1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN THÁI
VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN THÁI
VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Khắc Hải
Hà nội - 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Thái
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
6
1.1.
Khái niệm và mục đích hình phạt tử hình
6
1.1.1.
Khái niệm hình phạt tử hình
6
1.1.2.
Mục đích hình phạt tử hình
10
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển luật hình sự Việt
Nam về hình phạt tử hình
11
1.2.1.
Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
12
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự
năm 2009
17
1.3.
Thực trạng về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay và xu
hướng quốc tế về hình phạt tử hình
20
1.3.1.
Thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay
20
1.3.2.
Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện nay
27
1.3.3.
Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình
28
5
Chương 2: CƠ SỞ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG CÁC
TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ
CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ Ở VIỆT NAM
34
2.1.
Cơ sở quyền con người và nguyên tắc nhân đạo trong pháp
luật hình sự
34
2.1.1.
Nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật Việt Nam
34
2.1.2.
Vấn đề quyền con người
37
2.1.3.
Vấn đề oan sai khi áp dụng - thi hành hình phạt tử hình
41
2.2.
Các cơ sở phòng ngừa tội phạm
48
2.2.1.
Mục đích của hình phạt tử hình
48
2.2.2.
Những nét đặc thù của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế và tội phạm về chức vụ
54
2.2.3.
Hệ thống hình phạt đang áp dụng đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ
60
2.2.4.
Các biện pháp phòng ngừa tội phạm ngoài hình phạt
61
2.3.
Cơ sở trách nhiệm nhà nước - xã hội và hội nhập quốc tế của
Việt Nam
62
2.3.1.
Nâng cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với quản lý
xã hội và người phạm tội
62
2.3.2.
Xu hướng hội nhập quốc tế của Việt Nam về loại bỏ hình phạt
tử hình
64
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ LOẠI BỎ HÌNH PHẠT
TỬ HÌNH TRONG CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN
LÝ KINH TẾ VÀ CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ
67
3.1.
Kiến nghị về hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình
sự
67
3.1.1.
Hình phạt chính
67
6
3.1.2.
Hình phạt bổ sung
71
3.2.
Kiến nghị về hoạt động áp dụng hình phạt tử hình
77
3.2.1.
Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt, có
thể áp dụng nhưng không tiến hành thi hành án
78
3.2.2.
Giữ quy định hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt,
nhưng không áp dụng
80
3.2.3.
Loại bỏ quy định hình phạt tử hình theo lộ trình đối với từng
tội danh và nhóm tội
80
3.3.
Một số kiến nghị khác
83
3.3.1.
Kiến nghị về hoạt động phòng ngừa tội phạm - trách nhiệm
của xã hội; phòng ngừa tội phạm từ góc nhìn tôn giáo và nâng
cao nhận thức pháp luật của nhân dân
83
3.3.2.
Kiến nghị về hoạt động kiểm tra, kiểm soát, luân chuyển trong
hoạt động công tác
89
3.3.3.
Kiến nghị về hoạt động thay thế hình phạt cùng khung hình
phạt qua quyết định của Hội đồng xét xử
91
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
PLHS
: Pháp luật hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Thống kê án và số bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình
trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội
phạm về chức vụ
27
1.2
Thống kế án tử hình tại một số nước trên thế giới từ năm
2007 đến năm 2012
32
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
1.1
Các quốc gia có số vụ hành quyết cao nhất trong năm 2009
31
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm ở
Việt Nam trong những năm qua và dự báo trong thời gian tiếp theo, ngày
02/06/2005 Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nêu rõ định hướng chính
sách hình sự của chúng ta: duy trì hình phạt tử hình nhưng "hạn chế áp dụng
hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng" [16]. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều
kiện của nước ta và xu hướng giảm dần tới mức tối đa áp dụng hình phạt tử
hình, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình là xu hướng chung thế giới.
Trước những quan tâm của quốc tế và thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Đảng, ngày 19/06/2009 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự (BLHS) 1999, trong đó đã loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi chế tài
của 08 tội danh đang được quy định và bổ sung 01 tội danh có khung hình
phạt cao nhất là tử hình (Điều 230a - Tội khủng bố). Theo đó, số tội danh còn
giữ lại hình phạt tử hình trên tổng số các tội danh tại Phần các tội phạm của
BLHS là 22/276 điều luật, chiếm tỷ lệ 7,97%.
