Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tội pháp hoại chính sách đoàn kết trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ KHÁNH TOÀN




Tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong luật hình sự Việt Nam




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2010








ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ KHÁNH TOÀN




Tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong luật hình sự Việt Nam


Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Quang Tiếp





Hà nội - 2010




Mục lục của luận văn



Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục


Mở đầu
1

Chương 1: Một số vấn đề chung về tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong luật hình sự việt nam
8
1.1
Khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết và ý nghĩa của việc quy định
tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
8
1.1.1.
Khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết
8

1.1.2.
ý nghĩa của việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật hình
sự Việt Nam
14
1.2.
Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về tội phá hoại chính sách đoàn kết
17
1.2.1.
Giai đoạn từ năm 939 TCN đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
18
1.2.2.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1985
21
1.2.3.
Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong pháp luật hình sự Việt Nam từ khi
pháp điển hoá hình sự năm 1985 đến nay
27
1.3.
Những quy định về tội phá hoại chính sách đoàn kết trong pháp luật hình
sự một số nước trên thế giới
29
1.3.1.
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
29
1.3.2.
Vương quốc Thuỵ Điển
31
1.3.3

Liên bang Nga
33

Chương 2: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong bộ luật hình sự
năm 1999 và thực tiễn áp dụng
35
2.1.
Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong Bộ luật hình sự năm 1999
35
2.1.1.
Khách thể của tội phạm
35
2.1.2.
Mặt khách quan của tội phạm
36
2.1.3.
Chủ thể của tội phạm
43
2.1.4.
Mặt chủ quan của tội phạm
45
2.2.
Hình phạt đối với phá hoại chính sách đoàn kết trong Bộ luật hình sự năm
1999
48
2.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội phá hoại
chính sách đoàn kết
53


Chương 3: hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật hình sự về tội phá hoại chính sách đoàn
kết
68
3.1.
Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự về tội phá hoại chính sách đoàn kết
68
3.2.
Hoàn thiện những quy định pháp luật hình sự về tội phá hoại chính sách
đoàn kết
71
3.3.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội phá hoại chính sách đoàn kết
73
3.3.1.
Chủ động phòng ngừa, kịp thời phát hiện, đấu tranh có hiệu quả đối với
các hành vi phá hoại chính sách đoàn kết
73
3.3.2.
Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về tội phá hoại chính sách đoàn kết và các tội phạm
khác có liên quan
78
3.3.3.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tội phá hoại chính sách đoàn
kết và các âm mưu, phương thức thủ đoạn phá hoại chính sách đoàn kết
81

3.3.4.
Nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng cho
cán bộ tư pháp
84

Kết luận
87

Danh mục tài liệu tham khảo
89


1
Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
"Đoàn kết" là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam
trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tinh thần dân tộc và sức mạnh của
dân tộc là điểm tựa vững chắc cho mọi quyết sách mà ông cha ta bao đời đã
vận dụng để đánh thắng mọi kẻ thù. Kế thừa và phát huy truyền thống đó,
ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn luôn coi trọng, củng
cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với
sức mạnh quốc tế, sức mạnh truyền thống với sức mạnh thời đại, lãnh đạo
nhân dân Việt Nam liên tiếp giành được những thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu
tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
chia rẽ dân tộc, phá hoại nền độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là một sự thật lịch sử mà cho đến hôm nay, các
thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu và hành động chống phá. Những năm
đầu thế kỷ XXI, chiêu bài dân chủ, tôn giáo gắn với nhân quyền vẫn được coi

là lá bài để bọn phản động lợi dụng chống phá công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực đấu
tranh ngăn chặn các hành vi gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, gây hằn
thù, kỳ thị, chia rẽ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng của các dân tộc Việt
Nam, đặc biệt là các hành vi gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không
theo tôn giáo, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, chia rẽ
người dân tộc và người Kinh , góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội phá hoại chính sách đoàn kết. Trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay,
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phá hoại chính sách đoàn kết càng được

