Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vị trí, vai trò và chức năng của Viện Kiểm Sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 122 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT





Lê thắng




V TR, VAI TRề V CHC NNG CA VIN
KIM ST TRONG GIAI ON XẫT X S THM
V N HèNH S




Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



Luận văn thạc sỹ luật học



H NI - 2012

2


Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. NguyÔn Ngäc ChÝ




Phản biện 1:




Phản biện 2:





Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 201….









Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC


Trang
Mở đầu

5
Chương 1:
Một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò và chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm.
13
1.1
Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm.
13
1.2
Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử hình
sự sơ thẩm.
20
1.3
Vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát trong các

mô hình tố tụng.
30
Chương 2:
quy định của Pháp luật việt nam và thực trạng về vai trò của
Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
42
2.1
Quy định của pháp luật Việt Nam (trước năm 2002) về vị
trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong giai đoạn hiện
nay.
42
2.2
Quy định của pháp luật hiện hành về vị trí, vai trò và
chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử hình
sự sơ thẩm.
60
2.3
Thực trạng về Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.
75
Chương 3:
Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm.
85
3.1
Căn cứ, yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và giải
pháp nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong giai đoạn hiện
nay.

85
3.2
Hoàn thiện pháp luật.
89
3.3
Các giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong
giai đoạn hiện nay.
101
Kết luận
112
Danh mục tài liệu tham khảo
114
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



5

BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa














6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định tại Điều 137 của Hiến pháp năm 1992 và tại Điều 1 Luật
tổ chức VKSND năm 1992, thì: VKSND tối cao thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phương, các VKS quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi
trách nhiệm do luật định.
Những năm vừa qua, mặc dù với số lượng cán bộ, KSV không nhiều
(13.743 người, trong đó số cán bộ công chức có trình độ cử nhân luật trở lên
chiếm 91%, với số lượng KSV là 8588 người và được phân bố ở rất nhiều
khâu công tác), số lượng công việc lớn (chỉ tính trong 5 năm, từ năm 2005
đến năm 2010, toàn ngành Kiểm sát đã thụ lý thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra 333.071 vụ án và đã truy tố 253.694 vụ), chất lượng truy tố
được nâng lên rõ rệt; số bị can bị khởi tố, truy tố oan giảm nhiều; tỷ lệ bắt giữ
chuyển khởi tố hình sự đạt trên 96%, qua đó góp phần bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, trật tự trị an xã hội được ổn
định.

Tuy nhiên, trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp vẫn còn bộ lộ những hạn chế nhất định: Tiến độ điều tra, xử lý
tội phạm còn chậm. Vẫn còn những vụ án có thiếu sót trong việc thu thập
chứng cứ (như hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng …)
dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng, hồ
sơ phải trả để điều tra bổ sung nhiều lần, kéo dài thời hạn giải quyết vụ án,
hoặc thậm chí không đủ căn cứ để kết tội, phải đình chỉ. Trong năm 2006, số


7
vụ án VKS phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ 5,8% so với tổng số
vụ án đã xử lý. Các năm sau đó, tỷ lệ hồ sơ phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung
tuy có giảm những vẫn ở mức cao, năm 2009 là 3,5% và 6 tháng đầu năm
2010 là 3,06%. Số bị can bị khởi tố, truy tố oan tuy đã giảm nhiều những vẫn
còn phải đáng quan tâm: Năm 2006, cơ quan điều tra và VKS đã đình chỉ điều
tra do hành vi không cấu thành tội phạm hoặc do hết thời hạn điều tra mà
không chứng minh được tội phạm đối với 198 bị can; năm 2009 là 104 bị can
và trong 6 tháng năm 2010 là 49 bị can. Trong số các bị can mà VKS đã truy
tố, năm 2006, tòa sơ thẩm đã tuyên bị cáo không phạm tội đối với 36 bị cáo;
năm 2009 là 29 bị cáo và trong 6 tháng năm 2010 là 11 bị cáo. Việc phát hiện,
xử lý sai phạm trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm chưa kịp thời, triệt để.
Kỹ năng thực hành quyền công tố và chất lượng kiểm sát xét xử của một bộ
phận KSV chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; việc xét hỏi của một số
KSV tại phiên tòa có lúc còn chưa thực sự sắc bén, lập luận chưa chặt chẽ và
vì vậy việc buộc tội đôi khi thiếu tính thuyết phục. Việc tranh tụng của KSV
với luật sư và những người tham gia tố tụng vẫn còn mang tính hình thức,
chưa tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi.
Trước yêu cầu của tình hình mới, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực
cao cũng như tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền, các cơ quan Tư pháp
nói chung, trong đó có VKSND nói riêng cũng cần phải tự hoàn thiện để
không ngừng nâng cao hiệu các quả hoạt động thực hiện chức năng của mình,
qua đó nhằm bảo vệ tốt hơn nữa các quyền tự do, dân chủ và các lợi ích hợp


