Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.72 KB, 99 trang )




I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT




HONG LAN PHNG





KHI T V N HèNH S
THEO YấU CU CA NGI B HI
TRONG LUT T TNG HèNH S VIT NAM




luận văn thạc sĩ luật học






Hà nội - 2009








ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



HOÀNG LAN PHƢƠNG





KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn



HÀ NỘI - 2009








1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bỡa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: CƠ SỞ Lí LUẬN CỦA KHỞI TỐ VỤ ÁN HèNH SỰ THEO
YấU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
4
1.1.
KHỞI TỐ VỤ ÁN HèNH SỰ
4
1.1.1.
Tầm quan trọng và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ ỏn hỡnh sự
4
1.1.2.
Khởi tố vụ ỏn hỡnh sự trong mỗi mụ hỡnh tố tụng hỡnh sự
8
1.2.
Đặc điểm của khởi tố vụ ỏn hỡnh sự theo yờu cầu của người
bị hại
14
1.2.1.
Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ ỏn hỡnh sự theo
yờu cầu của người bị hại
14
1.2.2.
Đặc điểm của cụng tố, tư tố và vấn đề khởi tố theo yờu cầu
của người bị hại
19
1.2.3.
Chủ thể, phạm vi, hậu quả phỏp lý của khởi tố vụ ỏn hỡnh sự
theo yờu cầu của người bị hại
22
1.2.4.
Cỏc quan hệ phỏp luật trong quỏ trỡnh khởi tố vụ ỏn hỡnh sự

theo yờu cầu của người bị hại
24

Chương 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HèNH SỰ THEO
YấU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
29
2.1.
Yờu cầu của việc khởi tố
29
2.1.1.
Những trường hợp chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
29


2
2.1.2.
Chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố
38
2.1.3.
Hình thức, thời điểm yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
45
2.1.4.
Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
47
2.2.
Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
49
2.2.1.
Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
49

2.2.2.
Thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
49
2.2.3.
Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
50

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN
HèNH SỰ THEO YấU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
57
3.1.
Thực tiễn áp dụng chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại
57
3.1.1.
Áp dụng quy định về chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án
57
3.1.2.
Áp dụng quy định về cỏc trường hợp chỉ được khởi tố vụ ỏn
theo yờu cầu của người bị hại
58
3.1.3.
Áp dụng quy định về thời điểm người bị hại yờu cầu khởi tố
vụ ỏn
59
3.1.4.
Áp dụng những quy định của phỏp luật về việc người bị hại
trỡnh bày lời buộc tội tại phiờn toà
60

3.1.5.
Áp dụng quy định về chủ thể cú quyền rỳt yờu cầu khởi tố vụ ỏn
61
3.1.6.
Một số vấn đề khỏc
62
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định khởi tố vụ ỏn
hỡnh sự theo yờu cầu người bị hại
67
3.2.1.
Hoàn thiện quy định về cỏc trường hợp khởi tố vụ ỏn theo
yờu cầu của người bị hại
67
3.2.2.
Hoàn thiện quy định về người đại diện hợp phỏp và quyền
của họ
68


3
3.2.3.
Hoàn thiện quy định về quyền yờu cầu khởi tố và rỳt yờu cầu
khởi tố vụ ỏn
71
3.2.4.
Hướng dẫn về hỡnh thức thể hiện và nội dung của yờu cầu
khởi tố vụ ỏn của người bị hại hoặc của người đại diện hợp
phỏp của người bị hại
79

3.2.5.
Hoàn thiện quy định về căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp tục tiến hành tố tụng và người bị hại được yờu cầu khởi
tố lại vụ ỏn
80
3.2.6.
Hoàn thiện quy định về quyền được trỡnh bày lời buộc tội tại
phiờn toà của người bị hại và người đại diện hợp phỏp của
người bị hại
82
3.2.7.
Cỏc giải phỏp khỏc
87

KẾT LUẬN
89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91

















4
MỞ ĐẦU

Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Để đảm bảo,
duy trì trật tự xã hội, Nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để chống lại
mọi hành vi vi phạm pháp luật nhất là tội phạm. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, con người luôn được xác định là vốn quý của xã hội. Đây là đối tượng
hàng đầu được Nhà nước và pháp luật có trách nhiệm bảo vệ và tôn trọng.
Bảo vệ con người là bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền
tự do và cả quyền lợi ích hợp pháp khác. Đó là những quyền đã được Hiến
pháp quy định và được các đạo luật thể chế thành các quy định với các chế tài
đặc trưng của các ngành luật khác nhau để bảo vệ các quyền đó. Trong đó,
luật hình sự đã quy định cụ thể các tội xâm phạm lợi ích hợp pháp của con
người trong phần tội phạm cụ thể. Và một trong những nguyên tắc của luật
hình sự là: "Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh
chóng, công minh theo đúng pháp luật" (khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự
1999). Giải quyết các vụ án hình sự một cách khách quan, đúng pháp luật là
sự thể hiện việc bảo vệ các quyền công dân đã được pháp luật ghi nhận.
Tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Toà án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo
những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Thông qua hoạt động tố tụng
hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết vụ án hình sự mà ở đó
số phận pháp lý của một con người sẽ được định đoạt hoặc là tước bỏ ở họ
một số quyền hoặc là bảo vệ quyền của họ. Mục đích của tố tụng hình sự là
xét xử đúng người, đúng tội nhưng cũng không làm oan người vô tội, đồng

thời qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Khởi tố vụ án hình sự là một trong những giai đoạn của tố tụng hình
sự, hơn nữa đây lại là giai đoạn đầu tiên, mở đầu cho quá trình giải quyết một
vụ án hình sự. Giai đoạn này bắt đầu bằng việc phát hiện những nguồn thông
tin về tội phạm và kết thúc bằng việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định