Ngày 12/11/2013, Việt Nam trúng cử thành viên của Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc với số phiếu tán thành cao nhất trong số 14 nước cùng được
bỏ phiếu. Đáp ứng những yêu cầu của quốc tế và biến chuyển của đất nước, ngày
28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới, trong đó đề cao quyền con
người, quyền công dân khi chuyển từ Chương V Hiến pháp 1992 thành Chương II
của Hiến pháp 2013. Theo đó, những quyền cơ bản của con người được pháp
luật ghi nhận rất rõ và bảo hộ, cụ thể Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rõ: "Mọi người
có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ …" [40, Điều 19].
10
Với những thay đổi hiến định về quyền con người, kinh tế, xã hội …, ngày
15/03/2014 Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc
tổng kết thi hành BLHS năm 1999, tại đây các đại biểu đại diện Lãnh đạo Bộ,
Ngành, Ủy ban nhân dân đã có các ý kiến tham luận tổng kết và đề xuất, kiến
nghị sửa đổi, bổ sung BLHS, đặc biệt cùng có quan điểm: "Cần nghiên cứu
bỏ một số tội tử hình thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng,
Nhà nước và đáp ứng tính nhân đạo chung của thế giới" [6].
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết về lý luận khoa học và tổng hợp
thông tin thực tiễn nhằm bảo vệ quyền con người; thực tiễn công tác về phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm; truyền thống văn hóa nhân đạo của dân tộc;
yêu cầu thực thi những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và yêu
cầu hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHS Việt Nam, tại luận văn này,
tác giả đi sâu và nghiên cứu những cơ sở để loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi
nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ. Cụ
thể, với đề tài: "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua đã có rất nhiều
diễn đàn, hội thảo, công trình nghiên cứu về hình phạt tử hình, áp dụng và thi
hành hình phạt tử hình. Đề tài loại bỏ hình phạt tử hình cũng đã được bàn
luận, phân tích rất nhiều trong thời gian soạn thảo, lấy ý kiến đóng góp dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1999 như: Một số vấn đề về
hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình - thực trạng và giải pháp, Đề
tài khoa học cấp Bộ, do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2003; Hội thảo Việt Nam -
EU về án tử hình, Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Liên minh Châu Âu và Viện
Nhân quyền Đan Mạch đồng tổ chức năm 2004; Hình phạt tử hình trong luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Phạm Văn Beo, năm 2007; Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trần Thu Huyền, năm 2004; Hội thảo khoa học:
11
Vấn đề giới hạn hình phạt án tử hình trong một số tội phạm tại Việt Nam,
Viện Nhà nước và Pháp luật tổ chức năm 2008; Tờ trình số 155/TTr-CP ngày
09/10/2008 của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 1999 gửi tới Quốc hội; Hội thảo khoa học: Nhận thức tác động
của các quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội tổ chức năm 2011. Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS
năm 1999 do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp tham gia chỉ đạo.
Tuy nhiên, đa số các tài liệu này chỉ đề cập một cách khái quát, tổng kết lại
những vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình và kiến nghị, đề xuất loại bỏ
hình phạt tử hình đối với từng tội phạm riêng rẽ, mà chưa đưa ra được các cơ
sở, căn cứ toàn diện cho việc loại bỏ hình phạt tử hình nói chung, cũng như
loại bỏ tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm
về chức vụ nói riêng.
Chính vì vậy, việc chọn đề tài "Vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình
trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ"
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học là rất có ý nghĩa, có thể
phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học, cũng như công tác thực tiễn,
đáp ứng một phần yêu cầu của Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành BLHS
năm 1999 và tạo tiền đề lý luận cho hoạt động tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hình
phạt tử hình trong tương lai.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện
hình thành, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, xu hướng áp dụng hình phạt tử
hình của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đối với
các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ. Qua đó, đưa ra, phân tích tổng
thể những cơ sở có tính thuyết phục nhằm "loại bỏ hình phạt tử hình trong
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ".
