Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 121 trang )


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM
TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm, các căn cứ quyết định hình phạt và ý nghĩa của


việc quyết định hình phạt
9
1.1.1.
Khái niệm quyết định hình phạt
9
1.1.2.
Các căn cứ quyết định hình phạt
13
1.1.2.1.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
14
1.1.2.2.
Quyết định hình phạt phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội
15
1.1.2.3.
Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
16
1.1.2.4.
Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
19
1.1.3.
Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt
23
1.2.
Khái niệm, các căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình
phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
25
1.2.1.

Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
25

1.2.2.
Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
30
1.2.3.
Các đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
32
1.3.
Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về
quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
37
1.3.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước
khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
37
1.3.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
đến nay
42

Chương 2: CÁC QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI,
PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

44
2.1.
Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt
Nam năm 1999
44
2.1.1.
Các quy phạm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội
44
2.1.2.
Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội chưa đạt
54
2.1.3.
Văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
67
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt
Nam trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
68
2.2.1.
Thực tiễn áp dụng các quy phạm của bộ luật hình sự Việt
Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội
68

2.2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt
Nam trong trường hợp phạm tội chưa đạt
71

Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI,
PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
83
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật
hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
83
3.1.1.
Về phương diện lập pháp
83
3.1.2.
Về phương diện thực tiễn
88
3.1.3.
Về phuơng diện lý luận
95
3.2.
Giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung các quy phạm của luật
hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
97
3.2.1.
Nhận xét các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam về

quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt
97
3.2.2.
Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự
về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt
100
3.2.3.
Mô hình lý luận và các kiến giải lập pháp về quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt
104

KẾT LUẬN
110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
113






Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t

BLHS
: Bộ luật hình sự
QĐHP

: Quyết định hình phạt
TNHS
: Trách nhiệm hình sự






Danh môc c¸c b¶ng

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê các loại tội phạm theo BLHS Việt Nam năm 1999
48


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm gần đây
thấy rằng tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp, tinh vi, với nhiều
khâu, nhiều thủ đoạn và nhiều giai đoạn khác nhau. Luật hình sự đi vào đời
sống xã hội có vai trò ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là việc quyết
định hình phạt (QĐHP) của Tòa án đối với các trường hợp phạm tội nói

chung, trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng có ý
nghĩa chính trị xã hội và pháp lý. Bởi lẽ, hoạt động thường xuyên của Tòa án
là việc QĐHP, do vậy, việc đưa ra các bản án chính xác, công bằng và đúng
pháp luật không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có tác
dụng cho người dân tin tưởng vào chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thực tiễn xét xử trong các năm gần đây có nhiều bản án, QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn có những điểm chưa thống
nhất, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận xã hội và quần chúng nhân dân.
Hiện nay, các quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước ta đang
trong giai đoạn hoàn thiện, trong chừng mực nhất định quy định đó còn chưa rõ
ràng, việc QĐHP cho các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn
mang tính khái quát cao, chưa chặt chẽ. Chính vì những hạn chế này đã ảnh
hưởng không nhỏ, gây khó khăn trong việc QĐHP nói chung và QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt của Tòa án các cấp nói riêng.
Do đó, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp
luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp,
bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý, không làm oan cho
người vô tội, bởi lẽ mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên,

2
trong diễn biến quá trình thực hiện tội phạm, việc xác định những hành vi nào
đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội phạm,
QĐHP đối với những người thực hiện hành vi nói trên giúp cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, làm được điều này không
phải bao giờ cũng đơn giản, dễ dàng. Mặt khác, để QĐHP được chính xác và
công bằng thường gặp một số khó khăn nhất định hay còn có nhiều sai sót,
đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và thời điểm
dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế khách quan với ý nghĩ, mong
muốn chủ quan của người phạm tội.

Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng phạm tội đang diễn biến hết sức
phức tạp chính vì lẽ đó mà QĐHP cho những hành vi chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, không thể
không coi trọng. Mặc dù, tội phạm trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt luôn chiếm tỷ lệ không lớn so với các tội phạm hoàn thành, tính
chất và mức độ cũng không nguy hiểm bằng, song không vì thế mà pháp luật
của Nhà nước ta không quan tâm chú trọng.
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, để đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có
hiệu quả cao, bên cạnh việc cụ thể hóa các căn cứ QĐHP nói chung, việc
nghiên cứu và làm rõ cơ sở pháp lý các quy định QĐHP trong trường hợp đặc
biệt phần nào giải quyết vấn đề đặt ra nêu trên. Mặt khác, hiện nay trong khoa
học luật hình sự Việt Nam, chưa có đề tài nghiên cứu về QĐHP trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ
thống và toàn diện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi về QĐHP nói chung.
Vì vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, những vấn đề lý luận và việc áp dụng
nó trong thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện

3
phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, ngăn chặn, hạn
chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra, điều đó có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài:
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam" làm
luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ hai Bộ luật hình sự (BLHS)
Việt Nam năm 1999, các nhà khoa học luật hình sự đã có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu chuyên sâu về QĐHP nói chung, nhưng QĐHP trong

trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam,
có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này, hoặc có chăng vấn đề này chỉ
được nghiên cứu với tính chất là một mảng nhỏ trong QĐHP nói chung, hay
trong các sách chuyên khảo, giáo trình và các bài viết.
- Sách chuyên khảo:
+ Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm trong sách Các nghiên
cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, tập IV, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, năm 2000, của tác giả TSKH. GS. Lê Văn Cảm.
+ Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), sách
chuyên khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, của GS.TSKH. Lê
Văn Cảm.
- Sách giáo trình: Các giai đoạn phạm tội, (chương XII, Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, của TS.
Nguyễn Ngọc Chí, 2001 (tái bản 2003, 2007).
- Các bài viết:
+ Trần Văn Độ, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai
đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Toà án nhân dân, số 02/1999.

4
+ GS.TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 1/1992.
+ Lâm Minh Hạnh, Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong sách:
Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội Hà Nội, 1986
+ TS. Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định về cơ sở của trách
nhiệm hình sự với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng
phạm, Tạp chí Kiểm sát, số 10/1999.
+ TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa
đạt, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002.

+ TS. Trịnh Tiến Việt: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức
phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học (chuyên
san Luật học), số 02/2009.
+ TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001, và "Quyết
định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sỹ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002.
+ Tác giả Trần Văn Sơn trong: Quyết định hình phạt theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2000.
+ Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí
Toà án nhân dân, số 6/1993, v.v
Ngoài ra, dưới góc độ luận văn thạc sĩ cũng chưa có công trình nào
nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, các sách báo khoa học pháp lý trên
đây đều đề cập đến một số khía cạnh nhất định về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, nhưng chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ

5
là một trường hợp nhỏ trong QĐHP nói chung. Có thể nói, đến nay chưa có
một công trình, hay tài liệu nghiên cứu toàn diện về QĐHP trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Với nội dung đề tài này, tác giả lựa
chọn nghiên cứu làm luận văn của mình, sẽ góp phần làm rõ hơn nữa về việc
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Trong giai
đoạn hoàn thiện pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
vấn đề QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt càng có
vai trò quan trọng bảo vệ công bằng xã hội, đảm bảo được các nguyên tắc
pháp luật hình sự như: (1) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; (2) Nguyên
tắc công minh; (3) Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm; (4) Nguyên tắc
trách nhiệm do lỗi…
Do vậy, QĐHP đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không

làm oan, sai người vô tội, tuân thủ nguyên tắc mọi hành vi vi phạm pháp luật
hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS). Vì lẽ đó, vấn đề này cần
được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc hoàn
thiện cho các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
tội chưa đạt. Ngoài ra còn đáp ứng yêu cầu trong hoạt động cải cách tư pháp
của nước ta trong việc QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật, để mọi hành vi vi
phạm pháp luật hình đều phải chịu TNHS, theo phán quyết của Tòa án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn góp phần hoàn thiện thêm một số điểm về mặt
lý luận khoa học và thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đồng thời xác
định những điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét xử và đề xuất một số
kiến giải lập pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt dưới góc độ thực tiễn của
hoạt động xét xử và nhận thức khoa học.