5
khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Việc khởi tố vụ án hình sự kịp thời
và có căn cứ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tiếp theo cũng như
đảm bảo không tội phạm nào không bị xử lý. Ngược lại, việc khởi tố không
đúng sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Tuy nhiên, tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định một số
tội phạm chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Điều này có nghĩa là
khi có một trong các tội phạm xảy ra ngoài căn cứ là "sự việc có dấu hiệu tội
phạm", cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nhận được yêu cầu của người
bị hại mới được khởi tố vụ án, nếu không việc khởi tố này là trái pháp luật.
Và nếu vụ việc đã được khởi tố theo đơn yêu cầu của người bị hại, trong quá
trình giải quyết vụ án, nếu người bị hại rút đơn yêu cầu, vụ án phải được đình
chỉ (trừ trường hợp rút đơn yêu cầu trái với ý muốn của người bị hại).
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988, chế định khởi tố vụ án theo yêu
cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định đã thu hút được sự quan tâm
của những người áp dụng pháp luật, các nhà nghiên cứu Có nhiều bài viết về
vấn đề này nhưng chủ yếu tập trung vào việc chỉ ra những điểm còn hạn chế,
thiếu sót trong những quy định của pháp luật và những vướng mắc khi áp
dụng trong thực tế mà chưa có sự nghiên cứu theo hệ thống.
Sau đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 tiếp tục ghi nhận chế định này.
Tuy nhiên, cho đến nay, sau một thời gian dài được quy định và áp dụng, những
quy định của pháp luật về chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
vẫn chưa có sự đồng bộ nên đã gây không ít khó khăn cho cơ quan tiến hành

tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng đối với những sự việc cụ thể.
Với những lý do trên đây, tôi đã chọn đề tài "Khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề
tài luận văn của mình. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả mong muốn hiểu một
cách sâu sắc và có hệ thống về các quy định trong chế định khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại để từ đó có cái nhìn đầy đủ hơn về vấn đề
này, đồng thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị góp phần làm sáng tỏ một số


6
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nhằm hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần nghiên cứu các vấn đề sau:
- Khái niệm, ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và các đặc
điểm của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại;
- Nội dung của chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam;
- Thực trạng áp dụng các quy định của chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
chế định này để nâng cao hiệu quả áp dụng của chế định trong thực tiễn.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu,
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Bố cục
của luận văn gồm 3 chương, 6 mục.
Chương 1: Cơ sở lý luận của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
Chương 2: Nội dung chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một vấn đề
phức tạp cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, do khả năng và trình độ còn hạn chế
nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả hy vọng sẽ
nhận được những lời đóng góp, những ý kiến phê bình từ phía các thầy cô
giáo và các bạn để bài luận văn đạt kết quả tốt hơn.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI

1.1. KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những kết quả có ý nghĩa rất quan trọng,
tạo cho đất nước những tiền đề bước vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra nhiều nhiệm vụ về
kinh tế, xã hội, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
trong đó các cơ quan tư pháp hình sự giữ vai trò rất quan trọng. Các cơ quan
tư pháp hình sự, với tư cách là các cơ quan đứng trên tuyến đầu của cuộc đấu
tranh chống tội phạm đã và đang trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ này. Mà
một trong nhưng hoạt động của các cơ quan này là khởi tố các vụ án hình sự
khi có dấu hiệu của tội phạm để mở đầu cho một quá trình tố tụng nhằm phát
hiện và xử lý kịp thời tội phạm và người phạm tội, góp phần bảo vệ pháp chế
và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự là một khái

niệm được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết, có thể hiểu đó là một
chế định của luật tố tụng hình sự, tức là tập hợp những quy định về trình tự và
thủ tục khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một
hành vi tố tụng mở đầu cho giai đoạn điều tra. Thứ ba, khởi tố vụ án hình sự
được hiểu là một giai đoạn tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Cách hiểu thứ ba là cách hiểu thông thường và phổ biến hiện nay.
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố
tụng hình sự, trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có


8
dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp
theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự là một quá trình thống nhất và nhất quán của nhiều
giai đoạn độc lập. Giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau
kiểm tra giai đoạn trước. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá
trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có đầy đủ các
dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với những mục tiêu và nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Nếu như
mục đích chung của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, thì mục đích cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
là xác định tội phạm và phát hiện người phạm tội, củng cố các dữ kiện, xác
định các dấu hiệu của tội phạm bảo đảm phản ứng mau lẹ của Nhà nước trước
hành vi phạm tội, góp phần ngăn ngừa và xử lý kịp thời tội phạm và người
phạm tội.
Nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thể hiện ở việc
ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm được phát hiện do tin báo hoặc
tố giác, kiểm tra xác minh nguồn tin đó để xác định những căn cứ cần thiết

cho việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn này có nhiệm vụ
làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối với vụ việc, phòng ngừa và ngăn chặn
tội phạm, giữ gìn bảo quản các dấu vết của vụ án theo những quy định của
luật tố tụng hình sự. Có thể nói giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tạo ra những
điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xác định người phạm tội và tội
phạm ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý cũng có ý kiến cho rằng khởi tố vụ
án hình sự là bước đầu của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Ý kiến này không
có căn cứ vì nếu được chấp nhận trong thực tiễn sẽ dẫn đến cách hiểu cho