12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực tiễn của "Vấn đề loại bỏ hình
phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về
chức vụ", luận văn sẽ đi sâu làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề chung về hình phạt tử hình;
thực trạng pháp luật về hình phạt tử hình và thực trạng áp dụng hình phạt tử
hình về các tội xâm phạm trật tử quản lý kinh tế và tội phạm về chức vụ tại
Việt Nam; Xu hướng quốc tế về hình phạt tử hình;
- Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc loại bỏ hình phạt
tử hình đối với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam;
- Phân tích một số kiến nghị về pháp luật, xây dựng bộ máy Nhà nước,
nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân khi loại bỏ hình phạt tử hình đối
với các tội phạm có tính chất kinh tế và chức vụ ở Việt Nam.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn có đối tượng và phạm vi
nghiên cứu là một số vấn đề lý luận chung về hình phạt tử hình, thực trạng
hình phạt tử hình tại Việt Nam và những cơ sở lý luận và thực tiễn để loại bỏ
hình phạt tử hình đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và
các tội phạm về chức vụ. Những vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở khoa
học pháp lý về pháp luật hình sự (PLHS), quy định của BLHS, các quan điểm
về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, cũng như thực tiễn áp dụng
hình phạt này tại Việt Nam trong mối tương quan với xu hướng chung của các
nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
13
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, suy luận lôgic v.v…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1. Về mặt khoa học
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu nhằm kiến nghị
loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra khỏi hai nhóm tội của BLHS.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm rõ thêm các
quan điểm lý luận khoa học về định hướng xóa bỏ hay không xóa hình phạt tử
hình trong hệ thống PLHS Việt Nam.
- Ngoài ra luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
cho việc nghiên cứu, học tập khoa học luật hình sự.
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nhưng ý kiến hữu ích trong
hoạt động lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta
hiện nay. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các luật
gia quan tâm đến những đề tài tương tự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt tử hình.
Chương 2: Cơ sở loại bỏ hình phạt tử hình trong các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị về vấn đề loại bỏ hình phạt tử hình trong
các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình
Tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ
hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là "death penalty" hay là "capital punishment".
Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên "peine de mort" hay còn gọi là "peine
capitale"; trong tiếng Đức nó có tên gọi là "todesstrafe". "Capital punishment"
có nguồn gốc từ capitalis (tiếng Latin) trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa
là đầu, là một hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu. Vì
thế, hình phạt tử hình lúc khởi thủy, ở phương Tây, người ta thường dùng để
chỉ hình phạt chém đầu. Còn theo Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung
Quốc, "tử" ở đây được hiểu là chết, "hình" là hình phạt tội, bao gồm chữ
"tỉnh" (giếng) và chữ "đao" (dao) ghép lại. Từ đó, có thể hiểu tử hình là hình
phạt giết chết bằng cách thả xuống giếng hoặc chém bằng đao. Theo Từ điển
tiếng Việt "tử hình" là "hình phạt phải chịu tội chết" [32].
Điều 35 BLHS 1999 quy định về hình phạt tử hình như sau:
Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhằm tước bỏ mạng sống của
người phạm tội. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang
nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không
thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển
thành tù chung thân. Trong trường hợp người bị kết án tử hình được
ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân [37].
15
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khoa học pháp lý thì tử
hình còn được hiểu là: "hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong tất cả các
loại hình phạt và chỉ được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhằm tước bỏ sinh mạng của người bị kết án về tội đặc biệt
nghiêm trọng theo quy định của pháp luật hình sự" [24], [9].
* Đặc điểm
Từ các định nghĩa về hình phạt tử hình trên đây, chúng ta có thể hiểu
hình phạt tử hình có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Là hình phạt nghiêm khắc nhất. Tử hình là hình phạt duy
nhất tước đoạt trực tiếp đối với quyền được sống của người bị kết án theo Bản
án có hiệu lực pháp luật. Do đó, hình phạt tử hình chỉ có tác dụng trừng trị,
răn đe và phòng ngừa, mà không thể giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội
bị thi hành hình phạt này. Hình phạt tử hình có vẻ như mâu thuẫn với nguyên
tắc nhân đạo - nguyên tắc xuyên suốt của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam
nhưng thực chất hình phạt này vẫn đáp ứng được tính nhân đạo, thể hiện ở
khía cạnh xã hội của nó, đó là tác dụng răn đe, phòng ngừa người khác phạm
tội. Nhưng, đối với chính người thực hiện hành vi tội phạm thì đại đa số ý
kiến vẫn cho rằng là vô nhân đạo, vi phạm quyền con người.