6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu như sau:
Thứ nhất: Về mặt lý luận trên cơ sở nghiên cứu những quy định chung
về QĐHP trong luật hình sự Việt Nam, khái quát sự hình thành và phát triển
của pháp luật hình sự nước ta từ trước khi pháp điển hóa BLHS Việt Nam
năm 1985 và BLHS Việt Nam năm 1999 về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt. Phân tích nội dung cơ bản, sự thể hiện thực tiễn áp
dụng của chế định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt
theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thông qua phân tích một số vụ án cụ thể.
Thứ hai: Nghiên cứu đánh giá, phân tích những điểm tồn tại của chế
định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đề xuất

kiến giải hoàn thiện để nâng cao hiệu qủa áp dụng các quy phạm về chế định
này trong luật hình sự Việt Nam, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp từ nay
cho đến năm 2020. Nội dung nghiên cứu của luận văn cũng nằm trong một
mắt xích quan trọng, đó là xem xét hoạt động xét xử của Tòa án đối với việc
QĐHP cho người phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình
sự Việt Nam hiện hành, đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng
các quy định về QĐHP của Tòa án bằng việc phân tích một số vụ án cụ thể.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài luận văn tác giả dựa trên cơ
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,

7
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Luận văn cũng vận dụng những luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên
tạp chí của một số các nhà khoa học hình sự Việt Nam trong và ngoài nước.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp có độ tin cậy cao để làm sáng
tỏ về mặt khoa học cho từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên
cứu như: Lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh và phương pháp phân
tích, tổng hợp…
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn tác giả còn vận dụng các
vụ án hình sự và các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để
phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự làm phương pháp
nghiên cứu của luận văn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài luận văn là kết quả nghiên cứu một cách đồng
bộ có hệ thống và riêng biệt toàn diện nhất về những vấn đề lý luận và thực
tiễn về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo
luật hình sự Việt Nam. Qua đó, bổ sung thêm vào kho tàng lý luận của luật
hình sự Việt Nam về vấn đề này. Luận văn góp phần hoàn thiện hơn các quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định này, nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả trong thực tiễn xét xử của Tòa án về QĐHP trong các trường hợp
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà tác giả lựa chọn đề tài luận văn
nghiên cứu dưới đây.
Về thực tiễn, luận văn tiếp cận nghiên cứu các bản án của Toà án đã
xét xử để rút ra ý nghĩa thực tiễn. Qua đó, xác định đúng và chính xác việc
QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng thời
bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người

8
phạm tội, không làm oan người vô tội. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu
tham khảo cần thiết phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học cho
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, cán bộ giảng dạy của cơ sở
đào tạo luật ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường
hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo theo luật hình sự Việt Nam.



9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ Ý NGHĨA
CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Khái niệm QĐHP được coi là một trong các khái niệm cơ bản và
quan trọng của luật hình sự Việt Nam, đây là một trong những khái niệm thể
hiện tập trung nhất bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Luật hình sự xác định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm
phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, qua đó đưa ra các biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Vì vậy, có thể
khẳng định rằng, QĐHP là cầu nối, là một mắt xích quan trọng giữa tội
phạm và hình phạt.
QĐHP là giai đoạn quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của Tòa án. Khi chưa có BLHS năm 1985, khái niệm QĐHP chỉ mang ý
nghĩa lượng hình, sau khi có BLHS này ra đời, mới xuất hiện tên gọi quyết
định hình phạt như hiện nay. Mặc dù, là khái niệm quan trọng nhưng cho tới
nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức để định
nghĩa cụ thể về khái niệm QĐHP. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới
góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong
hệ thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống.
Trong khoa học luật hình sự đã có nhiều nhà nghiên cứu về luật hình
sự đưa ra các khái niệm khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như:
TS. Nguyễn Ngọc Chí đưa ra định nghĩa về QĐHP:


