Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luật hình sư Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 133 trang )

đại học quốc gia hà nội
Khoa luật





Nguyễn Thị Thanh Hoa


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chế định thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam






Luận văn thạc sỹ











Hà nội – 2009


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật





Nguyễn Thị Thanh Hoa


Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chế định thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40


Luận văn thạc sỹ




Người hướng dẫn khoa học: TSKH. PGS Lê văn cảm






Hà nội – 2009

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người cam đoan


Nguyễn thị thanh hoa

Mục lục


Trang
mở đầu
1
Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chế định thời hiệu trong luật
hình sự Việt Nam
12
1.1. Sơ lược lịch sử xuất hiện chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt
Nam
12
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của chế định
thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam
14

1.3. Bản chất pháp lý của hai phạm trù “hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự” và “hết thời hiệu thi hành bản án kết tội”
17
Chương 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành
bản án kết tội trong luật hình sự Việt Nam
27

2.1.Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam.
27
2.2.Thời hiệu thi hành bản án kết tội trong luật hình sự Việt Nam
64
2.3. Phân biệt thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi
hành bản án kết tội trong luật hình sự Việt Nam
96
Chương 3. Hoàn thiện chế định thời hiệu trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999
100
3.1. Nhận xét chung về chế định thời hiệu trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 dưới góc độ so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam năm
100
1985
3.2. Một số tồn tại trong các quy định về chế định thời hiệu trong Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999
102
3.3. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả và mô hình lý luận về chế định
thời hiệu trong pháp luật hình sự Việt Nam
107
Kết luận
116
Danh mục các tài liệu tham khảo

119








1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định
thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết và quan trọng trên
ba phương diện chủ yếu dưới đây:
Về mặt lý luận: Chế định thời hiệu là một chế định quan trọng trong
luật hình sự Việt Nam. Việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề xung quanh
chế định thời hiệu là rất quan trọng và cần thiết. Hiện nay, trong khoa học
pháp lý hình sự Việt Nam có không nhiều bài viết đề cập, phân tích những
vấn đề lý luận cơ bản cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm của chế định
thời hiệu được quy định tại bốn điều luật là Điều 23, Điều 24, Điều 55 và
Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 1999, để rồi rút ra những mặt cần phải phát
huy, cũng như những mặt cần phải khắc phục. Thực chất, đây là một công
việc rất có ích về mặt lâu dài vì nó đóng vai trò cơ bản giúp cho các nhà lập
pháp mỗi khi xây dựng hay sửa đổi nhằm hoàn thiện luật, sẽ đưa ra những
quyết định thực sự phù hợp và thiết thực đến quyền lợi của Nhà nước và của
nhân dân, đấy cũng chính là sự đóng góp không thể thiếu của chúng ta vào
tiến trình đi đến một Nhà nước Pháp quyền hoàn chỉnh và phát triển.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng đây là một đối tượng nghiên cứu
mang bản chất khó và phức tạp vì những lý do sau: Lý do thứ nhất, bản thân

chế định thời hiệu quy định trong pháp luật hình sự thực định của nước ta còn
thiếu rõ ràng và cụ thể, các phạm trù như: khái niệm thời hiệu là gì (?), bản
chất pháp lý của nội dung “hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” và “hết
thời hiệu thi hành bản án kết tội” là như thế nào, căn cứ vào đâu để xác định
điều đó (?), thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự và thời hiệu thi hành bản án kết tội đối với từng loại tội phạm (đơn tội

