn định lại thủ tục truy tố các
nhân viên cao cấp trong Chính phủ cùng các cơ quan hành pháp và tư pháp.
Sắc lệnh số 261/SL, ngày 28 tháng 03 năm 1956, thành lập Ủy ban Thanh tra
Trung ương của Chính phủ (năm 1959 Ủy ban này đổi tên thành Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ), có nhiệm vụ giải quyết kịp thời các đơn, thư khiếu
nại, tố cáo của công dân.
Hiến pháp năm 1959 tiến bộ hơn Hiến pháp năm 1946 về mặt lập pháp,
Điều 29 Hiến pháp năm 1959 đã quy định cụ thể quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân: "Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại, tố
cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp
luật của cán bộ và nhân viên cơ quan nhà nước. Người bị thiệt hại do những
việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường" [43].
Điểm mới ở đây là Hiến pháp năm 1959 đã quy định mọi việc làm vi
phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên cơ quan nhà nước đều là đối tượng
của quyền khiếu nại, tố cáo. Mặc dù nội dung chưa đầy đủ, nhưng Hiến pháp
năm 1959 có bước tiến quan trọng, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước
những thiệt hại gây ra bởi việc làm trái pháp luật của công chức Nhà nước khi
khẳng định: Người bị thiệt hại do những việc làm trái pháp luật gây ra có
quyền được bồi thường.
Nội dung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được mở rộng trong
Hiến pháp năm 1980.
Điều 73 quy định:
Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan
nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà

11
nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá

nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức đó. Các khiếu nại và tố cáo
phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng [44].
Hiến pháp năm 1980 đã chỉ ra đối tượng rộng hơn, cụ thể hơn, không
những chỉ là: "Hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước mà còn cả
những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, tổ chức và đơn
vị đó" [44].
Ngoài sự rõ ràng và tương đối đầy đủ về đối tượng khiếu nại, tố cáo,
Điều 73 Hiến pháp 1980 còn quy định những bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo, như: "Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công
dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh Nghiêm cấm trả thù
người khiếu nại, tố cáo" [44].
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân còn được khẳng định ở Điều 94
và Điều 119: "Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ
xem xét và giúp giải quyết những điều khiếu nại, tố cáo của nhân dân" [44].
Điều 123 cũng quy định: "Ủy ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ xét
và giải quyết các điều khiếu nại, tố cáo của nhân dân" [44].
Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tố tụng hình sự giai đoạn từ khi ra đời
bản Hiến pháp đầu tiên cho đến trước năm 1988 không được thể hiện rõ nét.
Do đặc điểm về tình hình kinh tế xã hội, cũng như điều kiện về trình độ phát
triển nên khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự giai đoạn này còn chưa được
quy định cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tiếp thu tinh thần của việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo nói chung, đặc biệt Pháp lệnh năm 1981 về việc xét, giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và các văn bản khác cụ thể hóa, hướng
dẫn thi hành. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có quy định về quyền khiếu
nại của tám loại người tham gia tố tụng vì quyền, lợi ích hợp pháp (Điều 34 - 42)
nhưng không quy định quyền đó cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến

12
vụ án (Điều 42). Mặc dù, có quy định về quyền khiếu nại của tám người trong

tổng số chín người tham gia tố tụng vì quyền, lợi ích hợp pháp, nhưng Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988 chưa đề cập đến quyền tố cáo của họ.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), tình hình
kinh tế-xã hội, chính trị nước ta có những thay đổi, tình hình khiếu nại, tố cáo
của công dân có nhiều diễn biến phức tạp, như: khiếu nại vượt cấp, khiếu nại
tập thể xảy ra ở nhiều nơi, tồn đọng đơn, thư khiếu nại kéo dài không được
giải quyết, vi phạm nghiêm trọng quyền khiếu nại, tố cáo ở một số nơi. Nhưng
Pháp lệnh năm 1981 có những mặt hạn chế không đáp ứng được với tình hình
thực tiễn. Để khắc phục vấn đề này, Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân
được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 02/05/1991 đánh dấu bước tiến mới
về kỹ thuật lập pháp, khi: a) tách khiếu nại và tố cáo thành hai phần riêng biệt
(Điều 1); b) Công dân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về việc làm trái luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; c) Xử lý
nghiêm minh người vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố
cáo; d) Áp dụng các biện pháp cần thiết ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo
đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; đ) Quy định các cơ quan thanh
tra Nhà nước là một cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời, quy định các
cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, lần tiếp theo và lần cuối
cùng với mục đích tạo điểm dừng của quyết định khiếu nại; thời hiệu giải
quyết khiếu nại và lần đầu tiên xác lập: "Quyền khiếu nại của công dân đối
với quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế
do pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế quy định" [35].
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định và hoàn thiện hơn so với các
Hiến pháp trước đó về các quy phạm đối với quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân khi ghi nhận "Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước

13

có thẩm quyền" (Điều 74). Trên cơ sở đó, Chính phủ và các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa
các quy định của Pháp lệnh năm 1998 và Hiến pháp năm 1992, như: Nghị
định số 38/HĐBT ngày 28/1/1992 về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Khiếu nại,
tố cáo của công dân; Chỉ thị số 64/TTg ngày 25/1/1995 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm
khắc phục những tồn tại, thiếu sót của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày
01/12/1998 Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo. Đây là văn bản quy
phạm pháp luật có tính pháp điển cao nhất từ trước tới thời điểm này về quyền
khiếu nại, tố cáo.
Ngày 18/9/2003 Tòa án nhân dân tối cáo ban hành Công văn số 120
về giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó xác định:
Có lúc, có Tòa án hoặc đơn vị cá nhân do những nguyên
nhân khách quan, chủ quan mà chưa giải quyết tốt đơn, thư khiếu
nại, tố cáo nói chung. Việc giải quyết khiếu nại, kháng cáo đối với
các bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật có nơi
còn để quá chậm, thậm chí có trường hợp còn để quá thời hạn do
luật định Trường hợp cá biệt khi phát hiện bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật có sai lầm thì đã quá thời hạn kháng nghị theo
thủ tục giám đốc. Trong thời gian gần đây, tình hình khiếu nại, tố
cáo của công dân diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng. Bên
cạnh những trường hợp khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, thì cũng
có không ít trường hợp khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật [64].
Để giải quyết tình hình trên, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giao
trách nhiệm giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo cho các thủ trưởng đơn vị

14

trực tiếp đối với cán bộ công chức ngành Tòa án và đưa ra phương pháp giải
quyết đơn một cách hợp lý và khoa học.
Trên nền tảng của tất cả các văn bản pháp luật trước đó, lần đầu tiên
với một chương XXXV độc lập, riêng biệt về "khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự", bằng các quy phạm (từ Điều 325 - 333), Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 mới điều chỉnh các nội dung chính, như: a) Quyền khiếu nại một cách
đầy đủ và mở rộng quyền này cho mọi cá nhân tức bao gồm cả công dân Việt
Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch sinh sống trên đất nước Việt
Nam; b) Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 339); c) Thẩm quyền,
thủ tục giải quyết khiếu nại được tiến hành ở Viện kiểm sát ngang cấp hoặc
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là giới hạn quyết định cuối cùng (Điều 329
Bộ luật Tố tụng hình sự).
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm
2004 đã thay đổi một số vấn đề quan trọng như: a) Xóa bỏ chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với giải quyết khiếu nại, tố cáo
(Điều 12); b) Quy định thêm về trình tự, thủ tục, quyền hạn của Tổng thanh
tra đối với yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối
cùng (Điều 23-26). Nhưng, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Viện kiểm sát đối với hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự năm 2003 vẫn còn nguyên
giá trị bởi không bị văn bản nào hủy bỏ đồng thời không áp dụng quy trình
yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng như
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 có quy định đối với khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực hành chính.
Để hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003. Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 10/8/2005 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo quy định:

15

2.1. "Khiếu nại trong tố tụng hình sự" là việc cá nhân, cơ
quan, tổ chức, theo thủ tục quy định tại Chương XXXV của Bộ luật
Tố tụng hình sự, đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét
lại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết
định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
2.2. "Khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam" là khiếu nại về lệnh bắt, quyết định tạm giữ,
lệnh tạm giam, quyết định phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
quyết định gia hạn tạm giữ, lệnh gia hạn tạm giam và khiếu nại liên
quan đến việc thực hiện các lệnh hoặc quyết định đó được quy định
tại các điều từ Điều 80 đến Điều 90, Điều 92, Điều 93, Điều 303 và
Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.3. "Quyết định tố tụng bị khiếu nại" là quyết định được
ban hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án
được phân công chủ tọa phiên tòa trước khi mở phiên tòa, người có
thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, mà người khiếu
nại có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.4. "Hành vi tố tụng bị khiếu nại" là hành vi được thực hiện
trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra
viên Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên
Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án được
phân công chủ tọa phiên tòa trước khi mở phiên tòa, người có thẩm
quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, mà người khiếu nại cho
rằng hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của mình.