10
Là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án
có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã định tội
danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định khung
hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) mức
hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi
giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình
phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự [12].
ThS. Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa còn mang tính khái quát như:
"Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án
phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu
phải tuân thủ theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 88].
Dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, TS. Chu Thị Trang Vân thì
cho rằng:
Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn loại
hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự
tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người
phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [46, tr. 73].
Theo TS. Nguyễn Văn Hiện đưa ra định nghĩa pháp lý, nhưng khái
niệm QĐHP này còn thiếu chủ thể áp dụng là Tòa án như: "kết quả pháp lý
của quá trình điều tra, truy tố, xét xử, là kết quả mang tính Nhà nước về áp
dụng loại và hình phạt đối với người phạm tội" [16, tr. 1]; v.v
Tóm lại, phần lớn các tác giả đều có chung quan điểm về QĐHP như
sau: QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt
chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật
định để áp dụng cho người phạm tội. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm khoa
học về QĐHP được hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau:


11
Thứ nhất: Nghĩa hẹp của QĐHP là việc Tòa án ra QĐHP với hình
phạt chính và hình phạt bổ sung.
Thứ hai: Nghĩa rộng của QĐHP là bao gồm cả hình phạt chính và hình
phạt bổ sung, quyết định các biện pháp chấp hành hình phạt, miễn TNHS,
miễn hình phạt hoặc là quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm
mục đích thay thế hoặc bổ sung cho hình phạt. Ví dụ: Quyết định buộc trả lại
tài sản cho người bị hại, bắt xin lỗi công khai…
Với những nội dung nêu trên thì QĐHP chỉ có thể đặt ra với những
trường hợp người phạm tội phải chịu TNHS và bị áp dụng hình phạt. Trong
hình phạt chính thì đa số hình phạt quy định cho các tội phạm là chế tài lựa
chọn. Trong khung hình phạt quy định nhiều các loại hình phạt khác nhau thì
QĐHP là sự lựa chọn một hình phạt cụ thể trong phạm vi pháp luật cho phép
để áp dụng pháp luật hình sự với người phạm tội.
Ví dụ: Trường hợp Tòa án QĐHP là tù chung thân hay tử hình thì việc
QĐHP thực chất là việc chọn hình phạt chứ không phải lựa chọn mức hình
phạt cụ thể theo khung hình phạt. Khi áp dụng QĐHP với hình phạt bổ sung
là việc lựa chọn một hay nhiều hình phạt bổ sung mà pháp luật cho phép bổ
sung cho hình phạt chính. Mặc dù vậy, thì hình phạt chính vẫn là một nội
dung quan trọng trong QĐHP mà Tòa án tuyên.
Từ các định nghĩa khoa học pháp lý nêu trên, theo quan điểm của
chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự thì khái niệm này được hiểu là:
Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức
hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong phạm
vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội.
Có thể nói, QĐHP là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
thực định, là một quá trình nhận thức lý luận mang tính logic để Tòa án lựa
chọn loại và mức hình phạt áp dụng với người có hành vi phạm tội theo quy


12
định của BLHS Việt Nam (bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm). Đề
cập tới khái niệm QĐHP chúng ta cần làm rõ những giai đoạn như: Định tội
danh, xác định khung hình phạt, và QĐHP.
Hiện nay, có các xu hướng cho rằng:
Thứ nhất: Xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn định tội danh;
vì khung hình phạt là một trong những bộ phận của việc định tội, cho nên
không thuộc về giai đoạn QĐHP.
Thứ hai: Xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn QĐHP vì những
lý do sau: Định tội danh xong sẽ QĐHP trên cơ sở giới hạn pháp luật hình sự
cho phép.
Theo chúng tôi, để đi tới QĐHP phải trải qua giai đoạn định tội danh
chính xác, dựa vào những căn cứ pháp lý của pháp luật hình sự, khoa học
chính xác thì mới đi đến kết quả cuối cùng là QĐHP.
Như vậy, QĐHP chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động
định tội danh, và người phạm tội được khẳng định là có tội. Người phạm tội
bị kết án bằng bản án của Tòa án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của
mình bằng hình phạt cụ thể. Để đi tới QĐHP cuối cùng phải định khung hình
phạt và quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. QĐHP bao
gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, có những trường hợp
người phạm tội bị kết án và chịu TNHS nhưng được miễn hình phạt.
Từ những phân tích khái niệm về QĐHP, cần so sánh mối quan hệ
giữa hình phạt và QĐHP chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau, Điều 26
BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về hình phạt như sau: "Hình phạt là biện
pháp nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội" [30]. Người phạm tội chỉ được áp dụng biện pháp
trừng trị nghiêm khắc bằng các hình phạt chính và hình phạt bổ sung khi có
QĐHP của cơ quan tư pháp là Tòa án.