8
pháp của công dân nói riêng cũng như bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa nói chung, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Do đó, việc phải nâng cao chất lượng
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là một
đòi hỏi vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài. Và, đối với VKSND
các cấp, một trong những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
mình chính là cần phải làm tốt hơn nữa chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự.
Trong các giai đoạn của TTHS, xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn
trung tâm, bởi lẽ: Tất cả các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ
quan điều tra, nhằm mục đích chứng minh tội phạm và hành vi của người
phạm tội cũng là để phục vụ cho việc xét xử; quyết định truy tố của VKS suy
cho cùng cũng chỉ là cơ sở để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, còn việc
phán quyết về sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo thuộc chức năng của Tòa
án; Với việc ra bản án và các quyết định của Tòa án, đây là căn cứ để tiến
hành hoạt động thi hành án, để việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội của các cơ quan tiến hành tố tụng phát huy trên thực tế, đạt
được mục đích cuối cùng của quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự.
Do đó, để làm tốt hơn nữa chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có việc

nâng cao vị trí và vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, sách,
các công trình nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của VKS nói chung cũng
như công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
riêng, và cũng có đề cập đến vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử


9
hình sự, đã được công bố như: “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm" của tác giả
Dương Thanh Biểu, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; "Bàn về vai trò của Kiểm
sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" của tác giả Trịnh Duy
Tám, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số tháng 4/2006; "Một số giải pháp để nâng
cao chất lượng hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
hình sự" của tác giả Nguyễn Hiển Khanh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
tháng 12/2006; "Vai trò của Luật sư và vấn đề tranh tụng trong hoạt động tư
pháp" của tác giả Nguyễn Văn Tuân, đăng trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư
pháp; "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân" của tác giả Trần
Thế Vượng, Phó chủ nhiệm ủy ban pháp luật Quốc hội; Luận văn thạc sỹ Luật
học của Tôn Thiện Phương: "Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án
hình sự", Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002; Luận văn thạc sỹ
Luật học của Nguyễn Chí Dũng: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
của VKSND thành phố Hà Nội", Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2003; Luận văn thạc sỹ Luật học của Phương Lan: "Tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự của
VKSND cấp huyện ở Hà Nội", Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2004; Luận án tiến sỹ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa: "Quyền công tố ở Việt
Nam", Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, năm 2002…

Tuy nhiên, trong tình hình mới, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị, xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong
tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một trong những nội dung quan trọng
của việc sửa đổi Hiến pháp, là đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà


10
nước - trong đó có VKS, hiện đang có rất nhiều quan điểm của các học giả về
chức năng, vị trí và vai trò của VKS, như: Nó nằm ở nhánh quyền lực nào
trong bộ máy Nhà nước? VKS thực hiện chức năng kiểm sát xét xử có phải là
VKS đứng trên Tòa án hay không? và nó có làm mất đi tính độc lập trong xét
xử của HĐXX hay không? … . Vì vậy, nhằm làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận
cũng như thực tiễn chức năng, vị trí và vai trò của VKS trong việc xét xử các
vụ án hình sự cũng như nhằm cập nhật những quan điểm mới trong tình hình
hiện nay về VKS, tác giả chọn đề tài: "Vị trí, vai trò và chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" làm luận văn thạc sỹ,
chuyên ngành luật hình sự, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của VKS trong một giai đoạn tố tụng cụ thể, đó là giai đoạn xét
xử hình sự sơ thẩm.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của bản luận văn này là nhằm làm sáng tỏ chức năng, vị trí và
vau trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, trên cả phương diện
căn cứ pháp luật cũng như hoạt động thực tiễn, qua đó thấy được những ưu
điểm cũng như những hạn chế, để đề ra được các giải pháp nhằm phát huy
những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, nâng cao được hiệu quả hoạt động
của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, đồng thời nâng cao được vị

trí, vai trò của VKS trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp nói chung, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp và đòi
hỏi của công cuộc đổi mới và hoàn thiện hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò và chức năng của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.