Thứ hai: Là hình phạt được quy định trong BLHS. Giống như các hình
phạt khác, tử hình là hình phạt được quy định trong BLHS - thể hiện tính hợp
pháp và pháp chế của loại hình phạt này. Việc quy định này, được thể hiện rõ
ở Điều 26 và Điều 35 BLHS hiện hành.
Đồng thời, hình phạt tử hình được quy định cụ thể tại mỗi điều luật,
tương ứng với mỗi tội danh có thể áp dụng như: Điều 78, khoản 1 - Tội phản
bội tổ quốc; Điều 79, khoản 1 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân, Điều 80, khoản 1- Tội gián điệp v.v
Thứ ba: Là hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng.
Đặc điểm này được quy định rõ ở Điều 26 BLHS 1999: "Hình phạt do Tòa án
16
quyết định" [37]. Ngoài Tòa án, không có bất cứ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nào khác được phép quyết định áp dụng hình phạt tử hình với người phạm
tội và chỉ khi Chủ tịch nước xem xét để ân xá cho người bị kết án tử hình theo
quy định của pháp luật thì người đó mới không phải chịu hình phạt này.
Thứ tư: Tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm hay khắc phục hậu quả
của người phạm tội. Khi một người bị áp dụng thi hành hình phạt tử hình thì
đương nhiên người này không thể tái phạm ở bất kỳ tình huống nào và bản
thân họ cũng không thể tự mình khắc phục đối với những hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng mà mình đã gây ra, mặc dù có thể họ đã rất hối hận và mong
muốn khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả đối với những trường hợp
này, thường được thực hiện trước khi thi hành hình phạt, thậm chí trước khi
Tòa án án tuyên án và thường được thân nhân của người bị kết án thực hiện
nhằm mục đích tạo tình tiết giảm nhẹ cho người thân của mình và cũng giảm
bớt mặc cảm tội lỗi cho người đã thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng.
* Bản chất
Trước hết, khi nghiên cứu hình phạt tử hình, tác giả nhận thấy hình
phạt tử hình mang bản chất giai cấp sâu sắc. Từ hình là một trong những hình
phạt có lịch sử phát triển lâu dài trong quá trình phát triển của xã hội có phân
chia giai cấp, tồn tại, đồng hành và phát triển cùng với sự phát triển của Nhà
nước và Pháp luật. Tử hình được sử dụng như một công cụ để đấu tranh với
các loại tội phạm khác nhau nhằm bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ hệ thống
chính trị của mỗi Nhà nước nhất định. Hình phạt tử hình tồn tại và phát triển
khách quan cùng với Pháp luật và Nhà nước qua mỗi thời kỳ lịch sử nhằm
bảo vệ, duy trì quyền lực của giai cấp thống trị trong xã hội. Điều này được
thể hiện ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp đều có một hệ thống hình
phạt tương ứng. Bản chất, nội dung và vai trò của hình phạt, của hệ thống
hình phạt nói chung, của từng hình phạt nói riêng do các điều kiện kinh tế,
17
chính trị, văn hóa, xã hội, hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống của hình thái kinh tế -
xã hội trong đó hình phạt tồn tại quyết định. Do đó, bản chất, nội dung và vai
trò của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng được thay đổi tùy
thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội, vào sự thay đổi trong
quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá của các giai cấp thống trị.
Dù hình phạt tử hình tồn tại trong xã hội nào đi nữa thì nó vẫn luôn
luôn phản ánh các quan điểm của giai cấp thống trị trong xã hội đó về các
biện pháp đấu tranh với tội phạm. Hình phạt tử hình bao giờ cũng xuất phát
và dựa trên các quan điểm thống trị cơ bản trong xã hội. Mặt khác, hình phạt
tử hình do các điều kiện xã hội, các quyền và lợi ích kinh tế, chính trị và các
lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định và phù hợp với các lợi ích đó.