13

Vì vậy, QĐHP là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự mà cơ quan làm
nhiệm vụ ra quyết định không thể là cơ quan nào là Tòa án nhân dân. Hoạt
động áp dụng pháp luật này, là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự bao gồm
cả Phần chung và Phần các tội phạm. Đây là việc lựa chọn các mức hình phạt
cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội để đưa ra quyết định cuối cùng nhân
danh Nhà nước áp dụng mức hình phạt và loại hình phạt cho người phạm tội.
Do đó, để có một QĐHP chính xác đòi hỏi sự tư duy lôgic cao độ của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân trong việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể
đối với tội phạm.
1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt
Trước khi BLHS năm 1999 được ban hành chính thức thì thuật ngữ
"căn cứ quyết định hình phạt" không được dùng trong các văn bản pháp luật
hình sự. Thuật ngữ này chỉ được dùng trong các bài báo, công trình nghiên
cứu của các nhà luật gia, nhà khoa học, báo cáo tổng kết, sơ kết của Tòa án
nhân dân tối cao hay trong nhiều giáo trình, sách tham khảo của các trường
Cao đẳng, Đại học
BLHS Việt Nam năm 1985 đã sử dụng thuật ngữ "nguyên tắc quyết
định hình phạt" tại Điều 37 BLHS năm 1985, bao hàm nội dung chính yếu của
nó chính là "căn cứ quyết định hình phạt". Nghiên cứu tính thống nhất của hai
thuật ngữ này chúng tôi nhận thấy không có sự đồng nhất với nhau, không
nên hiểu hai thuật ngữ này là một. Vì vậy, BLHS Việt Nam năm 1999 đã tách
hai thuật ngữ này và được đưa ra tại Điều 45 BLHS Việt Nam năm 1999.
Đến nay, khoa học luật hình sự vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
về căn cứ QĐHP. Hiện có các xu hướng đưa ra khái niệm về căn cứ QĐHP
như sau:
Căn cứ QĐHP "là những yêu cầu cơ bản (là chỗ dựa) buộc Tòa án
phải tuân theo QĐHP đối với người phạm tội" [27].

14
Điều 45 BLHS Việt Nam năm 1999 đã quy định cụ thể là cơ sở pháp

lý cơ bản nhất để QĐHP đó là: Khi QĐHP Tòa án căn cứ vào quy định của
BLHS thực định, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
TNHS. Khi QĐHP không tuân thủ các căn cứ (quy tắc) nêu trên dẫn tới
QĐHP thiếu công bằng, không chính xác, làm oan, sai cho người vô tội vì xác
định hành vi thực hiện tội phạm không có căn cứ.
Theo TS. Dương Tuyết Miên thì căn cứ QĐHP bao gồm những nội
dung cơ bản như sau: Căn cứ QĐHP "là cơ sở pháp lý được quy định trong
luật hình sự mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt cho người
phạm tội" [25, tr. 55]. Theo cách hiểu này là có cơ sở và đúng với tinh thần
của quy định pháp luật hình sự hiện hành. Từ những luận điểm nêu trên, có
thể đưa ra các một vài đặc điểm của căn cứ QĐHP như sau:
Thứ nhất: Căn cứ QĐHP là cơ sở pháp lý cơ bản đặc trưng nhất đó là
các quy định trong BLHS (gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm).
Thứ hai: Căn cứ QĐHP phải tuân thủ nghiêm chỉnh trong quá trình
hoạt động xét xử là: Lựa chọn và quyết định loại và mức hình phạt phù hợp
với hành vi tính chất hành vi hiểm mà tội phạm tội phạm thực hiện.
Căn cứ QĐHP trong BLHS Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, là nền
tảng cơ bản khi Tòa án tiến hành hoạt động QĐHP. Vì: 1) là cơ sở pháp lý để
Tòa án QĐHP tương xứng với hành vi phạm tội, hành vi nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội đó. 2) Tránh việc Tòa án không có căn cứ, thiếu
thống nhất và mâu thuẫn trong khi QĐHP. 3) Bảo đảm bản án của Tòa án có
tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý.
Những căn cứ QĐHP bao gồm các nội dung sau đây.
1.1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
Khi QĐHP căn cứ đầu tiên có ý nghĩa quan trọng là các quy định của
BLHS Việt Nam năm 1999. Quan điểm của chúng tôi cũng đồng nhất với