11
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực trạng vị trí, vai trò và chức
năng của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm (thông qua các số liệu
thực tế từ các báo cáo tổng kết công tác trong các năm 2006 - 2010 của
VKSND thành phố Hà Nội).
- Đề xuất những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật (Hiến pháp, Luật tố tụng hình sự; Luật hình sự ) cũng như đề xuất
các quan điểm, phương hướng và giải pháp (như về bộ máy làm việc, điều
kiện công tác, cơ chế phối hợp, công tác cán bộ, chế độ đãi ngộ đối với các
kiểm sát viên ) nhằm nâng cao vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm, đáp ứng với tinh thần của công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề mang
tính lý luận chung về vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm,
đồng thời đi sâu nghiên cứu những quy định pháp lý hiện hành có liên quan
đến vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm.
- Thực trạng về VKS, luận văn giới hạn phân tích các số liệu thực tế
của VKSND thành phố Hà Nội về hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử
hình sự sơ thẩm để minh hoạ cho những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

Để tiếp cận nghiên cứu vấn đề, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; kết hợp với
tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện bộ máy Nhà nước cũng như Pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề
tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của các khoa học


12
chuyên ngành như: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, để
làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn:
Với các nghiên cứu có tính chất tương đối toàn diện và có hệ thống, các
kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận
cũng như cơ sở thực tiễn, và thực trạng của hoật động thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Ngành Kiểm sát Hà Nội trong giai đoạn
xét xử hình sự sơ thẩm, qua đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Các kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
Kiểm sát viên hai cấp (cấp tỉnh và cấp huyện) trong công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại phiên toà xét xử hình sự sơ
thẩm.

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương với 8 tiết.












13





14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ
THẨM

1.1 Vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
1.1.1 Vị trí của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
a) Nói đến vị trí của VKS là nói đến chỗ đứng của nó trong bộ máynhà
nước, trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước nói chung,
trong đó có VKS nói riêng, đều có một vị trí nhất định của mình và vị trí này
do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể quyết định.
Để xác định vị trí của VKS trong bộ máy nhà nước, trước hết, chúng ta
cần tìm hiểu sơ lược về lịch sử hình thành của nó.
Nghiên cứu về lịch sử hình thành nhà nước và pháp luật của các nước
trên thế giới, có thể thấy các cơ quan được giao thực hiện quyền công tố
(quyền nhân danh nhà nước cáo buộc người phạm tội trước tòa án) xuất hiện
khá muộn và gắn với quá trình thực hiện sự phân chia quyền lực nhà nước.

Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, kể từ khi có giai cấp,
có thể thấy: Thời kỳ đầu, Nhà nước sơ khai, bộ máy Nhà nước còn đơn giản
và hệ thống Pháp luật mới hình thành, quyền công tố chỉ được sử dụng trong
một phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và chưa có một cơ
quan riêng biệt để thực hiện quyền công tố. Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ,
việc phân chia quyền lực nhà nước chưa rõ ràng, chưa có sự phân định giữa
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Đến cuối thời kỳ chiếm hữu