2
phạm và đa tội phạm) ra sao (?), v.v…Lý do thứ hai, đây là phạm trù liên
quan đồng thời đến cả hai ngành luật: luật hình sự và luật tố tụng hình sự, do
đó việc làm rõ phạm trù này cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ của các
phạm trù có liên quan như: Phạm trù về phân định tội phạm, khái niệm, bản
chất của các dạng, loại tội phạm, phạm trù về quá trình truy cứu trách nhiệm
hình sự, phạm trù về quá trình thi hành án hình sự, v.v…Tuy nhiên, trở ngại
đặt ra là các phạm trù này lại chưa có sự thống nhất về mặt quan điểm cũng
như sự nghiên cứu rõ ràng của các nhà lý luận. Vì vậy, chúng ta phải khẳng
định rằng nghiên cứu chế định thời hiệu là rất cần thiết, nhưng cũng không thể
có sự hoàn thiện ngay bởi điều đó cần đến sự giúp đỡ đồng bộ và toàn diện
của các phạm trù có liên quan nữa.
Về mặt lập pháp: Chế định thời hiệu chính là sự thể hiện nguyên tắc
nhân đạo vì sự tồn tại của chế định này đã khuyến cáo cho những người thực
hiện tội phạm và những người bị kết án về những quyền lợi mà họ có thể có
được (ví dụ: không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của
mình, hay không phải chấp hành bản án kết tội đã tuyên) nếu như hội đủ căn
cứ pháp lý chung có tính chất bắt buộc và các điều kiện cần và đủ theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999.
Đồng thời, chế định thời hiệu trong luật hình sự góp phần đảm bảo cho
việc thực hiện nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự, mà nội dung
cơ bản của nguyên tắc này là: những người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự theo các quy định của luật hình sự, mọi hành vi phạm tội phải được

phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và công minh theo đúng pháp luật với
phương châm: “không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan
người vô tội”.

3
Trong lần pháp điển hoá lần thứ hai luật hình sự Việt Nam, lần đầu
tiên, nhà làm luật nước ta đã chính thức ghi nhận chế định thời hiệu bằng việc
quy định bốn điều luật (Điều 23, Điều 24, Điều 55 và Điều 56) nêu lên nội
dung của hai yếu tố cấu thành chế định thời hiệu: đó là thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án hình sự. Vì vậy, việc làm
sáng tỏ để áp dụng một cách chính xác các quy phạm này là rất cần thiết và
cấp bách, thêm vào đó sẽ góp phần hoàn chỉnh thêm các vấn đề liên quan đến
chế định thời hiệu.
Về mặt thực tiễn: Trong các báo cáo tổng kết công tác năm của ngành
Toà án nhân dân mấy năm gần đây, khi đề cập đến các vụ án hình sự liên
quan đến vấn đề hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và hết thời hạn thi
hành bản án kết tội, đặc điểm được nhìn nhận chung là tỷ lệ các bản án, quyết
định của Toà án bị huỷ (trong đó có trường hợp huỷ do hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự) ngày một giảm, và trong tổng số 337 bị cáo mà Toà án
chưa ra quyết định thi hành án năm 2005 chỉ còn 72 trường hợp đã quá thời
hạn (tức là hết thời hiệu thi hành bản án kết tội) theo quy định của pháp luật,
giảm hơn rất nhiều so với năm 2004 (năm 2004 là hơn 1000 trường hợp đã
quá thời hạn theo quy định của pháp luật). Như vậy, các Toà án đã khắc phục
được phần nào vấn đề này. Trong quá trình thực hiện công việc của mình, cơ
quan thi hành án hình sự đã đề ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả, rút ra
những bài học kinh nghiệm và phát huy những mặt ưu điểm nhằm hoàn thành
tốt công tác thi hành án hình sự.
Thêm vào đó, nội dung của nhiệm vụ thứ hai trong những nhiệm vụ
trọng tâm công tác của ngành Toà án nhân dân trong năm 2006 có đoạn viết:
“Khắc phục triệt để việc để một số vụ án quá thời hạn xét xử theo quy định

của pháp luật…Khắc phục triệt để việc chậm phát hành bản án để kịp thời ra
quyết định thi hành án hình sự…”. Việc đề ra những nhiệm vụ này cho thấy