15
quan điểm của nhiều các học giả về luật hình sự hiện nay đó là căn cứ vào cả

Phần chung và Phần các tội phạm. Phần chung là phần có tính nguyên tắc và
Phần các tội phạm là dựa trên từng quy định của mỗi loại tội phạm và tội
phạm cụ thể có liên quan tới bị cáo. QĐHP khi có đủ căn cứ xác định một
người đã phạm một tội mà BLHS quy định, xâm phạm tới khách thể được
Luật hình sự bảo vệ. Đối chiếu với Phần chung và Phần các tội phạm, tìm ra
mối liên quan giữa các quy định của pháp luật hình sự với việc thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội của một bị cáo hay nhiều bị cáo. Có thể xem đây như
là đặc điểm cơ bản của các nước theo luật thành văn.
Căn cứ vào Phần chung của luật hình sự Tòa án khi QĐHP bao gồm
hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Áp dụng đúng khung hình phạt, loại
hình phạt mà điều luật quy định, không được áp dụng cao hơn mức cao nhất
của khung hình phạt.
Căn cứ vào các quy định của BLHS là quan trọng nhất trong các căn
cứ QĐHP. Căn cứ này thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đặc
biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền. Áp dụng sai điều luật sẽ
làm thay đổi bản chất của hình phạt, mục đích, và dẫn tới những sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
1.1.2.2. Quyết định hình phạt phải căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội
Thực tế cho thấy, nhiều loại tội phạm khác nhau, tính chất và mức độ
nguy hiểm khác nhau, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS cũng khác
nhau, do đó khi QĐHP cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác
định tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhưng đa phần đều có chung một đánh giá
mang tính định lượng nhiều hơn định tính.

16
Có ý kiến cho rằng: mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội "là tính
nguy hiểm của tất cả các tội phạm cùng loại so với các tội phạm khác loại,

còn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được hiểu là tính nguy hiểm
của một tội phạm cụ thể so với tội phạm khác cùng loại" [33, tr. 129].
Ý kiến khác đưa ra định nghĩa:
Tính chất nguy hiểm cho xã hội dùng để so sánh giữa các
trường hợp đã phạm tội thuộc các khung khác nhau của từng loại tội
phạm hay giữa các tội khác nhau trong cùng nhóm tội, hay giữa các
nhóm tội khác nhau trong Bộ luật hình sự. Còn mức độ nguy hiểm
cho xã hội được hiểu là tiêu chuẩn đánh giá, so sánh tính nguy hiểm
cho xã hội giữa các trường hợp phạm tội cụ thể đã thực hiện thuộc
cùng khung hình phạt của từng loại tội phạm [27, tr. 94]
Nhìn chung, việc xem xét đánh giá đầy đủ tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội, cần được Tòa án cân nhắc đúng đắn với tính chất mức độ tội
phạm đã thực hiện để QĐHP có căn cứ, tương xứng với hành vi mức độ
nghiêm trọng của tội phạm. Dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi: Tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội là những dấu hiệu (về chất) phản ánh sự
khác nhau giữa tội phạm này với tội phạm khác. Còn mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi là dấu hiệu (định lượng) phản ánh mức độ nguy hiểm cụ
thể của cùng một loại tội phạm được thực hiện trong các trường hợp khác nhau.
Nhà nước xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội làm căn cứ phân loại tội phạm và xác định khung hình phạt. Thực
tiễn xét xử cần dựa vào căn cứ này, và đánh giá chính xác "mức độ nguy hiểm
cho xã hội" cụ thể để có bản án chính xác không quá nặng hoặc quá nhẹ đối
với người phạm tội. Tuy nhiên, việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của phạm tội còn phụ thuộc vào các yếu tố cấu thành tội phạm, vì
tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu có một hành vi nào có dấu hiệu
của tội phạm nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể
thì không coi là tội phạm.