2
coi trọng và đưa lên hàng đầu. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp
luật hình sự về tội phá hoại chính sách đoàn kết cho thấy, còn có nhiều bất
cập, vướng mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu giải quyết. Vì
vậy, việc nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận về tội phá hoại chính sách
đoàn kết và thực trạng quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này trong
thực tiễn không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng,
mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc
tác giả quyết định chọn đề tài "Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật
hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về
tội phá hoại chính sách đoàn kết, mà chỉ có một số công trình nghiên cứu về
các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung. Có thể nhắc đến một số công
trình nghiên cứu đáng chú ý sau: GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ biờn): "Bảo vệ
an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật
hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2007; Bạch Thành Định: "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong luật

hình sự Việt Nam", Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2001; GS.TSKH Lê Cảm: "Những vấn đề lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia
bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 7, 2007; GS.TSKH Lê Cảm: "Nhà nước pháp quyền
trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người
bằng pháp luật hình sự", Tạp chí kiểm sát; PGS.TS Kiều Đình Thụ: "Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, lịch sử, thực trạng và phương hướng hoàn
thiện", Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 1994; "Hoàn thiện các quy
định về trách nhiệm hình sự đối với các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 1995); "Về các tội đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia", Tạp chí Công an nhân dân, 1995

3
Ngoài ra, một số giáo trình do tập thể tác giả của trường, khoa Luật
biên soạn phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu trong các trường đại học
có đề cập đến tội phá hoại chính sách đoàn kết như: Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (tập 1), do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2006; Bình luận các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự năm
1999, do TS. Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003
Tuy nhiên, các công trình nói trên mới chỉ dừng lại ở việc đề cập dấu
hiệu cấu thành các tội xâm phạm an ninh quốc gia nói chung, chưa có công
trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về tội phá hoại chính sách
đoàn kết, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành và
phát triển của các quy phạm về nó từ thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám đến
nay, tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, cũng như chỉ ra các tồn tại, vướng
mắc trong thực tế để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
phạm pháp luật về tội phạm này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý
luận và thực tiễn về tội phá hoại chính sách đoàn kết theo luật hình sự Việt
Nam, chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng quy định
này trong thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng những quy định pháp luật hình sự đối với tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tội phá
hoại chính sách đoàn kết, lịch sử hình thành và phát triển của tội phá hoại

4
chính sách đoàn kết trong sự phát triển chung của pháp luật hình sự Việt
Nam, ý nghĩa của việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật
hình sự Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự đối với tội phá hoại chính sách đoàn
kết, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh thực tiễn áp dụng, đề xuất
hoàn thiện và đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm này ở nước ta hiện nay.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật
hình sự Việt Nam.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội phá hoại chính sách đoàn kết dưới góc độ
pháp lý hình sự, trong thời gian từ năm 1985 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng, chống về tội phạm nói
chung, quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm trong

quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, cũng như thành tựu
của các ngành khoa học pháp lý như lý luận chung nhà nước và pháp luật, xã
hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học,
những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo
và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt
Nam và nước ngoài.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân
tích và so sánh, phương pháp tổng hợp, thống kê đồng thời, việc nghiên cứu

5
đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của nhà nước và những giải thích
thống nhất có tính chất chỉ đạo thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình
sự của Tòa án nhân dân tối cao, các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương có
liên quan đến tội phá hoại chính sách đoàn kết, những số liệu thống kê, tổng
kết hằng năm trong các báo cáo của ngành Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và địa phương và các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn
xét xử, cũng như thông tin trên mạng Internet
Trong quá trình nghiên cứu các phương pháp này được vận dụng một
cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự
Việt Nam nghiên cứu tương đối đầy đủ và có hệ thống những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng đối với tội phá hoại chính sách đoàn kết ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học. Trong luận văn này, tác giả luận văn đã giải quyết
về mặt lý luận một số vấn đề sau:
1- Nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn
đề lý luận chung về tội phá hoại chính sách đoàn kết.
2- Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm
pháp luật hình sự về tội phá hoại chính sách đoàn kết, từ đó rút ra những nhận