4
ngành Toà án rất coi trọng và quan tâm đến vấn đề: áp dụng hiệu quả chế định
thời hiệu được ghi nhận tại bốn điều luật trong Bộ luật hình sự năm 1999.
Đây cũng chính là yêu cầu đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu một cách
nghiêm túc và sâu sắc chế định thời hiệu (bao gồm hai chế định nhỏ thuộc nó
là chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chế định thời hiệu thi
hành bản án kết tội).
Việc áp dụng đúng đắn và hiệu quả các quy phạm của chế định thời
hiệu trong Bộ luật hình sự năm 1999 vào thực tiễn sẽ mang lại những lợi ích
thiết thân cho Nhà nước, cho mỗi công dân và cho toàn xã hội. Đối với Nhà
nước, mà trực tiếp là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền sẽ nâng cao
uy tín của mình trước nhân dân, làm cho nhân dân tin vào tính công minh và
sức mạnh của pháp luật, qua đó khuyến khích người dân tham gia tích cực
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đối với mỗi công dân, mỗi
khi gặp chuyện “bất bình” sẽ an tâm về hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp hình sự có thẩm quyền mà toàn tâm toàn ý hỗ trợ, cùng với các cơ quan
tư pháp này giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề. Còn đối với toàn xã hội sẽ có
được một pháp chế vững mạnh và chắc chắn - đó chính là nền tảng cơ bản để
chúng ta xây dựng thành công một Nhà nước Pháp quyền.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu chế định thời hiệu ở các mức độ khác nhau đã được một số
nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và được đề cập trong các công
trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên khảo và giáo trình.
Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này bước
đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định thời hiệu trong Bộ
luật hình sự năm 1999 hiện hành, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của kiến


5
giải lập pháp về các quy phạm của chế định này trong luật hình sự Việt Nam.

Chúng ta có thể kể đến như: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định
thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa
trực thuộc (Trường thành viên) năm 2001 của tập thể tác giả Bộ môn Tư pháp
hình sự của Khoa luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do TSKH. Lê Cảm
chủ trì. Hà Nội, năm 2002; Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một
số nước trên thế giới. TSKH Lê Cảm chủ biên. Thông tin Khoa học pháp lý,
năm 2002; Chương IV – Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự. (Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999,
tập I – Phần chung) của TSKH. Lê Cảm. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội,
năm 2001; hay chúng ta có thể kể đến các nghiên cứu chuyên khảo về Phần
chung luật hình sự (Tập IV) của TSKH. Lê Cảm. NXB Công an nhân dân. Hà
Nội, năm 2002; Về áp dụng pháp luật trong các trường hợp không xử lý hình
sự của ThS. Chu Thị Trang Vân. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2005;
Về thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 55, Điều 56 của Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999 của Trịnh Tiến Việt. (Trong sách Pháp luật hình sự và
thực tiễn áp dụng của chính tác giả Trịnh Tiến Việt). NXB Giao thông vận tải,
2003; Chế định nhiều tội phạm – những vấn đề lý luận và thực tiễn của TS.
Lê Văn Đệ. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2003; Một số vấn đề lý luận về
chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam của TS. Trần Quang Tiệp. Tạp
chí Toà án nhân dân, tháng 2/2006 (Số 4); Một số vấn đề về thi hành án hình
sự của TS. Trần Quang Tiệp. NXB Công an nhân dân. Hà Nội, 2002, v.v…
Tuy nhiên, khái quát tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả
cho thấy các công trình này mới chỉ dừng lại ở các bài viết đăng trên tạp chí
khoa học pháp lý chuyên ngành, với việc giải quyết một nội dung tương ứng
xem xét nội dung của chế định này như khối kiến thức cơ bản của một phần,

6

mục trong các giáo trình giảng dậy, một chương của sách chuyên khảo hoặc
dưới góc độ mới chỉ xem xét vấn đề ở cấp độ khóa luận tốt nghiệp (của bản
thân tác giả), mà chưa có công trình nào đề cập đến việc nghiên cứu với đúng
tên gọi “những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định thời hiệu theo pháp
luật hình sự Việt Nam” một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ và chuyên
khảo ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. Về nội dung, các công trình đã
nêu mới đề cập khái quát căn cứ pháp lý và những điều kiện áp dụng, đánh
giá ở mức độ riêng rẽ từng trường hợp hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự và hết thời hiệu thi hành bản án kết tội cụ thể hoặc mới đưa ra một số kiến
nghị độc lập về hoàn thiện các trường hợp tương ứng này trong luật hình sự
Việt Nam. Trong khi đó, chưa có công trình nghiên cứu nào hệ thống hoá các
vấn đề lý luận về chế định thời hiệu; tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng
cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các kiến giải
lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Mặt khác, nhiều nội
dung xung quanh chế định thời hiệu cũng đòi hỏi các nhà hình sự học cần tiếp
tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa, nên việc nghiên cứu
chế định thời hiệu vẫn rất cần thiết và quan trọng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách tương đối có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định thời hiệu theo luật hình sự
Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, từ đó xác định những
bất cập để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các
quy phạm về chế định thời hiệu trong luật hình sự nước ta, cũng như đưa ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tiễn.