15
nô lệ, Nhà nước La Mã cổ đại mới thành lập cơ quan xét xử tách ra khỏi cơ
quan hành pháp.
Trong Nhà nước Phong kiến, việc phân định chức năng nhà nước giữa
các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng
chuyên môn hoá. Ở chế độ phong kiến Tây Âu, quyền tư pháp nằm trong tay
nhà Vua, Lãnh chúa và Giáo hội. Vào thế kỷ XVII - XIX, cùng với quá trình
xác lập Nhà nước trung ương tập quyền, các Toà án của nhà Vua ngày càng
có quyền lực lớn, đã hạn chế sự lũng loạn của các Lãnh chúa. Viện công tố
lần lượt ra đời, đầu tiên xuất hiện ở Pháp (1285 - 1314), Uỷ viên công tố đứng
bên cạnh Toà án để bảo vệ quyền lợi của nhà Vua cũng như bảo vệ lợi ích
quốc gia. Một thời gian sau đó, vào thế kỷ XVI - XVII, Viện công tố được
thành lập ở nhiều nước Châu Âu, như: Italia, Hà Lan, Đức, Nga
Nhờ các cuộc cách mạng chính trị, giai cấp tư sản trở thành giai cấp
thống trị, đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến và Nhà nước phong kiến,
Nhà nước tư sản ra đời. Trong Nhà nước tư sản, việc thực hiện quyền lực nhà
nước đã có sự tách bạch rõ ràng, quyền tư pháp từng bước được hoàn thiện,
vai trò của Toà án ngày càng được đề cao; Viện công tố trở thành người đại
diện cho quyền lợi công cộng để đưa vụ án ra Toà án nhằm bảo vệ lợi ích Nhà
nước và bảo đảm sự tuân thủ trật tự công cộng. Trong lĩnh vực hình sự, vai trò

của công tố luôn luôn là một bên trong vụ án, nhân danh Nhà nước để cáo
buộc người phạm tội.
Căn cứ vào vị trí của cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước tư sản, có
thể thấy, về cơ bản, có hai nhóm sau:
- Nhóm thứ nhất: Là các nước mà ở đó, VKS (hay cơ quan công tố)
nằm trong tổ chức của Bộ Tư pháp, điển hình như các nước Mỹ, Pháp, Bỉ,
Nhật …


16
- Nhóm thứ hai: Là các nước mà ở đó, VKS (hay cơ quan công tố) nằm
trong thành phần của hệ thống tư pháp, được đặt tại các tòa án, nhưng hoàn
toàn độc lập với tòa án về mặt chức năng, như tại các nước Tây Ban Nha,
Bungary, Columbia …
Còn ở Việt Nam, tuy cũng có một vị trí độc lập (tương đối) trong bộ
máy nhà nước như cơ quan công tố trong bộ máy nhà nước tư sản, song một
trong những điểm khác biệt lớn nhất của cơ quan VKS so với cơ quan công tố
trong bộ máy nhà nước tư sản lại là ở vị trí của nó, đó là việc nó chỉ phụ thuộc
trực tiếp và duy nhất vào một cơ quan, đó là Quốc hội - cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất.
Sự ra đời của hệ thống cơ quan VKSND ở Việt Nam (với tư cách là
một hệ thống cơ quan riêng biệt, trực thuộc Quốc hội) được khởi đầu bằng
việc ban hành Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Việc
thành lập VKSND ở nước ta (cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây), là sự áp dụng tư tưởng của V. I. Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS
được trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp
chế" vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Theo Lê Nin, pháp chế thì phải thống nhất. Pháp chế không thống nhất
thì không thể nào tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể
bảo vệ và củng cố được chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ

nhất, trực tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là
bệnh cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một
cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập VKS.
Và, VKS "có quyền và bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi, tức là: làm
thế nào cho trong toàn nước cộng hoà có một sự nhận thức thật sự nhất trí về
pháp chế, dù là ở các địa phương có những đặc điểm và những ảnh hưởng
như thế nào chăng nữa".


17
Có thể nói rằng, những tư tưởng của Lê nin về cơ quan VKS trình bày
trong tác phẩm này đã trở thành cơ sở lý luận cơ bản cho việc xây dựng hệ
thống VKS ở các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) và ở nước ta từ năm
1960.
Như vậy, cơ quan công tố (VKS) là một trong các cơ quan thuộc bộ
máy nhà nước. Tùy theo đặc điểm của từng quốc gia, ở những thời kỳ khác
nhau mà cơ quan công tố có vị trí khác nhau trong hệ thống các cơ quan nhà
nước. Có thể thấy những dạng chủ yếu sau:
- Cơ quan công tố thuộc Tòa án (cơ quan tư pháp).
- Cơ quan công tố thuộc Chính phủ (cơ quan hành pháp).
- Cơ quan công tố (VKS) thuộc Quốc hội (cơ quan lập pháp).
Vị trí này được thể hiện rõ hơn trong mối quan hệ với các cơ quan nhà
nước khác, đặc biệt là với các cơ quan tiến hành tố tụng.
b) Để thực hiện được tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình thì VKS
phải thực hiện những hoạt động nhất định và có mối quan hệ mật thiết với các
cơ quan hữu quan, trong đó, đặc biệt phải kể đến là các cơ quan tiến hành tố
tụng, bao gồm Tòa án và Cơ quan điều tra cùng cấp.
Trong mối quan hệ giữa VKS với Cơ quan điều tra, có thể thấy, đây
không chỉ là mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước nhằm thực hiện
chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan, mà đây còn là mối quan hệ