17
Khoản 4 Điều 8 BLHS Việt Nam hiện hành phân chia tội phạm thành

bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, Tội phạm nghiêm trọng, Tội phạm rất
nghiêm trọng và Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mặt khác, trong một loại tội
phạm thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau nên mức
hình phạt ở mỗi khung cũng khác nhau. Vì vậy, tính chất mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội chính là việc xem xét cách thức thực hiện hành vi của
người phạm tội, thời gian, không gian, địa điểm và đối tượng (khách thể) tác
động tới của tội phạm, động cơ mục đích, mức độ gây thiệt hại cho xã hội và
cho khách thể mà luật hình sự bảo vệ. Khái quát chung, từ những phân tích
nêu trên, tính chất mức độ của hành vi phạm tội là một trong các căn cứ quan
trọng khi QĐHP đối với bị can, bị cáo.
1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù xã hội phức tạp, nó là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong pháp luật hình
sự hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này. Trong tập I Tuyển
tập Mác - Anghen từng viết: "Bản thân con người không phải là những cái
trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nhóm bản
chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội" [22, tr. 257].
Có ý kiến cho rằng, nhân thân người phạm tội được hiểu là toàn bộ
các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên quan tới người phạm tội. Còn theo
quan điểm của chúng tôi: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc
điểm mang tính chất xã hội của cá nhân người phạm tội đó, mà những đặc
điểm này có ảnh hưởng đối với việc cá thể hóa TNHS và hình phạt khi Tòa
án áp dụng.
Từ khái niệm nêu trên, thấy rằng nhân thân người phạm tội là tổng
hợp tất cả các đặc điểm có ảnh hưởng nhất định tới hành vi phạm tội và khả
năng cải tạo giáo dục của người đó. Nhân thân người phạm tội còn là cách xét
tổng hợp giữa quan hệ của người đó với xã hội, gia đình và những người xung

18
quanh, cũng như các yếu tố khác bao gồm: Tuổi đời, nghề nghiệp, tình trạng

sức khỏe, trình độ văn hóa, chuyên môn, ngành nghề công tác, thành tích, kỷ
luật cá nhân, hoàn cảnh gia đình v.v , của người phạm tội. Tất cả các yếu tố
trên thuộc về cá nhân của người đó, mỗi người có một nhân thân khác nhau,
cùng thực hiện một tội phạm, nên Tòa án phải xem xét, dựa vào nhân thân của
từng bị cáo để có QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật.
Nhân thân bị cáo được ghi trong lý lịch của bị can bị cáo hoặc trong
các tài liệu khác có liên quan tới nhân thân người phạm tội ví dụ: Giấy khen,
bằng khen, thành tích đặc biệt được trao tặng, giấy chứng nhận về một danh
hiệu hoặc chức danh nào đó…
Hiện nay, pháp luật hình sự của các nước trên thế giới đều quy định rõ
nhân thân người phạm tội là căn cứ cho việc QĐHP. Tuy nhiên, các quốc gia
khác nhau thì quy định về các tình tiết nhân thân người phạm tội cũng khác
nhau. Nhưng tựu chung lại, nhân thân người phạm tội sẽ giúp cho Tòa án có
căn cứ QĐHP chính xác và hiệu quả.
Các yếu tố về nhân thân của bị can bị cáo cần phải được cơ quan tiến
hành tố tụng thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án và là tài liệu cơ bản chính thức
cho vụ án. Nếu không dựa vào căn cứ về nhân thân của bị cáo để làm căn cứ
QĐHP sẽ dẫn tới việc QĐHP không chính xác, không công bằng và không
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật hình sự.
Luật hình sự Việt Nam hiện hành quy định một số các trường hợp thuộc
về yếu tố nhân thân người phạm tội là yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt
(nhân thân người phạm tội mang tính chất pháp lý). Ví dụ: Người đang bị
bệnh hiểm nghèo, người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, là yếu tố
định khung hình phạt, hoặc quy định là tình tiết giảm nhẹ TNHS (người đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS đối với các tội rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 BLHS). Những người
mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mất khả năng nhận thức và điều khiển