xét, đánh giá về giá trị lập pháp truyền thống của cha ông về tội phạm này.
3- Phân tích những quy định cụ thể của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 về tội phá hoại chính sách đoàn kết với những tình tiết định tội, định
khung giảm nhẹ, đồng thời nghiên cứu so sánh với pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới để đưa ra những kết luận khoa học về việc tiếp tục hoàn
thiện tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 1999.
4. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng, luận văn đã đề xuất hoàn

6
thiện và đưa ra các giải pháp cụ thể trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phá hoại chính sách đoàn kết để đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phá hoại chính sách đoàn kết ở Việt Nam.
- Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ
đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn về tội phá hoại chính sách đoàn kết ở cấp độ một luận
văn thạc sĩ luật học. Luận văn cung cấp các luận cứ khoa học nhằm góp phần
hoàn thiện quy định tại Điều 87 Bộ luật hình sự năm 1999 (về tội phá hoại
chính sách đoàn kết), đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn: từ những khó khăn, vướng mắc mà thực tiễn áp
dụng pháp luật đang gặp phải, những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và tội phá hoại chính sách đoàn kết nói riêng. Đồng thời cũng đưa ra
các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tội phá hoại chính
sách đoàn kết ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực
tiễn. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực

lượng tham gia đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này ở Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học-luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục,

7
cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Bộ luật hình sự
năm 1999 và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phá hoại chính sách đoàn kết.
















8

Chương 1
Một Số Vấn Đề CHUNG Về Tội Phá Hoại
Chính Sách Đoàn Kết TRONG Luật Hình Sự Việt NAM

1.1. Khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết và ý nghĩa của việc quy định tội
phạm này trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết
Để có thể làm rõ khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết, trước hết
cần làm rõ khái niệm đoàn kết, chính sách đoàn kết.
Theo Từ điển tiếng Việt thì "đoàn kết là sự đồng thuận và đóng góp của
mỗi cá nhân trong một nhóm vì một mục đích hay một công việc chung nào đó
mà không làm phương hại đến lợi ích của người khác" [25]. Trong thực tế lịch
sử dân tộc ta, "đoàn kết" không chỉ là cái gốc, là động lực; mà đoàn kết còn là
mục tiêu của cuộc sống nữa: thương yêu, đùm bọc trong tình đồng loại, trong
"tình làng nghĩa xóm", vốn là truyền thống nhiều đời của con người Việt
Nam. Đó chính là tầm cao hơn của đoàn kết; là tính xã hội rộng nhất, tính
nhân văn sâu sắc nhất, tính không vụ lợi rõ rệt nhất và cũng là tình người cao
cả nhất!
Như vậy, đoàn kết là nền tảng của sự phát triển bền vững. Có đoàn kết
mới có dân chủ. Trong xu thế hội nhập hiện nay của thế giới, đoàn kết càng
trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Chúng ta phải biết đoàn kết để tạo nên sức
mạnh tổng hợp, cùng hướng tới một sự phát triển bền vững.
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu
tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng


9
của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn
kết" trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân
tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng.
Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!"
Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt đảng tuyên bố trước toàn thể dân
tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ
quốc". Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của đảng.
Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong
Di chúc, người dặn lại chúng ta: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình" [23].
Nước ta là một cộng đồng gồm 54 dân tộc anh em. Ngay từ những
ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Bác Hồ đã nói: "Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu
số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống
chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau… Giang sơn và Chính
phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt
chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta". Dân tộc Việt Nam được
hiểu là người dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở Việt Nam và những
người Việt sinh sống, làm ăn ở nớc ngoài có gốc gác là người Việt Nam,
không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc không theo tín
ngỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu hay nghèo, họ là nam hay nữ, già