mang tính chất chỉ đạo - phục tùng. Bởi lẽ, VKS không chỉ có quyền mà còn
có trách nhiệm chỉ đạo hoạt động điều tra vụ án của chính Cơ quan điều tra.
Trên cơ sở kết quả cuộc điều tra (được thể hiện qua Bản kết luận điều tra,
trong đó cơ quan điều tra đề nghị truy tố đối với bị can về một hoặc nhiều tội
danh theo quy định của Bộ luật hình sự), VKS ra bản cáo trạng truy tố đối với
bị can đồng thời chuyển hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng đến Tòa án và đến
đây, mối quan hệ giữa VKS với Cơ quan điều tra đã chấm dứt. Một mối qua


18
hệ mới mang tính chủ đạo được phát sinh, đó là mối quan hệ giữa VKS với
Tòa án.
Tòa án, theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như trên thế giới, là
cơ quan duy nhất có thẩm quyền nhân danh nhà nước để xét xử đối với các
hành vi phạm tội và người đã thực hiện tội phạm, bị truy tố bằng một quyết
định truy tố của VKS.
Có thể thấy, bằng quyết định truy tố của VKS (thể hiện tại bản cáo
trạng) đã làm phát sinh, làm khởi động một giai đoạn tố tụng mới, đó chính là
giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án. Nếu như không có quyết định
truy tố của VKS thì sẽ không có hoạt động xét xử của Tòa án. Và ngược lại,
nếu không có hoạt động xét xử của Tòa án thì việc truy tố của VKS trở nên vô
nghĩa. Hơn thế nữa, VKS còn có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp,
mà cụ thể ở đây là kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm góp phần đảm
bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật.
Như vậy, mối quan hệ giữa VKS và Tòa án là mối quan hệ hữu cơ, ràng buộc
và chế ước lẫn nhau.
c) Xét xử hình sự sơ thẩm là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự,
bởi lẽ: Phiên toà hình sự sơ thẩm là nơi vụ án lần đầu tiên được đưa ra xét xử
công khai (trừ các trường hợp phải xử kín theo quy định của pháp luật). Ở các
giai đoạn tố tụng trước đó (giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra và giai đoạn

truy tố), mặc dù theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các hoạt động
TTHS đều được tiến hành một cách công khai. Tuy nhiên, sự tham gia của
bên gỡ tội vào các hoạt động tố tụng này là rất hạn chế (mặc dù đã có các quy
định của pháp luật để người bào chữa có thể được tham gia tố tụng từ khi có
quyết định tạm giữ hình sự, nhưng vì nhiều lý do, kể cả chủ quan - từ phía gỡ
tội, cũng như khách quan - từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, nên rất hiếm
có trường hợp nào mà người bào chữa có thể tham gia tố tụng ngay từ gia