9
rằng thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là thời điểm tiếp nhận tố giác và
tin báo về tội phạm và điều này sẽ loại trừ việc cấm thực hiện các hành vi tố
tụng điều tra trước khi khởi tố vụ án hình sự, và thời hạn điều tra sẽ không
được tính từ ngày khởi tố vụ án mà tính từ ngày tiếp nhận tin báo về tội phạm.
Tính chất quan trọng của mục đích và các nhiệm vụ cụ thể của giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự còn được quy định bởi các ý nghĩa chính trị - xã
hội và ý nghĩa pháp lý của nó.
Về mặt chính trị - xã hội, khởi tố vụ án hình sự là biện pháp quan trọng
nhằm ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội, là công cụ hữu hiệu để bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Đồng thời cũng thể hiện sự phản ứng nhạy cảm và kịp thời của các cơ quan đấu
tranh chống tội phạm nhằm xác định sự thật của vụ án và truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người có tội, bảo đảm thực hiện nguyên tắc đã phạm tội thì phải
bị trừng trị. Việc khởi tố, điều tra và xét xử kịp thời các vụ án hình sự sẽ tạo ra
trong công chúng niềm tin vào việc thực thi pháp luật. Tội phạm là mặt trái của
xã hội, tình hình tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nguy hiểm lớn nhất cho
xã hội, bởi lẽ nó gây ra thiệt hại cho các quan hệ tồn tại trong xã hội, xâm phạm
đến các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Hậu quả của nó là những thiệt

hại rất lớn về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tác động xấu đến các
hiện tượng xã hội khác, đến tiến trình phát triển xã hội nói chung. Vì vậy, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm luôn là một vấn đề bức xúc, đòi hỏi sự
quan tâm cao độ của Đảng và Nhà nước các cấp, các ngành, các tổ chức cũng
như mọi công dân trong xã hội, trong đó các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án giữ vai trò nòng cốt. Với tinh thần đó, khởi tố vụ án hình sự có một ý
nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm. Nó chính thức công nhận sự
tồn tại của một vụ án, khẳng định trên thực tế một sự kiện phạm tội đã xảy ra từ
đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án trong việc xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.


10
Việc giao cho nhiều cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án đã phát huy
những mặt tích cực trong việc phát hiện, xử lý tội phạm nhanh chóng, kịp
thời, không bỏ lọt tội phạm, tránh tình trạng tội phạm xảy ra mà không có cơ
quan tiến hành tố tụng nào khởi tố.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và kịp thời góp
phần bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, quyền và lợi ích họp pháp của mọi
công dân, đảm bảo cho mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập
thể, quyền lợi chính đáng của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Khởi tố vụ án hình sự kịp thời và chính xác có ý nghĩa trong việc giáo
dục mọi công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, góp phần đảm bảo sự tồn tại vững mạnh của Nhà
nước, đem lại cuộc sống bình yên cho mọi công dân trong xã hội, làm cơ sở cho
mọi công dân có thể cống hiến hết sức mình vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Ngược lại, nếu các vụ án hình sự không được khởi tố một cách kịp
thời hay không bị khởi tố sẽ dẫn đến tình trạng tội phạm và người phạm tội
không bị phát hiện và xử lý, hoặc dẫn đến việc chứng cứ bị tiêu huỷ, gây thiệt
hại đến lợi ích của người bị hại và lợi ích chung của xã hội. Bên cạnh đó, việc

khởi tố thiếu căn cứ pháp lý là hành vi vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng hình
sự và cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho công dân và trong xã hội.
Bên cạnh việc quy định căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là khi có dấu
hiệu tội phạm, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định những căn cứ không
được khởi tố vụ án hình sự. Đây là một biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo
các quyền và lợi ích của người dân không bị tuỳ tiện xâm phạm. Việc không
khởi tố vụ án hình sự khi có những căn cứ mà pháp luật quy định là không
được khởi tố cũng sẽ tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân vào sự công bằng
của pháp luật, đồng thời cũng tiết kiệm sức người, sức của cho Nhà nước vì
nó đã không để cho các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, cơ quan thi
hành án phải tiến hành tố tụng một cách lãng phí.


11
Việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự còn góp phần đấu tranh chống
tội phạm "ẩn". Theo nhận xét của nhiều nhà khoa học pháp lý hình sự, tình
trạng tội phạm "ẩn" vẫn còn là vấn đề nan giải với nhiều nguyên nhân khác
nhau và ở các mức độ khác nhau. Vì vậy, việc khởi tố kịp thời các vụ án hình
sự là yếu tố quan trọng làm giảm tội phạm "ẩn" trong tình hình hiện nay.
Về ý nghĩa pháp lý, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho các
giai đoạn tố tụng tiếp theo. Việc ra quyết định khởi tố vụ án sẽ làm phát sinh
quyền hạn của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án khi thực hiện các hành
vi tố tụng nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh tội
phạm và người phạm tội. Khi các cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố
vụ án hình sự là lúc bắt đầu áp dụng các quy định của pháp luật hình sự. Và
cũng chính từ thời điểm áp dụng các quy định của luật hình sự thì cũng là lúc
các quan hệ pháp luật hình sự được thực hiện. Giai đoạn đầu tiên để thực hiện
các quan hệ pháp luật hình sự này chính là việc khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2. Khởi tố vụ án hình sự trong mỗi mô hình tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là trình tự hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và mối quan hệ giữa họ
trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, từ khi khởi tố vụ án đến khi xét
xử và thi hành án đối với người có hành vi phạm tội. Trong lịch sử tư pháp
hình sự đã tồn tại nhiều cách thức khác nhau khi tiến hành giải quyết một vụ
án hình sự, đó là mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn. Ngoài ra
còn có mô hình tố tụng pha trộn giữa hai loại trên. Tuỳ thuộc vào mỗi mô
hình mà pháp luật quy định về vai trò của khởi tố vụ án hình sự khác nhau.
Mô hình tố tụng tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại, được áp dụng tại
Nhà nước Hy Lạp cổ đại, sau được đưa vào Nhà nước La Mã với tên gọi là
thủ tục "hỏi đáp liên tục" và phát triển phổ biến ở các nước theo truyền thống
pháp luật án lệ Ănglơ-xắc-xông nhất là khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII.
Tố tụng tranh tụng cho rằng "sự thật sẽ được mở ra qua sự tranh luận giữa