Khi nói về hình phạt, C.Mác viết: "Hình phạt không phải là cái gì
khác là biện pháp tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm điều kiện tồn
tại của nó, không kể đó là những điều kiện tồn tại như thế nào" [28]. Như vậy,
C. Mác đã chỉ ra tính giai cấp sâu sắc của hình phạt, trong đó hình phạt tử
hình là một trong những công cụ của giai cấp thống trị được dùng để đấu
tranh với tội phạm. Tính giai cấp của hình phạt tử hình còn được thể hiện ở
chỗ nó bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Giai cấp nào, Nhà nước
nào quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng vì quyền và lợi ích của giai
cấp đó. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, hình phạt tử hình được quy định và
áp dụng là nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, dân tộc của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
Khác với Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN tiến hành đấu tranh với
tội phạm bằng nhiều phương thức, nhiều biện pháp khác nhau: kinh tế, văn
hóa, xã hội, tổ chức, giáo dục, pháp luật và kêu gọi rộng rãi quần chúng nhân
dân cùng tham gia đầu tranh, bảo vệ trật tự của pháp luật. Trong xã hội Việt
Nam hiện nay, hình phạt tử hình vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp
của chúng ta có nhiều điểm khác biệt với tính giai cấp của hình phạt tử hình
18
trong các xã hội bóc lột, cụ thể xã hội ta hình phạt tử hình được quy định để
bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.
1.1.2. Mục đích hình phạt tử hình
Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng là
một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về hình phạt. Trong lịch sử
nhân loại đã từng có những quan điểm, quan niệm khác nhau về bản chất, nội
dung và mục đích của hình phạt nói chung, của hình phạt tử hình nói riêng.
Chúng ta có thể chia các quan niệm, quan điểm đó thành hai loại. Loại thứ
nhất, coi hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng là công cụ trả thù
người phạm tội, đáp lại những hành vi vi phạm những quy tắc xử sự chung
của người phạm tội. Loại quan điểm thứ hai coi hình phạt nói chung, hình
phạt tử hình nói riêng là công cụ phòng ngừa tội phạm.
Quan điểm thứ nhất, hình phạt là biện pháp được Nhà nước cho phép
lấy oán trả oán, tương tự như giết người phải đền mạng, từ đó dẫn tới nỗi
khiếp sợ của người phạm tội đối với sự trả thù, sự trừng trị đối với họ, khiến
việc áp dụng các hình phạt cứng rắn trở lên rộng rãi như tử hình, tù chung
thân, tù có thời hạn dài. Điều này được thể hiện rất rõ trong lịch sử các chế
độ bóc lột qua các biện pháp nhục hình man rợ như tùng xẻo, voi dày, đóng
cọc vào ruột, đánh bằng trượng, tứ mã phanh thây, Quan niệm trên đã phai
dần qua các thời kỳ phát triển của xã hội và nhường chỗ cho những học
thuyết tiến bộ, nhân đạo hơn, khi các quan niệm này nhìn nhận hình phạt
như một trong những biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng
ngừa tội phạm (phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung). Quan niệm đó là
thành quả của sự phát triển vật chất và sự giải phóng về tinh thần của nhân
loại. Khoa học luật hình sự, PLHS nước ta đã dựa trên cơ sở vững chắc của
những thành tựu đó. Đồng thời đó cũng là nền tảng tư tưởng và lý luận cho
việc xây dựng quan niệm về mục đích của hình phạt, trong đó có mục đích
của hình phạt tử hình.
19
Mục đích của hình phạt tử hình là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà
nước mong muốn đạt được khi quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm
và áp dụng hình phạt tử hình đối với cá nhân người phạm tội. Đối với Nhà
nước ta, việc áp dụng hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng
không nhằm mục đích trừng trị là chủ yếu, mà nhằm mục đích ngăn ngừa
người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng) và ngăn ngừa người khác
phạm tội (phòng ngừa chung).