7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình những

nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lược khảo chế định thời hiệu
trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái niệm, các đặc điểm cơ bản của
chế định thời hiệu, những trường hợp hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự và hết thời hiệu thi hành bản án kết tội trong Bộ luật hình sự năm 1999
hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và nội dung cơ bản của chế định
thời hiệu theo luật hình sự Viêt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm
pháp luật hình sự về chế định thời hiệu trong thưc tiễn áp dụng pháp luật hình
sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại trong các quy định của chế định
thời hiệu và thực tiễn áp dụng chúng nhằm đề xuất và luận chứng sự cần thiết
phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
phạm về chế định này trong pháp luật hình sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn này tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của chế định
thời hiệu nói chung (mà bao gồm hai chế định nhỏ thuộc nó là chế định thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chế định thời hiệu thi hành bản án kết
tội) như:
1. Khái niệm và đặc điểm của chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt
Nam;
2. Bản chất pháp lý của phạm trù “hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự” và phạm trù “hết thời hiệu thi hành bản án kết tội”;

8
3. Khái niệm, đặc điểm, cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, đồng thời so sánh chế định này với phạm trù có mối liên quan rất mật thiết
với nó – phạm trù “truy cứu trách nhiệm hình sự”;
4. Khái niệm, đặc điểm, cách tính thời hiệu thi hành bản án kết tội,
đồng thời so sánh chế định này với phạm trù có mối liên quan rất mật thiết
với nó – phạm trù “thi hành bản án kết tội”;

5. Hoàn thiện chế định thời hiệu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999.
Tuy nhiên, do đây là một chế định khó và phức tạp, thêm vào đó thời
gian nghiên cứu có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ năng phân tích và
giải quyết vấn đề của tác giả còn hạn chế, nên trong luận văn này, tác giả chỉ
có thể làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo quan điểm tác giả là quan trọng
và chủ yếu hơn cả.
3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định
thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự, đồng
thời, luận văn cũng đề cập đến một số quy phạm của luật tố tụng hình sự
nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự Việt Nam về chế định thời hiệu trong giai đoạn từ năm 1999 -
2008.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Cở sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng
và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật. Đồng thời, cơ sở lý luận

9
của luận văn cũng dựa trên thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý
như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật,
luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước
ngoài.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử:
nhìn nhận đối tượng nghiên cứu trong một hệ thống các sự vật, hiện tượng có

tác động qua lại và liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu của luận văn này,
đồng thời không quên đặt nó trong một tiến trình lịch sử và phát triển.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, v.v…trong sự nhìn nhận tổng
thể và khách quan, không phiếm diện một chiều.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật
của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực
tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao hoặc
(và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan
đến chế định thời hiệu; dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm
trong các báo cáo của ngành Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân để
phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn
đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự
Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận

10
và thực tiễn về chế định thời hiệu ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn này,
tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
1. Phân tích một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện
những vấn đề lý luận về chế định thời hiệu như: Khái niệm, bản chất pháp lý
và các đặc điểm cơ bản của chế định thời hiệu; Bản chất pháp lý của hai phạm
trù “hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” và “hết thời hiệu thi hành bản
án kết tội”; khái niệm và các đặc điểm cơ bản của thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án kết tội, phân biệt thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản án kết tội trong luật hình sự
Việt Nam, v.v…
2. Hệ thống hoá lịch sử phát triển các quy phạm về chế định thời hiệu

trong luật hình sự Việt Nam, để rút ra những nhận xét, đánh giá.
3. Phân tích từng trường hợp hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
và hết thời hiệu thi hành bản án kết tội theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 hiện hành, đồng thời có nghiên cứu so sánh với pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới để đưa ra những kết luận khoa học về nội dung
và điều kiện áp dụng và đánh giá tổng thể những tồn tại xung quanh việc quy
định nội dung chế định thời hiệu trên phương diện lý luận và lập pháp hình
sự.
4. Lần đầu tiên phân tích kết quả việc áp dụng các quy phạm pháp luật
hình sự Việt Nam về chế định thời hiệu (đặc biệt là chế định thời hiệu thi
hành bản án) trong thực tiễn các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
từ năm 1999 đến năm 2008, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật
hình sự liên quan đến giải quyết vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự và thi
hành bản án kết tội của người phạm tội ở nước ta trong thời gian qua. Đặc biệt