19
đoạn này). Chỉ đến giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, hay nói chính xác hơn là
chỉ đến phiên tòa sơ thẩm, mới có sự tham dự đầy đủ nhất và đồng thời nhất
của các chủ thể thực hiện các chức năng của TTHS (chức năng buộc tội, chức
năng gỡ tội và chức năng xét xử) với mục đích là nhằm làm sáng tỏ sự thật
khách quan.
Phiên toà hình sự sơ thẩm là nơi các bên thực hiện chức năng tố tụng
của mình theo quy định của pháp luật một cách công khai và đầy đủ nhất. Tại
đây, KSV là người đại diện cho VKS, thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, thực hiện chức năng buộc tội bị cáo tại phiên tòa. Còn
bị cáo và người bào chữa của mình thực hiện chức năng gỡ tội cũng như bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Còn Tòa án, với chức năng xét
xử của mình, là người sẽ ra phán quyết cuối cùng để kết luận bị cáo có phạm
tội hay không cũng như xem xét tất cả các vấn đề có liên quan để đảm bảo
giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Vị trí của VKS được thể hiện tập trung và rõ nét nhất trong giai đoạn
này. Bởi lẽ, với tư cách là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố -
tức là thực hiện các quyền năng pháp lý được nhà nước trao, cùng với việc đã
thực hiện việc kiểm sát điều tra trước đó, VKS có trách nhiệm có mặt tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm để thay mặt nhà nước tiến hành buộc tội đối với bị
cáo, là một trong những căn cứ làm phát sinh quyền xét xử của tòa án cũng

như bắt đầu quá trình áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khi
bản án đã tuyên của tòa án có hiệu lực pháp luật thi hành.
Hơn nữa, ngoài chức năng thực hành quyền công tố, VKS còn có trách
nhiệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp " mà một trong những đối tượng của
hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp chính là hoạt động xét xử của tòa án
- nói các khác, đó chính là hoạt động chấp hành pháp luật tố tụng hình sự của
những người tiến hành tố tụng, bao gồm Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và


20
Thư ký tòa án. Vì vậy, bên cạnh Tòa án thì VKS cũng có vị trí quan trọng
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Vị trí đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Là cơ quan thực hành quyền công tố và bằng quyết định truy tố của
mình làm phát sinh hoạt động xét xử của Tòa án, nên VKS có vị trí không thể
thiếu trong giai đoạn xét xử hình sự.
- Là cơ quan buộc tội, nên VKS phải kiểm tra lại các tài liệu, chứng cứ
mà Cơ quan điều tra đã thu thập, tranh tụng với bên gỡ tội (bị cáo, người bào
chữa), đưa ra các căn cứ, luận điểm để chứng minh, bảo vệ quan điểm buộc
tội đối với bị cáo trước Tòa án.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy vị trí của VKS trong giai đoạn
xét xử hình sự sơ thẩm như sau: VKS là cơ quan nhà nước được Quốc hội
thành lập và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, là một trong
những cơ quan tiến hành tố tụng, có trách nhiệm thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước tòa án
và kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội
đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội.

1.1.2 Vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm

Như đã đề cập ở trên, chính từ vị trí của VKS trong bộ máy nhà nước
nói chung, cũng như trong tố tụng hình sự nói riêng, mà cụ thể ở đây là tại
giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, đã quyết định đến vai trò của VKS quá trình
thực hiện quyền lực nhà nước nói chung cũng như thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm nói
riêng. Nói đến vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm là
muốn nói đến tổng hợp các quy định, những hoạt động, quyền và trách nhiệm


21
của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm, các quy định, những hoạt
động, quyền và trách nhiệm này gắn liền với vị trí của VKS trong tố tụng hình
sự.
Và với vị trí là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng, có trách
nhiệm thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố
người phạm tội ra trước Tòa án và kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án, nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, chúng ta có thể thấy
VKS có một vai trò rất quan trọng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Một là, cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác, VKS có trách
nhiệm đấu tranh, xử lý tội phạm, "bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội”. Đồng thời, thông qua các hoạt động nghiệp vụ
của mình, VKS cũng có trách nhiệm kịp thời phát hiện ra các nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm, qua đó kiến nghị với các cơ quan nhà nước có liên
quan triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm. Đây cũng chính là
một trong các nội dung của công tác phòng ngừa tội phạm.

Hai là, thông qua các hoạt động chỉ đạo, giám sát điều tra; truy tố và
buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa, hoạt động của VKS góp phần bảo vệ
pháp chế, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, qua đó tăng
cường ổn định trật tự xã hội. Bởi lẽ, chỉ trên cơ sở các hành vi vi phạm và tội
phạm được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh, trật tự của
luật pháp được đảm bảo, quyền con người được bảo vệ thì xã hội mới có thể
ổn định và phát triển được.