Nếu so sánh mối tương quan giữa mục đích phòng ngừa riêng và mục
đích phòng ngừa chung của hình phạt tử hình, thì cần phải khẳng định rằng
vai trò và chức năng chính của hình phạt tử hình là phòng ngừa riêng. Bởi lẽ
các nguyên tắc của luật hình sự như: pháp chế XHCN, bình đẳng trước pháp
luật, trách nhiệm cá nhân … không cho phép chúng ta lấy việc trừng trị người
này là phương tiện chính để răn đe người khác, mà chỉ nhằm mục đích tuyên
truyền, giáo dục và phổ biến rộng rãi trong xã hội về hậu quả của việc thực
hiện tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
Cùng với sự ra đời của Nhà nước, pháp luật xuất hiện là hiện tượng
mang tính tất yếu khách quan với hai đặc tính: Là một phạm trù chủ quan (ý
chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật) và nội dung của pháp luật
được xác định bởi phạm trù khách quan (các điều kiện kinh tế - xã hội). Nói
cách khác, pháp luật với ý nghĩa là nhân tố cơ bản của thượng tầng kiến trúc
luôn chịu sự tác động bởi điều kiện kinh tế - xã hội với vai trò là các yếu tố
của hạ tầng cơ sở. Điều đó lý giải tại sao trong tiến trình lập pháp hình sự Việt
Nam, các quy định về hình phạt tử hình mặc dù xuất hiện rất sớm, song mức
độ ghi nhận chúng là không giống nhau qua các thời kỳ lịch sử, thậm chí là có
sự khác nhau trên từng miền lãnh thổ trong cùng một thời kỳ lịch sử.
20
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trƣớc khi pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa tới sự ra đời của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở một trang sử mới cho lịch sử phát
triển dân tộc. Tuy nhiên, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm
chiếm nước ta một lần nữa và tiếp theo là sự nối gót của đế quốc Mỹ (năm
1954). Do đặc điểm lịch sử này, trước cuộc tổng tiến công nổi dậy Mùa xuân
năm 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Hệ thống PLHS ở hai miền vì vậy càng có sự khác biệt. Những quy
định về hình phạt tử hình không nằm ngoài sự thay đổi chung đó.
* Giai đoạn 1945 - 1954
Sau tháng 8/1945, Nhà nước công nông non trẻ đã tích cực tiến hành
hoạt động lập pháp hình sự, làm cơ sở để trấn áp bọn phản động, bảo vệ
những thành quả của cách mạng. Song song với các quy phạm pháp luật mới
được ban hành, Sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945 của Nhà nước cho phép
tạm thời giữ các luật lệ cũ (gồm Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và
Bộ hình luật Pháp tu chính) với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập
của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa".
Pháp luật hình sự trong giai đoạn này, chưa có văn bản nào chính thức
quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên có thể thấy rằng hình phạt bao
gồm hai loại là các hình phạt chính và các hình phạt phụ (hình phạt bổ sung).
Tử hình là một hình phạt chính, áp dụng đối với tội phạm có tính chất đặc biệt
nghiêm trọng. Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm
phạm đến an toàn Nhà nước, đối nội và đối ngoại. Sắc lệnh số 146-SL ngày
02/03/1948 quy định xử lý nghiêm khắc những người phạm tội gián điệp, tội
phản bội tổ quốc. Ngoài ra, đối với các tội phạm về bảo vệ đê điều, công trình
thủy nông nếu hậu quả gây ra là thiệt hại cho nhiều tỉnh (Điều 8 Sắc lệnh số
68-SL ngày 16/11/1949); tội đầu hàng quân địch nếu người đầu hàng là một
21
nhân viên thuộc cấp chỉ huy; tội thông với địch (Điều 7 Sắc lệnh số 163-SL
ngày 23/8/1946) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Cùng với hoạt động đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn tay sai
phản động, Nhà nước ta càng hết sức chú trọng việc giữ gìn trật tự an toàn xã
hội trong kháng chiến. Các hành vi cướp bóc, nhũng nhiễu dân chúng trong
khi có chiến sự đều bị Tòa án binh xử nặng như các tội gián điệp, tội phản
quốc và có thể bị tuyên đến án tử hình (Thông lệnh số 60-TT ngày 23/5/1947
của liên Bộ Quốc phòng - Tư pháp).
Hình thức thi hành án tử hình có những thay đổi quan trọng: theo
Thông tư số 498 P4 ngày 31/10/1946 của Bộ Tư pháp thì "cho thi hành án tử
hình từ nay dùng súng thay cho máy chém". Để đảm bảo thực hiện quyền
của người bị kết án, PLHS thời kỳ này cũng có quy định cho người bị kết án
có quyền gửi đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình. Thông tư số
335/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc báo cáo thỉnh thị các vụ án tử hình
có nêu: "Sau khi tòa án nhân dân đã tuyên án tử hình, phạm nhân vẫn có
quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân xá, ân giảm. Đơn xin ân xá, ân giảm
do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp. Bộ Tư
pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định" [47].