11
luận văn còn chỉ ra một số các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và
những nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục.
5. Đề xuất các mô hình lý luận của các quy phạm về chế định thời hiệu
với những sửa đổi, bổ sung phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà
nước ta.
6. Lần đầu tiên trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn
áp dụng, luận văn đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về chế định thời hiệu trong pháp luật hình sự Việt Nam để phục vụ yêu
cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm cũng như việc giáo dục,
cải tạo người phạm tội.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu
tiên đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chế định thời hiệu theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn
những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng chế định thời hiệu trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của chế định thời hiệu ở khía
cạnh lập pháp, để giúp việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hoàn
thiện hơn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học
viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người
phạm tội ở nước ta hiện nay.

12
7. Bố cục của luận văn
Theo quan điểm của tác giả, luận văn là hợp lý và lôgic khi được sắp
xếp theo trình tự sau đây:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
sẽ bao gồm ba chương, đó là:
Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về chế định thời hiệu trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương II: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi
hành bản án kết tội trong luật hình sự Việt Nam.
Chương III: Hoàn thiện chế định thời hiệu trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999.

13
Chương 1
Một số vấn đề lý luận cơ bản về chế định thời hiệu
trong luật hình sự Việt Nam

1.1. Lược khảo về chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam
Nghiên cứu lịch sử tồn tại và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam, mà
cụ thể là chế định thời hiệu cho thấy chế định này đã xuất hiện từ rất sớm.
Ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, các nhà làm luật Trung Kỳ đã sớm ghi nhận
nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự và không thi hành bản án kết
tội sau một khoảng thời gian nhất định: “thể lệ đặt ra cấm không được truy
cứu hay thi hành một tội danh đã không xử đoán sau một thời gian đã định
trong luật”[11], và đây được coi là tiền thân của chế định thời hiệu trong
pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay.
Sau khi đất nước ta dành được độc lập, tự do, xuất phát từ nhiệm vụ
của giai đoạn cách mạng mới – giai đoạn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành Bộ luật hình sự năm 1985. Đây là một
sự kiện chính trị – pháp lý quan trọng, là một yếu tố đưa đến sự hoàn thiện
tổng thể hệ thống pháp luật nước ta lúc này và góp phần thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đề ra là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời tăng cường pháp chế, giữ gìn trật
tự an toàn xã hội. Sau đó, xuất phát từ yêu cầu thực tế của xã hội, Bộ luật hình
sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989 (liên quan đến 27
điều), năm 1991 (liên quan đến 26 điều), năm 1992 (liên quan đến 17 điều),
năm 1997 (bổ sung thêm 31 điều hoàn toàn mới) – gọi tắt là Bộ luật hình sự
năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung. Trong Bộ luật này, nhà làm luật nước ta
đã chính thức ghi nhận chế định thời hiệu tại ba điều luật: Điều 45 – Thời

14
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, Điều 46 – Thời hiệu thi hành bản án, Điều
47 – Không áp dụng thời hiệu.
Tuy nhiên, nhược điểm ở đây là khái niệm thế nào là thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự và thế nào là thời hiệu thi hành bản án vẫn chưa được đưa
ra, tại Điều 45 và Điều 46 chỉ đề cập đến vấn đề không truy cứu trách nhiệm
hình sự khi nào và không buộc người bị kết án phải chấp hành bản án khi nào:

“Không truy cứu trách nhiệm hình sự nếu tính từ ngày tội phạm được thực
hiện đã qua những thời hạn sau đây: a) 5 năm đối với các tội phạm ít nghiêm
trọng mà Bộ luật quy định hình phạt từ 2 năm tù trở xuống hoặc hình phạt
khác nhẹ hơn; b) 10 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy
định hình phạt tù trên 2 năm; c) 15 năm đối với các tội phạm nghiêm
trọng…” (Điều 45. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự); “Không buộc
người bị kết án phải chấp hành bản án, nếu tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật đã qua những thời hạn sau đây: a) 5 năm đối với các trường hợp xử
phạt từ 5 năm tù trở xuống; b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên
5 năm đến 15 năm; c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15
năm đến 20 năm…” (Điều 46. Thời hiệu thi hành bản án).
Do vậy, so với Bộ luật hình sự năm 1985, chế định thời hiệu trong Bộ
luật hình sự năm 1999 hiện nay của chúng ta đã được xây dựng theo hướng
hợp lý hơn, hoàn chỉnh hơn: Lần đầu tiên định nghĩa pháp lý của khái niệm
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và của khái niệm thời hiệu thi hành
bản án hình sự đã được đề cập tại Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài ra các mức
thời hạn khác nhau tương ứng với các loại tội phạm trong thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, và tương ứng với các loại hình phạt và mức hình phạt
trong thời hiệu thi hành bản án kết tội cũng được quy định rõ ràng và tỉ mỉ
hơn,.v.v…

15
Ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, trên các trang web
luật học thường xuất hiện những câu hỏi của người dân và những câu trả lời
tư vấn của các nhà luật học về những quyền lợi và nghĩa vụ mà người dân
được hưởng và phải thực hiện, một trong số đó là việc hưởng chế định nhân
đạo khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản
án hình sự [15, 16]. Điều đó đã giúp chúng ta phần nào hiểu rằng: Cuộc sống
luôn vận động không ngừng đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn suy nghĩ, tìm ra
các giải pháp ngày càng hợp lý và hoàn thiện hơn cho chế định thời hiệu nói

riêng và pháp luật hình sự nói chung để bắt kịp (nếu có thể: dự đoán trước)
những nhu cầu mà xã hội đặt ra và hướng tới.
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm cơ bản của chế
định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam
Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm là một trong những nguyên
tắc cơ bản trong pháp luật hình sự nước ta. Khoản 1 Điều 3 Bộ luật hình sự
năm 1999 quy định: “Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử
lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”; Điều 1 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 quy định: “Xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội”, …Tuy nhiên, sẽ là
sai lầm nếu đồng nhất nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm với việc phải
áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp pháp lý hình sự khác đối với bất cứ tội
phạm nào. Vì mục đích của hình phạt hay các biện pháp pháp lý hình sự khác
không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, mà cốt lõi là nhằm giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, biết tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm
tội mới. Như vậy nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm không loại trừ
những quy định về chế định thời hiệu, mà trái lại, sự tồn tại của chế định thời
hiệu càng khẳng định rõ tính nhân đạo trong nguyên tắc này.

16
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, các nhà làm luật không đưa
ra định nghĩa pháp lý thế nào là thời hiệu mà chỉ đưa ra định nghĩa cho hai
yếu tố cấu thành nên chế định này, đó là thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự và thời hiệu thi hành bản án hình sự tương ứng tại khoản 1 Điều 23 và
khoản 1 Điều 55 của Bộ luật. Tuy nhiên, chính căn cứ vào các khái niệm nhỏ
này, đồng thời tổng hợp quan điểm của các nhà khoa học, tập thể tác giả Bộ
môn Tư pháp hình sự của Khoa luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội do
TSKH. Lê Cảm chủ trì đã đưa ra định nghĩa khoa học cho chế định này mà
theo quan điểm của chúng tôi là hoàn toàn hợp lý, như sau: “Thời hiệu trong
luật hình sự là một chế định phản ánh nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự

và được thể hiện bằng việc quy định trong pháp luật hình sự một thời hạn
nhất định mà khi hết thời hạn đó, thì người phạm tội không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và người bị kết án không phải chấp hành bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật đã được tuyên”[11]