10
hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người
dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Ta
đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự
Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".
Để đoàn kết tôn giáo, Hồ Chủ tịch có thái độ ứng xử rất mềm dẻo, tế
nhị với các chức sắc tôn giáo, quan tâm đến cuộc sống đời thường của tín đồ.
hơn ai hết, Người luôn hiểu rằng: chức sắc các tôn giáo là những người thay
mặt Đức Chúa, Đức Phật "chăn dắt" phần hồn tín đồ các tôn giáo, giáo dân
tin họ, nghe theo họ tức là tin và nghe theo đức Chúa, đức Phật; vì vậy, uy tín
và tiếng nói của họ đối với tín đồ tôn giáo là rất lớn. Chính vì vậy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn bày tỏ thái độ thân thiện, đoàn kết thân ái và cộng tác khá
chặt chẽ với nhiều vị Giám mục, Linh mục, Hòa thượng, Thượng tọa, Chưởng
quản [22, tr. 497].
Đối với Phật giáo, nhân những ngày lễ lớn như ngày Đức Phật Thích
Ca thành đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư chúc mừng, điều đó
làm cho các tín đồ phật giáo rất phấn khởi vì Cụ Chủ tịch mặc dù rất bận
song vẫn quan tâm đến ngày vui của họ. Lời lẽ, ngôn từ trong thư rất giản dị,
mộc mạc nhưng lại hết sức gần gũi với kinh sách nhà Phật. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: "Các vị tăng ni và các tín đồ thân mến. Nhân dịp lễ Đức Phật
Thích Ca thành đạo, tôi thân ái gửi đến các vị tăng ni và đồng bào tín đồ lời
chào đại hòa hợp" [22, tr. 498].
Đối với tín đồ các tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm
đến đời sống tâm linh của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, người đặc biệt quan
tâm đến đời sống hằng ngày của người dân có tôn giáo. Người thường xuyên
nhắc nhở cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt của
đồng bào, từ ăn, mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải được chữa bệnh.
Người đã nói: giáo dân không thể chịu đói, chịu rét đi lễ nhà thờ, do vậy phải


11
chăm lo cho họ "phần xác" no ấm, "phần hồn" vui vẻ; các cơ sở thờ tự của các
tôn giáo như đình chùa, miếu mạo, thánh thất, nhà thờ phải được tu sửa, bảo vệ.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực
lượng nào là nền tảng của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức
là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc
của đại đoàn kết".
Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là mặt trận dân tộc thống
nhất. Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi
người dân nước Việt trong nước và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc
phục đoàn kết xuôi chiều, hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt
tốt. Người viết: "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập
trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào mặt
trận Việt Minh: dân ta phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh".
Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây
dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt
trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách mặt trận
đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận
dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu
nước rất vẻ vang của dân tộc ta".
Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho
việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân


12
tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
[23].
Lịch sử đã chứng minh, đoàn kết, thống nhất các dân tộc là yếu tố có
ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Kế thừa và phát
huy truyền thống đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
luôn luôn coi trọng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế, sức mạnh truyền thống với
sức mạnh thời đại, lãnh đạo nhân dân Việt Nam liên tiếp giành được những
thắng lợi vĩ đại trong cuộc đấu tranh vì độc lập của tổ quốc, tự do hạnh phúc
của nhân dân. Trên cơ sở giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích của các dân
tộc được Đảng ta xác định là sứ mệnh trọng đại, một nhiệm vụ chiến lược
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Khối đại đoàn kết keo sơn -
nhân tố phá vỡ âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, người Kinh chiếm 86,2%; 53 dân
tộc anh em khác, với khoảng 14 triệu người, chiếm 13,8% dân số cả nước. các
dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng, chủ yếu ở miền núi, vùng cao, vùng
trung du, nơi có khoảng 3.000 km đường biên giới giáp với các nước Trung
Quốc, Lào, Cam-pu-chia, được coi là "phên dậu" của quốc gia, có ý nghĩa quan
trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng của đất nước.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta được hình thành từ trong cội
nguồn lịch sử sâu xa. Người Việt Nam ý thức rằng, mình sinh ra cùng một
bọc trứng, gắn với nhau bởi nghĩa "đồng bào", dù sống ở đâu đều có chung
một cội nguồn, một ngày giỗ tổ Hùng Vương. Truyền thống đó được hun đúc
qua bề dày lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, đã tồn tại như một
quy luật sinh tồn của dân tộc. ở thời kỳ nào nhân dân đoàn kết "trên dưới một
lòng" thì đất nước hưng thịnh, thời kỳ nào "lòng người ly tán, chia rẽ và loạn
ly" là lúc dân tộc suy vong, thù trong giặc ngoài, có nguy cơ mất nước.