* Giai đoạn 1954 - 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia
cắt thành hai miền với hai chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Ở miền Bắc,
song song với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn phải thực hiện vai trò
của một "hậu phương lớn" để chi viện cho tiền tuyến Miền Nam và trở thành
căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước. Miền Nam tiếp tục tiến hành cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân nhằm giải phóng khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước. PLHS giai đoạn này cũng phải
góp phần thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng của hai miền.
22
Ở miền Bắc, pháp luật chưa có quy định riêng về hệ thống hình phạt.
Tử hình vẫn giữ vai trò là một hình phạt chính và được quy định trong nhiều
văn bản về PLHS.
Ngày 30/10/1967, Hồ Chủ tịch ký Lệnh số 117 công bố Pháp lệnh
trừng trị các tội phản cách mạng. Ngoài Điều 1 và Điều 2 quy định những
nguyên tắc về chính sách hình sự của Nhà nước ta, 15 điều luật còn lại được
mô tả rõ ràng, chặt chẽ với cấu thành tội phạm, các tội có áp dụng hình phạt
tử hình chiếm một tỷ lệ lớn (11/15 tội) như tội phản quốc (Điều 3); tội âm
mưu lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 4); tội gián điệp (Điều 5); tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ (Điều 6); tội bạo loạn (Điều 7) Pháp lệnh trừng trị
các tội phản cách mạng là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường chuyên
chính đối với những kẻ thù dân tộc và là một bước tiến về kỹ thuật lập pháp
hình sự Việt Nam.
Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng thời thông qua
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong đó, nhóm tội
xâm phạm chế độ sở hữu XHCN bị áp dụng hình phạt rất nghiêm khắc. Các
tội cướp tài sản XHCN (Điều 4); tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản
XHCN (Điều 6); tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 7); tội tham ô tài sản
XHCN (Điều 8) đều có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Điều 9 Luật số 18 ngày 14/7/1960 của Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND)
quy định thủ tục "duyệt lại" bản án tử hình để đảm bảo tính chính xác của
quyết định đó:
Các bản án tử hình phải được Hội đồng toàn thể thẩm phán
của Tòa án nhân dân tối cao duyệt lại trước khi thi hành. Phải có 2/3
tổng số thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao tham dự phiên họp
của Hội đồng và quá nửa tổng số thẩm phán tán thành thì quyết nghị
của Hội đồng mới có giá trị.
23
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền tham
dự phiên họp của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án nhân dân
tối cao. Nếu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không
đồng ý với quyết nghị của Hội đồng toàn thể thẩm phán của Tòa án
nhân dân tối cao thì báo cáo lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét [47].
Ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ra Chỉ thị số
07/TATC hướng dẫn nhiệm vụ của TAND về việc thi hành án tử hình, trong
đó quy định cụ thể nhiệm vụ của TAND tống đạt cho phạm nhân quyết định
của Hội đồng toàn thể thẩm phán, TAND duyệt án tử hình (trường hợp phạm
nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước
khi phạm nhân bị đem hành hình.
Ở miền Nam, trước năm 1972, các quy định của PLHS nhìn chung
không có sự thay đổi nhiều so với thời kỳ trước đó. Đến năm 1972, BLHS
mới của chế độ Việt Nam Cộng hòa được ban hành đã đóng góp những giá trị
nhất định, góp phần làm phong phú hơn hệ thống PLHS nước ta. Theo đó,
hình phạt gồm chính hình, phụ hình và bổ túc hình (Điều 20); Chính hình là:
Đại hình, tiểu hình và vi cảnh. Chính hình về đại hình theo thứ tự nặng nhẹ
gồm có: tử hình; khổ sai chung thân; phát lưu; khổ sai hữu hạn; biệt giam;
cấm cố (Điều 21). Tương tự như PLHS các giai đoạn trước, nhóm tội xâm
phạm an ninh quốc gia (tội gián điệp, tội phản nghịch, các tội quấy rối quốc
gia bằng cách gây nội chiến, dùng quân lực trái phép ) đều bị áp dụng hình
phạt tử hình. Ngoài ra, tội nhận hối lộ, tội cố sát càng bị trừng trị rất nghiêm
khắc với mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
Bộ luật hình sự năm 1972 có các điều luật quy định những trường hợp
khoan miễn và trường hợp giảm khinh (Điều 84 đến Điều 94, Chương thứ tư),
đồng thời quy định những trường hợp gia trọng - tái phạm (Điều 95 đến Điều 101,
Chương thứ năm). Đây là những trường hợp làm giảm nhẹ, hoặc tăng nặng
đáng kể trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
24
Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn: "Tội nhân bị án tử hình
sẽ bị giam trong lao thất cho đến lúc bị hành hình. Tử tội sẽ bị bắn" (Điều 22).