Từ định nghĩa khoa học này, chúng ta có thể rút ra những đặc điểm của
chế định thời hiệu như sau:
Thứ nhất, đây là một chế định phản ánh nguyên tắc nhân đạo của luật
hình sự, kết luận này đúng vì bản thân sự tồn tại chế định thời hiệu trong luật
hình sự Việt Nam đã đưa đến cho người thực hiện tội phạm hy vọng có thể
được miễn việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không phải chấp hành bản
án kết tội có hiệu lực pháp luật đã được tuyên nếu như người phạm tội đó đáp
ứng được đầy đủ căn cứ pháp lí chung và những điều kiện cụ thể do pháp luật
hình sự quy định (mà sẽ được phân tích chi tiết tại chương 2 dưới đây).
Thứ hai, thời hiệu trong pháp luật hình sự chính là một khoảng thời
gian nhất định. Trong khoảng thời gian đó, các cơ quan tư pháp hình sự có
thẩm quyền của Nhà nước bao gồm: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án

17
và cơ quan thi hành án hình sự được Nhà nước trao cho quyền truy cứu trách
nhiệm hình sự và thi hành bản án kết tội đối với người thực hiện tội phạm
theo quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003. Còn nếu nằm ngoài khoảng thời gian đó thì các cơ quan tư pháp hình sự
có thẩm quyền của Nhà nước không còn những quyền này nữa, đồng thời
người phạm tội hoặc người bị kết án thoả mãn đầy đủ các điều kiện luật định
(được định cụ thể tại khoản 3 Điều 23 và khoản 3 Điều 55) thì điều đó đồng
nghĩa với việc người phạm tội sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa
và người bị kết án cũng không phải chấp hành bản án đã tuyên. Ví dụ: trên
một trang web của Sài Gòn, có một bạn hỏi rằng: vào năm 1977, Toà án Việt
Nam đã kết án bạn 25 năm tù , nhưng trong lúc toà xử thì bạn đó đã sang Mĩ.

Vậy cho đến nay, bạn có còn phải chấp hành bản án đó nữa không (?). Luật sư
Trịnh Đình Ban đã trả lời câu hỏi với nội dung như sau: khoảng thời gian từ
năm 1977 đến nay đã hết thời hiệu thi hành bản án kết tội, do đó bạn sẽ không
phải thi hành án với điều kiện trong khoảng thời gian 15 năm tính từ năm
1977 bạn không phạm tội mới, hay không cố tình trốn tránh và không có lệnh
truy nã [15].
Thứ ba, chỉ một trong các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của
Nhà nước (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, Viện kiểm
sát, Toà án hoặc cơ quan thi hành án hình sự) căn cứ vào các giai đoạn tố tụng
hình sự cụ thể (điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án) được quyền thi hành
việc không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do đã hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình
sự năm 1999 hoặc việc không thi hành bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đã
được tuyên đối với người bị kết án do đã hết thời hiệu thi hành bản án kết tội
theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 1999.

18
Trong một Nhà nước pháp quyền, các quy định của pháp luật hình sự
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và tự do của con người,
của công dân, bởi những quyền và tự do đó là những giá trị xã hội cao quý
nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại. Việc bảo vệ nhằm
tránh khỏi sự xâm hại của những hành vi phạm tội mà người phạm tội gây ra,
đồng thời tránh khỏi sự vi phạm pháp chế và dân chủ, áp dụng sai các quy
định của pháp luật hình sự của một số quan chức trong bộ máy công quyền vì
các động cơ vụ lợi, cá nhân…Việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền là sự kết hơp việc bảo vệ
các quyền con người trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đúng như theo quan điểm của PGS. TSKH. Lê Cảm: “bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn Nhà nước pháp quyền là sự ghi
nhận (điều chỉnh) đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt hành

pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của pháp luật hình sự,
được tuân thủ, chấp hành và áp dụng một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và
triệt để bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án trong thực tiễn điều tra,
truy tố và xét xử, đồng thời góp phần tạo nên lòng tin của công dân vào sự
nghiêm minh của pháp chế, tính minh bạch và sự bình đẳng của pháp luật, sức
mạnh và uy tín của bộ máy công quyền, tính nhân đạo và dân chủ của xã hội
dân sự và Nhà nước pháp quyền nói chung” [1]. Tư tưởng bảo vệ các quyền
con người được phản ánh thông qua từng điều luật trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999. Các quy định về chế định thời hiệu cũng không là ngoại lệ, tư
tưởng bảo vệ các quyền con người được phản ánh qua khái niệm của nó, bản
chất pháp lý của nó và các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của nó.
1.3. Bản chất pháp lý của hai phạm trù “hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự” và “hết thời hiệu thi hành bản án kết tội”