13
Học tập tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã khẳng định: "Đoàn
kết là truyền thống quý báu và bài học lớn của cách mạng nước ta"
.
. Đại hội ix
của Đảng nhấn mạnh: "Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc". Những thành tựu nước ta gặt hái được trong những năm qua,
với sự phát triển về kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, có điều
kiện tiên quyết từ chiến lược đoàn kết các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đoàn kết thể hiện qua những vấn đề sau:
1- Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp,
thành phần, mọi giới, mọi lứa tuổi, người trong Đảng và người ngoài Đảng,
người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình
dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài.
2- Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu
nước và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những điểm
khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần
cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
3- Củng cố và phát triển sâu rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt
trận tổ quốc trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
4- Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng. Thực hiện dân chủ trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v ở tất cả các cấp các ngành [55].

Theo Từ điển tiếng Việt thì phá hoại là "hành vi cố ý không làm hoặc

14
làm cho hư hỏng, cho bị thiệt hại nặng nề" [25]. ở Việt Nam, phá hoại chính
sách đoàn kết dân tộc nhằm chống chính quyền nhân dân là tội phạm mang
tính phá hoại và được quy định tại Điều 87 Bộ luật hình sự.
Tiếp theo đó cần làm rõ khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết.
Tội phá hoại chính sách đoàn kết là một trong mười bốn tội phạm xâm phạm
an ninh quốc gia, được quy định tại Điều 87 Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999. Do vậy, tội phá hoại chính sách đoàn kết thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu
pháp lý cấu thành cơ bản tội phạm. Trong công trình nghiên cứu pháp lý
"Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)", GS.TSKH
Lê Cảm cho rằng, tội phạm phải đầy đủ ba bình diện tương ứng với năm đặc
điểm (dấu hiệu của nó) là: (1) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội; (2) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật; (3)
bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [4, tr.
297].
Khái niệm tội phá hoại chính sách đoàn kết cũng đã được một số sách,
báo pháp lý nước ta đề cập. Trong công trình nghiên cứu pháp lý "Bảo vệ an
ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự,
đưa ra định nghĩa pháp lý tội phá hoại chính sách đoàn kết là "bất kỳ hành vi nào
(được liệt kê tại điều luật đó nờu) xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến việc
thực hiện chính sách đoàn kết được pháp luật hình sự bảo vệ nhằm mục đích
chống chính quyền nhân dân theo quan điểm của nhà làm luật [5] hay trong Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Trường Đại học Luật Hà Nội (2006): "Tội
phá hoại chính sách đoàn kết là hành vi tuyên truyền, kích động hoặc bằng thủ
đoạn khác chia rẽ sự đoàn kết thống nhất toàn dân, đoàn kết dân tộc, tôn giáo,
đoàn kết quốc tế với mục đích chống chính quyền nhân dân" [18, tr. 351].
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tội phá hoại chính