16
2.5. "Tố cáo trong tố tụng hình sự" là việc công dân báo cho
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, mà họ cho rằng hành vi
đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
2.6. "Vụ việc tố cáo phức tạp" là vụ việc tố cáo có nhiều nội
dung, tố cáo liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của nhiều
người hoặc cần phải xác minh tại nhiều địa điểm khác nhau [75].
Điểm lại quá trình xây dựng pháp luật về khiếu nại, tố cáo của Nhà
nước ta, nhận thấy, sự xác lập quyền công dân về khiếu nại, tố cáo được bắt
nguồn từ tinh thần của bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và được ghi nhận cụ
thể trong các bản Hiến pháp tiếp theo, là sự thể hiện bản chất dân chủ của nhà
nước. Bản chất ấy ngày càng được mở rộng và phát triển theo từng giai đoạn
phát triển của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa càng được cụ thể hóa, khi pháp luật về
khiếu nại, tố cáo xác định trách nhiệm, thời hạn và thẩm quyền các cấp phải
giải quyết khiếu nại, tố cáo không làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Tính nhân đạo trong các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo
được thể hiện rõ nét khi quy định không áp dụng thời hiệu khiếu nại trong
từng trường hợp bị ốm đau, thiên tai, định họa, đi công tác, học tập ở nơi xa
hoặc vì những trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được
quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu (Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự). Mặt
khác, các quy định ấy cũng đánh dấu về kỹ thuật lập pháp ngày càng được
pháp điển hóa, điều chỉnh các quan hệ xã hội thiết yếu đối với Nhà nước trong
từng giai đoạn xây dựng đất nước cụ thể. Các giá trị trên có được là do Nhà
nước ta đã đánh giá đúng về quyền khiếu nại, tố cáo như là một kênh thông
tin để nắm tình hình vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước mà
kịp thời xử lý, là một phương tiện bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công


17
dân khi bị vi phạm, là hình thức xã hội tham gia vào quản lý nhà nước để
nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý trên các lĩnh vực tư tưởng,
an ninh, kinh tế - xã hội
1.1.3. Khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự của một số nƣớc
trên thế giới
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân,
được cụ thể bằng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trên thế giới,
quyền khiếu nại, tố cáo cũng được các nước quy định rõ ràng trong hệ thống
pháp luật của mình. Tuy nhiên, do đặc điểm về trình độ phát triển, nhận thức
pháp lý của người dân, sự khác biệt về văn hóa, tri thức, nên mỗi một quốc
gia, việc quy định quyền khiếu nại, tố cáo có sự khác nhau, trong đó có quyền
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
1.1.3.1.Quy định về quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình
sự Công hòa Liên bang Đức
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, quyền khiếu
nại, tố cáo được quy định tương ứng theo từng chương, mục và tính cần thiết
của từng nội dung mà luật tố tụng quy định quyền khiếu nại đối với hoạt động
tố tụng. Cụ thể: Chương II: Địa điểm xét xử, chương này quy định về nơi tội
phạm thực hiện và thẩm quyền xét xử của Tòa án, các tranh chấp liên quan
đến thẩm quyền xét xử của tòa án, theo đó quyền khiếu nại được quy định
như sau:
Điều 16: Khiếu nại việc không có thẩm quyền xét xử
Trước khi mở phiên xét xử chính thức, Tòa sẽ tự mình xem
xét lại thẩm quyền xét xử ở địa phương. Sau đó, Tòa án chỉ có thể
tuyên bố việc Tòa không có thẩm quyền xét xử căn cứ vào khiếu nại
của bị cáo. Bị cáo chỉ có thể khiếu nại trong phiên xét xử chính thức
trước khi bắt đầu thủ tục kiểm tra lời buộc tội đối với người đó [71].