12
những người có dữ liệu chính xác" [46, tr. 82]. Mô hình tố tụng này quan
niệm rằng: tố tụng là cuộc tranh đấu tại Toà án giữa Nhà nước (thông qua đại
diện) và công dân bị tình nghi thực hiện tội phạm, là cuộc tranh đấu thì hai
bên đều có các quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong quá trình chứng
minh, ngôn ngữ được sử dụng trong quá trình tranh tụng đòi hỏi phải rất chính
xác. Có người cho rằng tố tụng tranh tụng coi trọng luật tố tụng hơn luật nội
dung. Về nguyên tắc hai bên tranh tụng có khả năng như nhau không chỉ tại
phiên toà mà cả trong các giai đoạn trước phiên toà, mặc dù các tư tưởng này
thực chất chỉ tồn tại trên giấy hoặc chỉ nằm trong đầu óc của các luật sư xa rời
thực tế mà thôi [46, tr. 125]. Khi tham gia tố tụng, các bên không bắt buộc
phải khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Công việc của họ là thu thập chứng
cứ để buộc tội hoặc bào chữa, phục vụ cho cuộc tranh luận ở Toà án và họ có
trách nhiệm chứng minh tính có lỗi (buộc tội) hoặc tính không có lỗi, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự (bào chữa).
Trong quá trình xét xử, Toà án đóng vai trò người trọng tài quan sát

việc tranh tụng của các bên và quyết định bên nào sẽ chiến thắng. Việc đánh
giá chứng cứ phụ thuộc vào niềm tin nội tâm của Thẩm phán khi Thẩm phán
dựa vào tiêu chí hợp lệ của chứng cứ, "khuôn mẫu chứng cứ". Để đảm bảo sự
bình đẳng trong tranh tụng, người ta đưa ra hai điều kiện: Một là, sử dụng việc
kiểm tra chéo, đối chất để xác định tính chính xác của chứng cứ. Bên buộc tội và
bên bào chữa tập trung chỉ ra cái mà nhân chứng biết thực, chứ không phải là cái
mà họ nghĩ rằng họ biết. Hai là, trách nhiệm được chia sẻ cho các bên buộc tội
và bào chữa. Tòa án đóng vai trò "trọng tài" đảm bảo cho các bên có đầy đủ các
điều kiện như nhau khi tham gia tranh tụng. Với quan niệm tố tụng hình sự
chỉ gồm có giai đoạn xét xử vụ án tại phiên tòa [16, tr. 100], các chức năng
buộc tội, bào chữa và xét xử chỉ thực sự bắt đầu tại phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Tại đây, với sự tham gia của các chủ thể bên buộc tội (Công tố viên, người bị
hại), bên bào chữa (người bào chữa, bị cáo) và các chủ thể khác dưới sự điều
khiển của Tòa án (Thẩm phán) và dưới sự giám sát của Hội đồng xét xử, ba


13
chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử đều được thực hiện công khai. Còn
giai đoạn trước khi mở phiên tòa xét xử được xem là giai đoạn tiền tố tụng, do
các bên tiến hành một số hoạt động để chuẩn bị cho cuộc tranh tụng tại phiên
tòa. Vì vậy, có một điều thú vị là trong kiểu tố tụng này chức năng giám sát
việc tuân theo pháp luật được giao cho Tòa án. Với tư cách là trung tâm của
cơ quan tư pháp, của hoạt động tố tụng, Tòa án có quyền và có trách nhiệm đảm
bảo cho các bên nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật. Điều này
khác với những nước có tổ chức Viện kiểm sát như Liên Xô, Trung Quốc, Việt
Nam…. Mặc dù có những ưu điểm, song kiểu Tố tụng mang tính "đối trọng"
này cũng bị phê phán là xa rời thực tế, "việc con người bị phán xét như thế
nào dường như quan trọng hơn việc xem họ đã làm gì trên thực tế" [46, tr. 126].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hình thức tố tụng tranh tụng có những
ưu điểm và hạn chế nhất định: ưu điểm lớn nhất của hình thức tố tụng tranh

tụng là sự độc lập rất lớn của Toà án trong hoạt động tố tụng; là những đảm
bảo quan trọng cho việc bảo vệ quyền công dân, hạn chế tố tụng; tạo điều
kiện để Toà án giám sát đối với các hoạt động của Cơ quan điều tra (bắt
người, khám xét người, đồ vật; nghe các cuộc đàm thoại ); đảm bảo tính
công khai, minh bạch của quá trình tố tụng; là quyền xét lại các bản án đã
được tuyên xử và nhiều nguyên tắc khác của tố tụng hình sự. Ngoài ra, có ý
kiến cho rằng, cơ chế vận hành của tố tụng tranh tụng đã hạn chế đến mức tối
đa các trường hợp kết án oan, sai: là biểu hiện của một nền văn hoá pháp lý
cao ở một quốc gia, biểu hiện đó không chỉ ở thái độ tôn trọng pháp luật, cách
xử sự có chừng mực trong khuôn khổ pháp luật của các cơ quan và người tiến
hành tố tụng mà còn ở việc người dân rất am hiểu về pháp luật, đặc biệt là
pháp luật tố tụng hình sự - được coi là có nhiều đụng chạm đến quyền con
người. Tất cả những nguyên tắc và nội dung của tố tụng tranh tụng đó đảm
bảo tốt nhất cho việc đạt được chân lý khách quan. Từ nhận xét trên có thể
nhận thấy, tố tụng tranh tụng sẽ phù hợp và phát huy hiệu quả trong điều kiện
Nhà nước dân chủ và xã hội dân sự phát triển.