sách đoàn kết như sau: Tội phá hoại chính sách đoàn kết là những hành vi

15
tuyên truyền, kích động hoặc bằng thủ đoạn khác chia rẽ sự đoàn kết thống
nhất toàn dân, đoàn kết dân tộc, tôn giáo, đoàn kết quốc tế, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích chống
chính quyền nhân dân.
1.1.2. ý nghĩa của việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết
trong Luật hình sự Việt Nam
Qua nghiên cứu tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật hình sự
Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một số ý nghĩa cơ bản của việc ghi nhận tội
danh này trong luật hình sự như sau:
Thứ nhất, việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung
và tội phá hoại chính sách đoàn kết nói riêng.
Cuộc đấu tranh phòng, chống tội phá hoại chính sách đoàn kết là một
bộ phận của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung nhằm bảo vệ sự
tồn tại và vững mạnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lực lượng tham gia cuộc đấu tranh này không chỉ là một cá nhân, cơ quan, tổ
chức, công dân nhất định mà là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, của toàn
xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Nghị quyết ix Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: "Tăng cường quốc
phòng, giữ vững an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân". Để làm thất bại mọi âm mưu
chống phá sự nghiệp xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của các
thế lực thù địch, bên cạnh những nhiệm vụ kinh tế, mở rộng dân chủ, tăng
cường tiềm lực quốc phòng và an ninh của đất nước, còn phải thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự hiện hành, các cơ quan áp
dụng pháp luật căn cứ vào quy định của luật để tiến hành xử lý nghiêm minh


16
những người thực hiện hành vi phá hoại sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn
giáo, đoàn kết quốc tế. Việc xử lý trên không chỉ mang ý nghĩa giáo dục, răn
đe mà còn thể hiện thái độ nghiêm trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc
trấn áp tội phạm nói chung và tội phá hoại chính sách đoàn kết nói riêng.
Thứ hai, việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết trong luật hình
sự Việt Nam thể hiện quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
việc thực hiện chính sách đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của dân tộc ta trong
từng thời kỳ cách mạng. Hiện nay các thế lực thù địch thường lợi dụng tôn
giáo và các vấn đề về dân tộc để nhằm chống phá nhà nước Việt Nam, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Vì vậy, việc ghi nhận tội
phá hoại chính sách đoàn kết trong luật hình sự sẽ giúp cho nhân dân nhận rõ
và đập tan âm mưu, phương thức thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ix đã nêu rõ Đảng và Nhà nước ta:
Thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền
sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật; đoàn kết và
chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, phát triển đời sống của đồng
bào. Từng bước hoàn thiện về luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo.
Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng tôn
giáo để hoạt động trái pháp luật và trái chính sách của Nhà nước,
kích động chia rẽ dân tộc, gây rối xâm phạm an ninh quốc gia [9].
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng khối đại đoàn kết dân
tộc, điều này đã được thể hiện ngay từ những ngày đầu thành lập và trải qua
các cuộc kháng chiến và hiện nay quan điểm đó vẫn tiếp tục được thực hiện
một cách nhất quán.
Thứ ba, việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết góp phần hoàn


17
thiện pháp luật hình sự, tiến tới mục tiêu chung xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Từ khi đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường và xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay, diễn biến của tình hình tội phạm nói chung,
cũng như tình hình các tội phạm phá hoại chính sách đoàn kết có những diễn
biến phức tạp và có xu hướng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về
tính chất, hậu quả ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của nước ta trên trường quốc
tế. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo
loạn, lật đổ hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân tộc. Chúng triệt
để lợi dụng khó khăn của các địa bàn trọng điểm, vùng tập trung đồng bào tôn
giáo, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; lợi dụng
mặt trái của nền kinh tế thị trờng và những sơ hở, thiếu sót, yếu kém của ta
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội để chống phá, xuyên tạc đường lối của
Đảng, Nhà nước ta và kích động, lôi kéo quần chúng. Trước những âm mưu,
thủ đoạn thâm độc này, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động xây dựng và triển
khai các đối sách đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị,
phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một trong những chiến lược quan trọng đó là
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Do
vậy, việc quy định tội phá hoại chính sách đoàn kết trong pháp luật hình sự
Việt Nam đã một phần đáp ứng được yêu cầu này trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, việc ghi nhận tội phá hoại chính sách đoàn kết trong pháp luật
hình sự còn mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
Những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt được trong
những năm vừa qua đã tạo cơ sở và niềm tin cho các thế hệ đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Việc quy
định tội phá hoại chính sách đoàn kết là một trong các tội xâm phạm an ninh