19
hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS mà chỉ chịu các biện pháp bắt

buộc chữa bệnh (khoản 1 Điều 13 BLHS)… Hoặc không áp dụng hình phạt tử
hình hoặc tù chung thân đối với người phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, không áp
dụng hình phạt tiền đối với người chưa đủ 16 tuổi, không áp dụng hình phạt
tử hình với phụ nữ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi
người đó phạm tội hoặc trong giai đoạn xét xử… Những người có thành tích
xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác, có nhiều cống hiến
cho quê hương, đất nước khi phạm tội được căn cứ là những tình tiết giảm
nhẹ TNHS.
Thông thường người ta dễ nhầm lẫn giữa nhân thân người phạm tội
với chủ thể của tội phạm, vì nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm
đều liên quan tới người phạm tội đó. Nhưng nhân thân người phạm tội và chủ
thể của tội phạm là hai khái niệm khác nhau. Chủ thể của tội phạm là một trong
bốn yếu tố cấu thành tội phạm và là một trong các điều kiện của TNHS. Còn
nhân thân người phạm tội là tổng hợp các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt liên
quan tới một con người, nhân thân nói lên tính chất của con người đó (tốt hay
xấu, có khả năng giáo dục và cải tạo thành người có ích cho xã hội ).
Bên cạnh những yếu tố nêu trên, có những yếu tố mà pháp luật chưa
quy định là yếu tố định tội định khung hình phạt, hoặc là tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS (nhân thân người phạm tội không mang tính pháp lý) khi
xem xét để QĐHP, Tòa án cần phải căn cứ cả những mặt tốt hoặc các mặt xấu
của người đó để QĐHP. Cần đánh giá một cách nghiêm túc khả năng cải tạo,
giáo dục và nhân cách của từng bị can bị cáo có thể cải tạo trở thành người có
ích cho xã hội.
1.1.2.4. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Tội phạm là một hiện tượng xã hội, tội phạm xảy ra, xâm hại đến các
quan hệ xã hội khác nhau, có tính chất mức độ nguy hiểm khác nhau. Nhưng

20
nếu chúng cùng xâm hại đến một quan hệ xã hội thì mỗi hành vi phạm tội

cũng có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Vì sự khác
nhau đó, mà nhà làm luật không thể quy định mức hình phạt cụ thể cho từng
hành vi phạm tội, mà chỉ quy định khung hình phạt cho một số nhóm hành vi
giống nhau cơ bản về chất nhưng không khác nhau về lượng được Nhà nước
quy định hai nhóm tình tiết nội dung ý nghĩa trái ngược nhau.
Với một người phạm tội cụ thể, chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ
nguy hiểm trong phạm vi một cấu thành chứ không làm thay đổi tính chất của
tội phạm đó. Do vậy, những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS phải là những
tình tiết liên quan tới vụ án. Ngược lại những tình tiết không liên quan tới vụ
án thì không thể là tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS khi QĐHP.
ThS. Đinh Văn Quế cho rằng: "Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS
là những tình tiết có trong một vụ án cụ thể, làm giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự của một người trong một khung hình phạt cụ thể" [27, tr. 106].
Còn tình tiết giảm nhẹ TNHS dưới góc độ khoa học luật hình sự là:
Những tình tiết quy định trong Bộ luật hình sự hoặc do Tòa án xem xét để
giảm nhẹ TNHS và hình phạt đối với người phạm tội trong một khung hình
phạt nhất định.
Theo chúng tôi tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS là: Những tình tiết
làm cho những trường hợp phạm tội cụ thể, mỗi tội phạm khác nhau về mức
độ nguy hiểm cho xã hội. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt lượng hình,
tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS, hình phạt trong khung hình phạt nhất định.
Trong phạm vi này, chúng tôi chỉ nêu ra các tình tiết giảm nhẹ TNHS
tại Điều 46 BLHS Việt Nam năm 1999 và hướng dẫn Nghị quyết của Tòa án
nhân dân tối cao số 01/2000 của Hội đồng thẩm phán về việc: Hướng áp dụng
một số quy định trong Phần chung của BLHS năm 1999.
Thứ nhất: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tức là người phạm tội đã
ngăn chặn, làm giảm bớt các tác hại của tội phạm; người phạm tội tự nguyện

×