14
Bên cạnh đó, hình thức tố tụng tranh tụng cũng có không ít những hạn
chế. Việc tăng cường một cách đáng kể vai trò của bên bào chữa, tất yếu sẽ
làm ảnh hưởng không nhỏ vai trò của bên buộc tội trong điều kiện trình độ
chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của bên buộc tội còn nhiều hạn chế; là
vai trò thụ động của Toà án trong việc đòi hỏi và ngay cả trong việc nghiên
cứu chứng cứ dẫn đến việc thay chân lý vật chất bằng chân lý hình thức
"người đúng là người phát biểu tốt nhất ở Toà án". Ngoài ra, tố tụng tranh
tụng dễ bỏ lọt tội phạm; là hình thức tố tụng tốn kém so với các hình thức tố
tụng khác, kể cả tiền bạc và thời gian; bất lợi cho người nghèo do phải bỏ chi
phí để thuê luật sư với giá đắt đỏ Hạn chế trên dẫn đến hậu quả là nền công
lý của xã hội rất khó được thiết lập và cơ quan tư pháp không còn được coi là

chỗ dựa đáng tin cậy của nhân dân.
Mô hình tố tụng thẩm vấn xuất hiện vào thời kì chiếm hữu nô lệ, trong
các Tòa án tôn giáo và dần dần thâm nhập vào Tòa án thường. Mô hình tố
tụng này phát triển mạnh mẽ và phổ biến vào thời kì quân chủ, "nó phản ánh
chế độ chính trị độc đoán, tàn bạo của giai cấp phong kiến và phối hợp với
chế độ Trung ương tập quyền của nền quân chủ chuyên chế" [52, tr. 11] và
cũng được chính quyền của giới quý tộc sử dụng rộng rãi. Hình thức tố tụng
này ra đời xuất phát từ những nguyên nhân: thứ nhất, do yêu cầu tăng cường
quyền lực công (của Nhà nước hoặc của tôn giáo); thứ hai, do tình hình tội
phạm tăng lên rất nhanh mà những cá nhân riêng biệt không thể khắc phục
dược; thứ ba, do thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm của quyền lực đối với các
quyền của con người và các đảm bảo tự do cho cá nhân.
Đặc điểm của tố tụng xét hỏi được tiến hành bằng hình thức viết, bí
mật, không trực diện; các chức năng tố tụng không được phân định một cách
rõ ràng, sự quan tâm đến các chức năng được thể hiện ở các mức độ rất khác
nhau. Đặc biệt là chủ thể thực hiện chức năng tố tụng chưa được phân định cụ
thể mà hầu như tập trung vào Tòa án. Thẩm phán không chỉ thực hiện chức
năng xét xử mà còn thực hiện cả chức năng điều tra, chức năng buộc tội và


15
một phần nào đó của chức năng bào chữa. Bị cáo bị hạn chế khả năng bào
chữa, họ không được coi là chủ thể của quá trình tố tụng mà là đối tượng truy
cứu của tố tụng.
Nguyên tắc cơ bản của hình thức tố tụng này là "suy đoán có tội" đối
với người bị tình nghi, hạn chế đến mức tối đa việc khiếu nại đối với các bản
án đã được tuyên; nguyên tắc sử dụng việc thừa nhận lỗi của bị can, bị cáo là
chứng cứ quyết định. Hệ thống chứng cứ đặc trưng của hình thức tố tụng này
là tính hợp lệ của chứng cứ, khi đánh giá chúng với những đòi hỏi hết sức
khắt khe, nhưng nhiều quy định về chứng cứ lại hết sức trừu tượng. Chẳng

hạn lời nhận tội của bị cáo được coi là "chứng cứ vua" hay "nữ hoàng" của
mọi loại chứng cứ; lời khai của người giàu đáng tin cậy hơn lời khai của
người nghèo; lời khai của giới học giả, thầy tu bao giờ cũng có giá trị hơn lời
khai của dân thường hoặc là tình tiết của vụ án chỉ được coi là chứng cứ khi
tình tiết đó được hai người trở lên biết… Pháp luật còn cho phép dùng nhục
hình để thu thập chứng cứ, thậm chí việc dùng nhục hình đôi khi còn được
khuyến khích và được coi là cách thu thập chứng cứ quan trọng nhất, đặc biệt
là "chứng cứ vua".
Cùng với sự phát triển của lịch sử, hình thức tố tụng thẩm vấn có
những thay đổi: huỷ bỏ việc tra tấn, nhục hình, nhưng vẫn duy trì hệ thống
các chứng cứ hình thức; áp dụng điều tra sơ bộ, quy định chặt chẽ thủ tục điều
tra và xét xử; thừa nhận một số quyền cá nhân. Nguyên tắc suy đoán có tội bị
bãi bỏ, nhưng chưa áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Trách nhiệm chứng
minh thuộc về bên khẳng định, chứ không thuộc về bên phủ định. Chức năng
xét xử đã có nhiều biểu hiện độc lập hơn so với chức năng buộc tội. Quyền
của bên bị buộc tội được quan tâm hơn; chức năng bào chữa ngày càng trở
nên quan trọng và điều này cũng có nghĩa là chức năng buộc tội ngày càng
thu hẹp lại. Mặc dù có những thay đổi nhất định, song vẫn không phân chia
các chức năng tố tụng theo thực chất, Thẩm phán vẫn giữ vai trò rất lớn, là
trung tâm của quá trình thu thập dữ kiện để chứng minh vụ án.