18
quốc gia, có khách thể đặc biệt quan trọng được pháp luật hình sự bảo vệ với
chế tài rất nghiêm khắc đã một lần nữa khẳng định và thể hiện quyết tâm bảo
vệ thành quả đã đạt được trong những năm vừa qua của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam về tội phá hoại chính sách đoàn kết
Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự không thể tách rời nghiên cứu
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể cũng như các quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự ghi nhận bảo vệ, càng không thể thoát ly các đặc điểm
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng thời kỳ lịch sử mà trong đó các
văn bản pháp luật hình sự được ban hành. Pháp luật hình sự luôn luôn thể
hiện hai mặt cơ bản: trước hết đó là sự kết tinh những giá trị phổ biến, những
kinh nghiệm về đấu tranh phòng chống tội phạm của các giai đoạn, thời kỳ
trước đó và từ giai đoạn nó được ban hành; mặt khác, pháp luật hình sự được
ban hành để bảo vệ lợi ích giai cấp và trật tự xã hội theo quan điểm của giai
cấp thống trị. Do vậy, cả hai mặt đó đều phải được nghiên cứu đồng thời để
rút ra những giá trị hợp lý nhằm kế thừa và phát triển.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự trên cơ sở những quan điểm nêu
trên, chúng ta mới thấy rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của pháp luật hình sự
trong từng giai đoạn lịch sử, mới có thể hiểu đầy đủ, đúng đắn nội dung của
các quy phạm và chính sách hình sự của nhà nước. Lịch sử lập pháp hình sự
Việt Nam về tội phá hoại chính sách đoàn kết từ luật Hồng Đức đến nay có
thể chia thành các giai đoạn sau đây.
1.2.1. Giai đoạn từ năm 939 TCN đến trƣớc Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Thời kỳ này bắt đầu từ khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán,
xưng vương lập ra nhà Ngô năm 939. Theo sử sách ghi lại, việc quy định
hành vi nào là tội phạm và hình phạt được áp dụng dưới thời Đinh, Lê đều