Kế thừa truyền thống nhân đạo, luật này càng quy định về việc hoãn thi hành
án tử hình đối với phụ nữ có thai: "Nếu nữ tội nhân bị án tử hình có thai thì
100 ngày sau khi sanh đẻ mới bị hành quyết" (đoạn 2 Điều 23). Ngoài ra để
giảm bớt thủ tục của cơ quan thi hành án, giảm chi phí của việc thi hành án,
đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của thân nhân người bị kết án, luật quy
định: "Tử thi kẻ bị hành quyết sẽ được giao trả cho gia quyến nếu có lời xin,
nhưng đám tang phải đơn giản và không có công chúng dự lễ" (Điều 24).
Có thể nói, luật hình sự Việt Nam qua 30 năm tồn tại và phát triển
(1945-1975) đã có những bước tiến bộ rất lớn về kỹ thuật lập pháp và góp
phần quan trọng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng. Những quy định về hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng
không ngừng được hoàn thiện, trở thành cơ sở để xây dựng BLHS sau này.
Tuy nhiên, do được quy định trong nhiều văn bản đơn hành, gây khó khăn
trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. Điểm hạn chế này đã được khắc
phục khi Nhà nước pháp điển hóa BLHS.
* Từ năm 1975 đến trước năm 1985
Với Đại thắng Mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử phát triển của dân tộc
ta. Đất nước được thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Năm 1976, sau khi thực hiện thắng lợi cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội
chung cho cả nước, Quốc hội đã họp kỳ thứ nhất và ra Nghị quyết giao cho
Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn pháp luật thống nhất trên
toàn quốc. Những văn bản PLHS trước đây được ban hành ở miền Bắc tiếp
tục có hiệu lực và áp dụng trong phạm vi cả nước.
Để đảm bảo vững chắc an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ở
nửa đất nước mới được giải phóng, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam
25
Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 13/5/1976 quy định các tội
phạm và hình phạt. Sắc luật bao gồm 4 chương, 12 điều quy định 7 loại tội
phạm. Trong đó tử hình vẫn được quy định là một hình phạt chính và là hình
phạt nghiêm khắc nhất. Ngày 27/5/1976, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra Quyết định số 29/QĐ/76 về việc trừng trị các tên tư sản mại
bản phạm tội lũng loạn, đầu cơ tích trữ, phá rối trị trường. Trong Quyết định
này có nêu: "án tử hình phải được trình lên Chủ tịch Hội đồng cố vấn để xét
duyệt trước khi thi hành".
Ngày 20/5/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh
trừng trị tội hối lộ. Nội dung Pháp lệnh cho thấy tinh thần đấu tranh kiên
quyết và triệt để đối với tội này. Mọi hình thức nhận hội lộ, đưa hối lộ, môi
giới hối lộ đều bị áp dụng chế tài rất nghiêm khắc. Trường hợp phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng có thể bị áp dụng hình phạt tử hình.
Như vậy, PLHS giai đoạn này vẫn tiếp tục phát huy vai trò quan trọng
của mình, phục vụ kịp thời các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước đề
ra. Sự ra đời của Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ và Pháp lệnh trừng trị các tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được xem như là tiền đề
cho việc xây dựng các quy định tương ứng trong BLHS năm 1985.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự năm 2009
* Từ năm 1985 đến trước năm 1999
Ngày 27/6/1985, Quốc hội thông qua BLHS đầu tiên của nước ta và
chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986, đã đánh dấu bước phát
triển mới trong tiến trình lập pháp hình sự Việt Nam. BLHS năm 1985 bao
gồm 280 điều, chia thành hai phần: Phần chung (71 điều) và Phần các tội
phạm (209 điều).
Với 13 điều luật (từ Điều 20 đến Điều 32), lần đầu tiên vấn đề hình
phạt và các chế định liên quan được quy định một cách có hệ thống, đầy đủ,