18
Phần ba, thủ tục cấp phúc thẩm của Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa
Liên bang Đức, có quy định riêng một chương về khiếu nại, trong chương
này, luật tố tụng quy định về việc khiếu nại và thẩm quyền giải quyết khiếu
nại như Điều 304 - Chấp thuận khiếu nại: khoản 4: Các quyết định và chỉ dẫn
của Tòa hình sự liên bang không được phép khiếu nại. Các quyết định và
chỉ dẫn của Tòa án khu vực cấp cao cũng không được phép khiếu nại; tuy
nhiên trong trường hợp mà các Tòa án khu vực cấp cao có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm thì khiếu nại về các quyết định và chỉ dẫn này cũng sẽ được chấp
nhận như:
- Về việc bắt, thu giữ, khám xét;
- Về từ chối thực hiện thủ tục chính hoặc chấm dứt thủ tục tố tụng vì
có sự cản trở nào đó;
- Yêu cầu thực hiện phiên tòa xét xử chính trong trường hợp bị cáo
vắng mặt
- Thanh tra hồ sơ
Ngoài ra Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức
cũng quy định không chấp nhận:
Các quyết định của tòa án được đưa ra trước khi có bản án
không thuộc đối tượng bị khiếu nại. Ngoại trừ các quyết định liên
quan đến việc bắt, tạm thời bắt buộc chữa bệnh, thu giữ, rút giấy
phép điều khiển phương tiện, cấm tạm thời đảm nhiệm chức vụ
hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc giám sát cũng như tất cả
các quyết định có ảnh hưởng đến bên thứ ba [71].
Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, khoản 1 Điều 306 Bộ luật Tố
hình sự tụng Cộng hòa Liên bang Đức quy định: "Khiếu nại được gửi tới Tòa
án hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa nơi mà quyết định phản đối được đưa ra
hoặc được thư ký tòa án ghi âm hoặc ghi lại" [71].

19

Khoản 2 Điều 306 quy định trường hợp:
Tòa án đó hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa người đã đưa
ra quyết định phản đối cho rằng khiếu nại đó là có căn cứ hợp lý thì
thẩm phán đó sẽ giải quyết khiếu nại đó; trong tất cả các trường hợp
khác, khiếu nại sẽ được đệ trình ngay lập tức lên Tòa án giải quyết
khiếu nại đó chậm nhất trong thời hạn ba ngày [71].
Luật cũng quy định trường hợp Tòa án giải quyết khiếu nại không
được phép sửa đổi quyết định bị khiếu nại nếu quyết định đó gây thiệt hại cho
phía bị khiếu nại mà không thông báo cho người bị khiếu nại biết để đưa ra
câu trả lời thích hợp (Điều 308).
Cũng theo luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, ở đây việc
giải quyết khiếu nại không thực hiện theo hai cấp trừ trường hợp đặc biệt như:
Điều 311ª. Giải quyết khiếu nại tiếp theo của bên bị khiếu kiện, khoản 1.
Nếu tòa án giải quyết khiếu nại ban hành quyết định sửa lại
mà không nghe quan điểm của bên bị khiếu nại và nếu quyết định
đó không thể bị khiếu nại nữa và kết quả là gây thiệt hại tới quyền
lợi của bên bị khiếu nại thì Toà án sẽ tự mình hoặc tùy theo yêu cầu
đưa ra sẽ tiếp tục giải quyết khiếu nại của bên bị khiếu kiện trước
đó và quyết định về yêu cầu đã đưa ra. Tòa án giải quyết khiếu nại
có thể sửa đổi quyết định cho dù không có yêu cầu nào được đưa ra [71].
Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức còn
quy định về khiếu nại trong các chương, phần Chẳng hạn như Phần bốn,
phục hồi tố tụng theo một phán quyết chung thẩm, hoặc khiếu nại trực tiếp -
Điều 372 quy định: "Tất cả các quyết định của Tòa án đưa ra tại phiên tòa sơ
thẩm về yêu cầu mở thủ tục tái thẩm có thể sẽ bị phản đối bởi người khiếu nại
trực tiếp. Quyết định của Tòa án ra lệnh mở thủ tục tái thẩm và bắt đầu lại
phiên tòa chính thức không bị phản đối từ phía Cơ quan công tố" [71].

×