16
Phiên toà trong tố tụng thẩm vấn không phải là sự cạnh tranh giữa hai
bên đối địch nhau mà là sự tiếp tục điều tra. Các bên phải cung cấp các chứng cứ
thích hợp cho Toà án. Các Thẩm phán sẽ gọi và kiểm tra một cách tích cực các
nhân chứng và chứng cứ của vụ án. Sở dĩ như vậy là vì, nghĩa vụ chứng minh thuộc
về Toà án. Trong hình thức tố tụng thẩm vấn, sự thật có thể và phải được tìm ra
trong quá trình thẩm vấn, điều tra. Vì rằng các bên có thể có ý định che dấu sự
thật nên Nhà nước phải tham gia sớm và liên tục vào việc thẩm vấn và điều tra.

Trong mô hình tố tụng này, trách nhiệm chứng minh được giao cho
các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Điều này giải phóng tất cả các chủ thể
khác khỏi nghĩa vụ chứng minh, họ chỉ có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ mà họ
có. Điều này một mặt đảm bảo khả năng kiểm soát tình hình tội phạm từ phía
Nhà nước, mặt khác dễ làm tổn thương đến lợi ích cá nhân, nhất là người bị
hại và những người thân thích của họ. Việc giao toàn bộ trách nhiệm chứng
minh cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiến hành các hoạt động tố tụng, nhưng cũng dễ ảnh hưởng đến tính
khách quan, công bằng và công khai của tố tụng.
Qua nghiên cứu cho thấy, các nước theo truyền thống pháp luật châu
Âu lục địa; các nước xã hội chủ nghĩa cũng bị ảnh hưởng của hình thức tố
tụng này. Tuy nhiên, tuỳ từng quốc gia có cách vận dụng khác nhau. Trong
thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, những quy định của pháp luật tố tụng trong
Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long… và đến nay là Bộ luật Tố tụng hình sự
2003 đều phản ánh hình thức tố tụng thẩm vấn.
Như vậy, giữa hai mô hình tố tụng trên có những điểm tương đồng, đó
là: Về mục đích, cả hai loại hình tố tụng đều nhằm tìm ra sự thật của vụ án.
Về phương pháp tiến hành, cả hai loại hình đều có những bước (giai đoạn)
tiến hành theo một trình tự nhất định. Về người tiến hành tố tụng, đều là
những nhân viên nhà nước được pháp luật giao nhiệm vụ giải quyết vụ án. Cả
hai loại hình tố tụng đều đòi hỏi về một thủ tục tố tụng dân chủ, công khai,


17
công bằng. Và cuối cùng, ở cả hai loại hình tố tụng này, việc xét xử thường
được tiến hành theo hai cấp với các hội đồng xét xử vô tư, khách quan.
Bên cạnh đó, giữa hai mô hình tố tụng cũng có những điểm khác biệt
và đó chính là yếu tố tạo ra sự khác biệt về vai trò, ý nghĩa của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự.
Tố tụng tranh tụng chú trọng vào giai đoạn xét xử với các quy tắc

nghiêm ngặt về chứng cứ. Thẩm phán đóng vai trò của người trọng tài, trung
lập chủ yếu là điều hành hoạt động của phiên toà, công tố viên và luật sư cùng
bị cáo trình bày các tình tiết buộc tội và gỡ tội để sau đó Toà quyết định về vụ
án. Trong tố tụng tranh tụng, quy trình tố tụng chỉ chính thức bắt đầu từ khi
mở phiên toà xét xử, còn các hoạt động điều tra trước đó được coi là bí mật.
Trong khi đó, tố tụng thẩm vấn nhấn mạnh vào giai đoạn điều tra, việc điều
tra cẩn thận sẽ đảm bảo xác định chính xác tội phạm. Thẩm phán đóng vai trò
một thẩm tra viên đồng thời có quyền quyết định về vụ án. Trong tố tụng
thẩm vấn, quy trình tố tụng bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, các hoạt động điều
tra hợp lệ đều mang lại những giá trị chứng minh. Như vậy, có thể thấy vai trò
của khởi tố vụ án hình sự trong mô hình tố tụng thẩm vấn được coi trọng hơn
và có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng hình sự Việt
Nam về cơ bản thể hiện nội dung của tố tụng thẩm vấn, mặc dù đã có những
yếu tố của mô hình tố tụng tranh tụng, do đó, khỏi tố vụ án hình sự, giai đoạn
mở đầu quá trình tố tụng, đóng một vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết
vụ án góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA
NGƢỜI BỊ HẠI
1.2.1. Cơ sở của việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của ngƣời bị hại
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề
quyền con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội.


18
Với quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác - Lênin nói riêng, chủ nghĩa
Mac - Lenin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con
người, khẳng định mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ
bản với các điều kiện và biện pháp đảm bảo thực hiện quyền con người trong
thực tế.

Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là công cụ sắc bén
được Nhà nước sử dụng để quản lý và duy trì trật tự xã hội. Chính vì vậy, mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, mọi hành vi vi phạm
pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, có như vậy, mới giữ vững
được kỷ cương phép nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong xã hội đó,
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy, họ
luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các
quyền tự do dân chủ mà còn "có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm" (Điều 71 -
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992). Còn riêng
với người bị hại, họ là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do
hành vi phạm tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm hại, vì vậy Nhà nước đã quy
định cho họ có một quyền đặc biệt, đó là quyền được yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người bị hại được
cân nhắc, tính toán việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho họ hay
không? Tuy nhiên, những trường hợp người bị hại được yêu cầu khởi tố cũng
chỉ nằm trong giới hạn mà Nhà nước và xã hội chấp nhận nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Trong lịch sử lập pháp nước ta, trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự
được ban hành chưa từng có một chế định cụ thể nào quy định về quyền yêu
cầu khởi tố của người bị hại. Nếu có quy định liên quan thì có chăng chỉ là để


19
bảo vệ các quan hệ gia đình chứ không áp dụng đối với các quan hệ khác
trong xã hội. Ví dụ, tại Bộ luật Hồng Đức, chương Đấu tụng quy định: trong
một số tội phạm như lăng mạ ông bà, cha mẹ chồng, chồng đánh vợ, vợ cả
đánh vợ lẽ thì người bị hại phải "cáo quan" (thông báo, yêu cầu hoặc nhờ cơ

quan nhà nước) thì kẻ phạm tội mới "bị quan bắt tội". Hay trong Bộ luật Tố
tụng hình sự 1972 của nguỵ quyền Sài Gòn ghi nhận chế định "chỉ phát động
khi có đơn khiếu tố của nạn nhân" trong một số tội phạm và trong trường hợp
này "công tố sẽ tiêu diệt khi có sự bại nại của dân sự nguyên cáo" [13, tr. 50].
Nhưng rõ ràng nó cũng chưa được quy định một cách cụ thể và có hệ thống.
Sau đó, nhiều lần nhà nước ta ban hành các văn bản về tố tụng hình sự
nhưng người bị hại vẫn không được pháp luật quy định có quyền yêu cầu khởi
tố vụ án mà thậm chí trong nhiều trường hợp người bị hại làm đơn xin giảm
nhẹ hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt một cách có tình, có lý
cho người phạm tội cũng không được Toà án chấp nhận. Quan niệm phổ biến
lúc đó không chấp nhận việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại bởi:
Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội, trong
đó với tư cách là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, Nhà nước có quyền
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người phạm tội, buộc người phạm tội phải
chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm mà
họ đã gây ra. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cho rằng, những vụ án hình
sự được khởi tố theo yêu cầu người bị hại là các vụ án tư tố, quyền yêu cầu
của người bị hại là quyền tư tố bởi đó là việc nhân danh lợi ích cá nhân, riêng
tư để tố giác hành vi sai phạm, tội phạm nào đó và tư tố là một hình thức mà
pháp luật dành cho những người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng
để khởi kiện, khởi tố chống lại người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi phạm tội, xâm phạm các quyền và lợi ích cá nhân.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu, tham khảo pháp luật của một số nước đặc
biệt là pháp luật tố tụng của Liên Xô trước đây, các nhà lập pháp cũng nhận


20
thấy "quyền tư tố" của người bị hại được xã hội chấp nhận khi nó ở trong giới
hạn nhất định và không làm ảnh hưởng đến quyền công tố của Nhà nước. Do
đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã chính thức ghi nhận chế định khởi tố vụ

án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 chỉ áp dụng đối với những hành vi phạm tội có
mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự và thuộc hai nhóm tội là các tội xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của con người và các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công
dân. Sau đó, khi Bộ luật Hình sự 1999 ban hành, do có sự sửa đổi, bổ sung
trong phân nhóm tội phạm cũng như khi áp dụng vào thực tế, chế định khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có những điểm hạn chế, thiếu sót
nên khi xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, bên cạnh việc ghi nhận chế
định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, trên cơ sở kế thừa
các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 1988, chúng ta đã có những sửa đổi,
bổ sung nhất định.
Việc Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 tiếp tục ghi nhận chế định khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại cho thấy sự cần thiết của chế định
này trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của nước ta. Một mặt góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, mặt khác vẫn bảo vệ được
lợi ích của Nhà nước, xã hội. Chế định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng
và cảm thông trước những thiệt hại, mất mát của người bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng có nhiệm vụ quan trọng, có
tính chất quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn khác của quá trình tố
tụng. Tuy nhiên, không phải cứ phát hiện có dấu hiệu tội phạm rồi khởi tố vụ
án là cơ quan có thẩm quyền sẽ bảo vệ lợi ích của người bị hại một cách tốt
nhất. Trong thực tế, có những người bị hại chỉ bị thiệt hại về thể chất, có
người bị hại chỉ bị thiệt hại về tài sản, nhưng cũng có những người bị thiệt hại