19
Khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và thời hiệu thi hành bản
án kết tội – sau đây gọi chung là hết thời hiệu – theo quy định tại khoản 1
Điêu 23 và khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 1999, người thực hiện tội
phạm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và người bị kết án không phải
chấp hành bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đã được tuyên. Vậy thì tại sao
nhà làm luật nước ta lại quy định như vậy và thực chất của phạm trù “hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” và phạm trù “hết thời hiệu thi hành bản án
kết tội” là gì (?). Chúng ta sẽ lần lượt giải đáp từng câu hỏi này.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự có nhiều quan điểm khác
nhau về vấn đề này: Quan điểm thứ nhất của GS.TS. người Nga
I.U.M.Tkatrepxki cho rằng: “Việc người phạm tội không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc không phải chấp hành bản án đã tuyên khi hết thời hạn
được pháp luật hình sự quy định là do hành vi phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội còn không đáng kể” [47];
Quan điểm thứ hai của một số nhà luật học Liên Xô cũ cho rằng: “Sở dĩ khi

hết thời hạn do pháp luật hình sự quy định, người phạm tội không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự là do với thời gian vật chứng bị mất đi và trí nhớ của
những người làm chứng về những chi tiết của vụ án cũng bị mai một” [22];
Quan điểm thứ ba của GS. Msvenhirađze P.Ia. cho rằng: “Cơ sở của thời hiệu
theo pháp luật hình sự là tính bất hợp lý của việc áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội, nếu như từ ngày phạm tội đã qua một khoảng thời gian nhất
định nhiều hoặc ít, vì áp dụng hình phạt trong trường hợp như vậy sẽ không
đạt được các mục đích của việc ngăn ngừa riêng, cũng như các mục đích của
việc ngăn ngừa chung, việc miễn trách nhiệm hình sự và miễn chấp hành bản
án kết tội do hết thời hiệu làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của các hành
vi” [24]; v.v…Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tác giả Trần Quang
Tiệp đã thể hiện quan điểm của mình về vấn đề này: “Chúng tôi cho rằng,

20
việc người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không phải
chấp hành bản án đã tuyên khi hết thời hạn và khi đáp ứng đầy đủ những điều
kiện được quy định trong pháp luật hình sự, là do người phạm tội được coi là
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” [38]; v.v… Nói chung, những quan
điểm trên đều phải được chúng ta quan tâm và học hỏi ở những khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, cái chính ở đây mà chúng ta cần quan tâm là tại sao họ
lại đưa ra những quan điểm như vậy, họ dựa vào cơ sở và nguyên tắc nào khi
đưa ra quyết định như vậy (?), bởi nếu chúng ta tiếp cận được con đường đi
của họ thì chúng ta không những sẽ trả lời được những câu hỏi trên mà còn
giúp chúng ta hiểu sâu sắc bản chất pháp lý của hai phạm trù này.
Theo quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1999 khi hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nữa, điều đó đồng nghĩa với việc người phạm tội được miễn
việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, bản chất pháp lý của việc hết thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chính là người phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự và theo quan điểm của chúng tôi, các nhà làm luật nước ta cần

khẳng định rõ vấn đề này trong Bộ luật hình sự năm 1999, để làm căn cứ pháp
lý thống nhất khi áp dụng các quy định này vào trong thực tiễn. Đây cũng
chính là quan điểm của tác giả Trịnh Tiến Việt được thể hiện trong bài viết
“Về một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về miễn trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam”. Tác giả Trịnh Tiến Việt đã
đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về chế định miễn trách nhiệm hình
sự trong Bộ luật hình sự, trong đó tác giả có đưa ra một điều luật quy định
việc miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự:
“Điều… Miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự (mới): Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu tính từ

×