19

phụ thuộc vào ý chí chủ quan của vua hay các viên quan đứng đầu khu vực.
Mặc dù chưa có tài liệu chứng minh pháp luật thời kỳ này đã quy định tội
phá hoại chính sách đoàn kết hay chưa? nhưng các nhà sử học đã ghi lại
trong thời kỳ này, Đinh Bộ Lĩnh rất nghiêm khắc với những hành vi phản lại
hoặc trái với vua, quan quân triều đình (vua thời kỳ này được coi là con trời)
và quy định hình phạt rất nghiêm khắc, tương ứng với những hành vi mà
Vua và những quan lại coi là trái phép: "Người nào trái phép sẽ bị bỏ vạc
dầu hay cho hổ ăn".
Thời vua Lê Đại Hành vẫn giữ nguyên hình phạt và cách thức thi hành
các hình phạt đó. Theo lời sớ của Tổng Cảo, thì cách xử tội của Lê Hoàn như
sau: "Tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi hoặc đánh từ 100 đến 200 roi. Bọn giúp
việc, ai hơi có điều gì làm phật ý cũng bị đánh từ 30 đến 50 roi, truất làm tên
gác cổng, khi hết giận lại gọi về làm chức cũ". Có điều thời kỳ này chúng ta
chưa thể xác định đã có luật thành văn hay chưa.
Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, thời kỳ này, quyền thống trị
của giai cấp phong kiến đã được xác lập, tổ chức cai trị có quy củ hơn. Để củng
cố quyền hành của mình, ổn định tình hình xã hội, năm 1042, Lý Thái Tông đã
xuống chiếu ban hành bộ Hình thư, gồm có 03 quyển, nhằm tránh sự tùy tiện của
các quan khi xét xử, tránh cho dân chúng bị xét xử oan sai. Đây là Bộ luật hành
văn đầu tiên nước ta, nhưng rất tiếc hiện nay bộ Hình thư không còn nữa. Theo tác
giả Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh, dưới thời Lý, chế định về "Thập
ác tội" đã được công nhận trong luật, trong đó có quy định về tội mưu phản, tội
đại mưu nghịch, nhưng nội dung như thế nào thì chúng ta không nắm bắt được.
Dưới thời Trần, có hai bộ luật được ban hành dưới thời vua Trần Thái
Tông và Trần Dụ Tông có tên gọi là Hình Luật thư, nhưng cũng như Hình thư
thời nhà Lý, hai bộ luật nhà Trần cũng bị thất lạc, cho nên chúng ta cũng
không thể biết về từng điều khoản của hai bộ luật đó. Tuy nhiên, nhìn chung
pháp luật hình sự nước ta thời kỳ này đã từng bước hình thành và phát triển.

20

Dưới thời Lê, hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp hình sự nói
riêng của nhà Lê được tiến hành thành công nhất dưới đời vua Lê Thánh Tông
với sự ra đời của Quốc triều Hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức nổi
tiếng vào năm 1483.
Theo Bộ luật Hồng Đức, tội phạm là việc xâm hại đến sự an toàn, bất
khả xâm phạm của chế độ quân chủ triều Lê, mà trước hết là sự an toàn của
nhà vua và hoàng cung, xâm phạm trật tự kỷ cương, đạo đức xã hội theo quan
điểm nho giáo, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản của con
người. Bộ luật Hồng Đức nói riêng và luật phong kiến nói chung luôn coi
trọng nguyên tắc đạo đức, do đó, có nhiều hành vi mà theo luật hình sự hiện
nay chỉ có thể là hành vi vi phạm đạo đức, hoặc vi phạm pháp luật khác đã được
quy định trong Bộ luật Hồng Đức là tội phạm. Bộ luật Hồng Đức đã xây dựng
được những quy định như: Điều 132 quy định: "Những người chỉ trích vua
mà tình lý rất tệ hại (lời chỉ trích nguy hại đến nhà vua thì bị xử tội chém,
không gây nguy hại cho nhà vua thì bị xử đồ làm phường binh)". Nhỡ miệng
nói càn thì giảm tội một bậc [32, tr. 73]; Điều 133 Bộ luật Hồng Đức:
Những kẻ nào dâng thư nặc danh phạm đến việc lớn của
quốc gia thì bị xử tội chém; không phải việc đại sự thì xử tội lưu đi
châu gần; gia sản bị tịch thu sung công; người tố cáo ra thì được
thưởng tước tùy theo nặng nhẹ. Thư nặc danh phỉ báng chính sự
thời hiện thời, tình lý nặng thì xử tội lưu đi châu gần, nhẹ thì xử đồ
làm tượng phương binh; cáo giác tội người khác xử tội biếm ba tư.
Người chủ ty nhận được thư nặc danh cáo giác mà không đốt đi, lại
đem nộp quan hay tâu vua hay đem truyền tụng, thì xử phạt 50 roi,
biếm một tư [32, tr. 73-74].
Như vậy, mặc dù Bộ luật Hồng Đức chưa xây dựng định nghĩa pháp
lý cụ thể, nhưng cũng đã quy định về hành vi tuyên truyền, kích động chống
lại lợi ích của giai cấp thống trị nhà nước phong kiến tập quyền và hậu quả

×