21
cả về thể chất, tinh thần và tài sản. Đối với những thiệt hại về tài sản do tội
phạm gây ra thì có thể khôi phục được, còn đối với thiệt hại về tinh thần hoặc

thể chất thì chỉ có thể bù đắp được phần nào mà không thể khôi phục lại được
như cũ. Trong đó, thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không thể tính toán được
vì đó là những tổn thương vô hình, những sợ hãi hoặc ám ảnh mà người bị hại
không muốn nhắc lại và càng không muốn bị công khai. Đối với những
trường hợp này, cách tốt nhất là để cho người bị hại và người gây thiệt hại
chủ động giải quyết với nhau. Còn nếu người bị hại thật sự muốn người gây
thiệt hại phải bị pháp luật trừng phạt thì sẽ yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
khởi tố và giải quyết vụ án.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định
được quy định và áp dụng khá phổ biến trong pháp luật một số nước.
Khoản 2 Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định:
"Các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các điều 115, 116, khoản 1
Điều 129 và Điều 130 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga được coi là các vụ án
tư tố. Các vụ án này chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc đại
diện hợp pháp của họ". Còn Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự Trung Quốc
quy định: "Những vụ án hình sự do người bị hại tố cáo hoặc có tình tiết giảm
nhẹ sẽ do một thẩm phán điều hành việc xét xử". Như vậy, pháp luật Trung
Quốc cũng đã gián tiếp ghi nhận quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại.
Bên cạnh những quốc gia ghi nhận chế định khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại trong luật tố tụng hình sự thì có những quốc gia lại quy định yêu
cầu khởi tố của người bị hại là một yếu tố cấu thành tội phạm. Luật Hình sự
của Cộng hoà dân chủ Đức đã đưa việc yêu cầu khởi tố của người bị hại là
một yếu tố cấu thành tội phạm đối với một số tội như: vô ý gây thương tích,
xâm phạm tới sở hữu riêng, sử dụng xe không có giấy phép, xâm phạm sở
hữu giữa những người thân thuộc [33, tr. 128]. Hay Điều 22 Bộ luật Hình sự
của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cũng quy định: Chỉ bị coi là tội phạm khi


22
có đơn kiện của người bị hại. Nếu hành vi không nguy hiểm cho xã hội và nếu

người bị hại không có đơn kiện thì toà án sẽ không kết tội trong các trường
hợp: Xâm phạm thân thể giữa những người thân (nếu không gây thương tích
nặng hay gây thiệt hại về sức khoẻ), xâm phạm, vu khống, có hành vi thô bạo
đối với thi thể hay danh dự của người đã chết, xâm phạm tài sản của họ hàng
thân thiết, xâm phạm thô bạo đối với danh dự, bí mật riêng tư của gia đình, cá
nhân. Việc người bị hại rút đơn kiện sẽ chấm dứt quá trình tố tụng tại toà án.
Như vậy, dù được quy định trong luật tố tụng hình sự hay luật hình sự
thì chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại vẫn thể hiện sự quan
tâm của Nhà nước đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại,
thể hiện sự đồng cảm của xã hội đối với người đã là nạn nhân của tội phạm,
không muốn vì việc khởi tố, xử lý vụ án mà có thể ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của họ. Bên cạnh đó cũng tính tới tác dụng phòng ngừa tội phạm chung.
1.2.2. Đặc điểm của công tố, tƣ tố và vấn đề khởi tố theo yêu cầu
của ngƣời bị hại
Mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân người phạm tội do chính hành
vi phạm tội phát sinh ra. Bất kỳ nhà nước nào cũng phải sử dụng quyền công
tố để chống lại những hành vi gây nguy hại đến sự thống trị và những lợi ích
căn bản của giai cấp cầm quyền, đồng thời cũng là để nhân danh xã hội duy
trì trật tự công cộng.
Là một trong những nội dung của quyền tư pháp, quyền công tố luôn
luôn gắn liền với bản chất chính trị của từng kiểu nhà nước và được tổ chức
thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử. Trong xã hội phong
kiến, lúc đầu nhà vua hoặc các quan chức hành chính đảm nhiệm luôn quyền
tư pháp; về sau, quyền tư pháp được giao cho toà án, những quan toà thời đó
tượng trưng cho công lý, vừa có quyền điều tra, quyền truy tố và quyền xét xử
người phạm tội. Đến xã hội hiện đại, quyền tư pháp không còn tập trung vào
quan toà mà được phân công cho các cơ quan, trong đó quyền công tố - nhân


23

danh nhà nước đưa vụ án ra toà và buộc tội bị cáo - được giao cho cơ quan
thực hành quyền công tố. Như vậy, quyền công tố là quyền thay mặt Nhà
nước, nhân danh lợi ích công tiến hành điều tra, truy tố, buộc tội người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị coi là tội phạm và buộc người đó
phải chấp hành hình phạt để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Nói
cách khác, quyền công tố xuất hiện và tồn tại cùng với sự tiến bộ của xã hội
loài người; quyền đó ra đời và tồn tại cùng với quyền tư pháp, quyền lập
pháp, quyền hành pháp tại mỗi quốc gia.
Những nội dung cơ bản của quyền đó là: Điều tra xác minh vụ việc
khi có thông tin về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, quyền
quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyền đình chỉ vụ án, quyền truy
tố trước Toà án (tranh tụng tại phiên toà), quyền kháng nghị, đảm bảo thi hành
bản án, quyền quyết định áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật.
Như vậy, quyền công tố là nhân danh lợi ích công cộng, lợi ích Nhà
nước để phát giác, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật. Một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố,
tức là mọi hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và Nhà
nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng Hiến pháp, bằng
pháp luật và bằng cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi vi phạm pháp luật,
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị Nhà nước xử lý
nghiêm minh.
Tuy nhiên, trong thực tế không ít những trường hợp tội phạm xảy ra
đã gây thiệt hại cho người bị hại không chỉ về lợi ích vật chất mà cả về tinh
thần. Việc khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm người thực hiện tội
phạm trong các trường hợp này có thể lại gây thêm những tổn thất về tinh thần
cho người bị hại. Bởi vì, nếu không khởi tố vụ án để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người thực hiện tội phạm mà để cho người bị hại tự mình lựa chọn
cách giải quyết sao cho vừa được đền bù một phần những mất mát xảy ra, vừa

×