22
Ba là, bằng các hoạt động thực hiện chức năng của mình, VKS góp
phần bảo vệ quyền con người, đặc biệt là các quyền hợp pháp của bị can, bị
cáo không bị pháp luật tước bỏ. Bởi lẽ, mặc dù bị can, bị cáo là những người
đã thực hiện hành vi phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có thể họ bị
hạn chế một số quyền công dân (như quyền tự do đi lại, quyền bầu cử …)
nhưng các quyền hợp pháp khác của họ, không bị pháp luật tước bỏ (quyền
bào chữa, quyền không buộc phải chứng minh là mình vô tội …) phải được
tôn trọng và VKS là thiết chế góp phần bảo đảm cho các quyền này được thực
hiện.
Bốn là, thông qua hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, đối với người Việt Nam
phạm tội ở nước ngoài, cũng như đối với các tổ chức tội phạm hoạt động
phạm tội xuyên quốc gia, hoạt động của VKS góp phần thực hiện công tác
tương trợ tư pháp về hình sự; tăng cường sự phối giữa các cơ quan có trách
nhiệm đấu tranh, phòng chống tội phạm của các quốc gia, qua đó góp phần
thúc đẩy công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tăng
cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống tội phạm.
Năm là, thông qua các hoạt động tiễn nhằm thực hiện chức năng của
mình, VKS góp phần vào công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhất là
pháp luật tố tụng hình sự và luật tổ chức VKSND.

Như vậy, có thể thấy vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự
sơ thẩm là một trong những công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm
pháp luật, góp phần bảo vệ công lý cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo môi
trường ổn định cho sự phát triển kinh tế cũng như xây dựng, bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tăng cường hợp tác quốc tế.


23

1.2 Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
1.2.1 Khái niệm về chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ
thẩm
Chức năng của một cơ quan (hay một hệ thống cơ quan) chính là
phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan (hay hệ thống cơ quan) nhằm
thực hiện những nhiệm vụ đã được đặt ra đối với nó.
Mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều có một vị trí, vai trò nhất
định, không cơ quan nào có thể làm thay được nhiệm vụ của cơ quan khác, và
vì vậy, đó cũng chính là lý do để nó tồn tại. Và vị trí, vai trò này sẽ quyết định
đến chức năng của mỗi cơ quan.
Việc thành lập VKSND ở nước ta (cũng như ở các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây), thay cho Viện công tố, là sự áp dụng tư tưởng của V. I.
Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS được trình bày trong tác phẩm "Bàn
về chế độ trực thuộc song trùng và pháp chế" vào điều kiện cụ thể của nước
ta. Có thể nói rằng, những tư tưởng của Lê nin về cơ quan VKS trình bày
trong tác phẩm này đã trở thành cơ sở lý luận cơ bản cho việc xây dựng hệ
thống VKS ở các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) và ở nước ta từ năm
1960.
Theo Lê nin, pháp chế thì phải thống nhất. Pháp chế không thống nhất

thì không thể nào tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể
bảo vệ và củng cố được chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ
nhất, trực tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là
bệnh cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một
cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập VKS.
Và, VKS "có quyền và bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi, tức là: làm


24
thế nào cho trong toàn nước cộng hoà có một sự nhận thức thật sự nhất trí về
pháp chế, dù là ở các địa phương có những đặc điểm và những ảnh hưởng
như thế nào chăng nữa".
Về mặt tổ chức và hoạt động của VKS, theo quan điểm của Lê nin, để
cơ quan này có đủ điều kiện thực hiện quyền và làm tròn bổn phận nêu trên,
phải bác bỏ chế độ trực thuộc "song trùng". Phải quy định cho VKS địa
phương chỉ phụ thuộc vào Trung ương và để cho VKS có quyền và bổn phận
kháng nghị đối với bất kỳ quyết định nào của các cơ quan chính quyền địa
phương về phương diện pháp chế của các nghị quyết và quyết định đó, nhưng
không có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết và quyết định đó, mà
chỉ có quyền đưa các vụ án ra trước Toà án.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới,
quán triệt tư tưởng của Lê nin về VKS, theo quy định từ Hiến pháp năm 1959
đến nay, thì VKS là một cơ quan của bộ máy nhà nước, được tổ chức tập
trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương, do Quốc hội - cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Hệ thống VKSND được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
và hoạt động theo chế độ thủ trưởng chế: VKSND do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp

trên. Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng VKS quân sự các cấp
chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
Cũng theo các quy định của pháp luật từ năm 1960 đến nay thì VKS
luôn có hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.


25
Như vậy, chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm là
phương diện hoạt động chủ yếu của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ
thẩm nhằm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp
thời, việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

1.2.2 Chức năng công tố trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm
a. Khái niệm công tố và chức năng công tố
Khái niệm công tố: Công tố là một từ ghép Hán - Việt được ghép bởi
hai từ đơn là “công” và “tố”. Theo từ điển Tiếng Việt thì “tố” có nghĩa là “nói
công khai cho mọi người biết việc làm sai trái, phạm pháp của người khác;
Còn “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, chung cho mọi người, khác với
tư”.
Xuất phát từ thực tiễn, có thể hiểu: Công tố chính là sự cáo buộc của
Nhà nước đối với người đã có hành vi vi phạm pháp luật trước Toà án. Vì
vậy, rõ ràng rằng: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý xuất hiện cùng với
sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các
Nhà nước, từ Nhà nước chiếm hữu nô lệ đến Nhà nước hiện đại. Quyền công
tố luôn luôn là một bộ phận cấu thành của quyền lực Nhà nước và nằm trong
nhánh quyền Tư pháp.
Kể từ khi xuất hiện Nhà nước và thứ quyền lực Nhà nước hiện diện

trong xã hội, Nhà nước luôn có cách thức như là một phản xạ tự nhiên là tự
bảo vệ để duy trì sự tồn tại của mình và đảm bảo trật tự xã hội. Đó là xử lý
những người có hành vi chống lại nhà nước, trấn áp những kẻ vi phạm pháp
luật bằng bạo lực với lý do họ vi phạm pháp luật, gây phương hại trước hết


26
đến sự tồn vong của một chế độ nào đó. Và như một lẽ tự nhiên, muốn xử lý
ai đó thì bắt buộc phải có sự buộc tội.
Quyền công tố luôn gắn liền với bản chất Nhà nước và vì vậy, nó cũng
gắn liền với cách thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, đồng thời phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, kể từ khi có giai cấp,
có thể thấy: Thời kỳ đầu, Nhà nước sơ khai, bộ máy Nhà nước còn đơn giản
và hệ thống Pháp luật mới hình thành, quyền công tố chỉ được sử dụng trong
một phạm vi hẹp để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và chưa có một cơ
quan riêng biệt để thực hiện quyền công tố. Trong Nhà nước chiếm hữu nô lệ,
việc phân chia quyền lực nhà nước chưa rõ ràng, chưa có sự phân định giữa
quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án thông thường chỉ do một quan án đảm nhiệm. Đến cuối thời kỳ chiếm hữu
nô lệ, Nhà nước La Mã cổ đại mới thành lập cơ quan xét xử tách ra khỏi cơ
quan hành pháp.
Trong Nhà nước Phong kiến, việc phân định chức năng nhà nước giữa
các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn theo hướng
chuyên môn hoá. Ở chế độ phong kiến Tây Âu, quyền tư pháp nằm trong tay
nhà Vua, Lãnh chúa và Giáo hội. Vào thế kỷ XVII - XIX, cùng với quá trình
xác lập Nhà nước trung ương tập quyền, các Toà án của nhà Vua ngày càng
có quyền lực lớn, đã hạn chế sự lũng loạn của các Lãnh chúa. Viện công tố
lần lượt ra đời, đầu tiên xuất hiện ở Pháp (1285 - 1314), Uỷ viên công tố đứng
bên cạnh Toà án để bảo vệ quyền lợi của nhà Vua cũng như bảo vệ lợi ích

quốc gia. Một thời gian sau đó, vào thế kỷ XVI - XVII, Viện công tố được
thành lập ở nhiều nước Châu Âu, như: Italia, Hà Lan, Đức, Nga
Nhờ các cuộc cách mạng chính trị, giai cấp tư sản trở thành giai cấp
thống trị, đã xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến và Nhà nước phong kiến,

×