Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 124 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ BÍCH NGỌC







TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ BÍCH NGỌC






TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Chí







HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI NIỆM VÀ DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI CÔNG

NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
7
1.1.
Khái niệm và lịch sử lập pháp của tội công nhiên chiếm đoạt
tài sản
7
1.1.1.
Khái niệm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
7
1.1.2.
Lịch sử lập pháp của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
12
1.2.
Dấu hiệu pháp lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
18
1.2.1.
Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
19
1.2.2.
Mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
24
1.2.3.
Chủ thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
31
1.2.4.
Mặt chủ quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
34

Chương 2: ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN VÀ PHÂN BIỆT VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC

40
2.1.
Đường lối xử lý tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo luật
hình sự Việt Nam
40
2.1.1.
Phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không có các tình tiết
định khung hình phạt
40
2.1.2.
Các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt
49
2.1.3.
Hình phạt bổ sung
56
2.2.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
57
2.2.1.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội cướp giật
tài sản
57
2.2.2.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội cưỡng đoạt
tài sản
61
2.2.3.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội cướp tài sản
66

2.2.4.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp
tài sản
71
2.2.5.
Phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội chiếm giữ
trái phép tài sản
73

Chương 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN
78
3.1.
Thực trạng xét xử tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
78
3.1.1.
Thực tiễn xét xử tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
78
3.1.2.
So sánh thực trạng xét xử tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với
các tội phạm và các tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
87
3.1.3.
Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
91
3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh, phòng chống tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

96
3.2.1
Tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự để pháp điển hóa về tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn công tác điều tra,
truy tố, xét xử
96
3.2.2.
Tăng cường hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung về tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản
100
3.2.3.
Nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật hình sự và đấu
tranh phòng, chống tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
101

KẾT LUẬN
109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
112



Danh mục các bảng

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang

3.1
Số án phải giải quyết hằng năm
79
3.2
Phân tích số án đã giải quyết
82
3.3
So sánh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với các tội
phạm nói chung và tỷ lệ cụ thể
88
3.4
So sánh tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với các tội
phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu
89


1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo qua hai mươi
lăm năm đã thu được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã vượt qua
thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Chính trị - xã hội ổn định,
quốc phòng và an ninh được giữ vững và ngày càng được tăng cường; quan
hệ đối ngoại có bước phát triển mới, đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều
vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu
mà nhiều tệ nạn xã hội đã và đang nảy sinh do những tác động từ mặt trái của
nền kinh tế thị trường, trong đó có tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt là
các vụ phạm pháp hình sự, đòi hỏi Nhà nước và xã hội phải quan tâm, giải quyết.
Qua thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây, cho thấy

tình hình tội phạm nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có nhiều
diễn biến phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại lớn cho xã hội, trong đó có tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản. Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng
mà cả về đối tượng phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng ngày càng
tinh vi, xảo quyệt hơn, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn.
Tình trạng đó đã và đang gây ra không ít những khó khăn, thách thức đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra,
truy tố, xét xử cũng như trong chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và
phòng chống tội phạm, bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hơn nữa, do các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội công nhiên
chiếm đoạt còn chưa minh bạch, chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, nhất là

2
thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy định liên quan đến các yếu tố định
tội và định khung hình phạt nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí
không thống nhất trong nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực
tiễn định tội danh đối với tội phạm này. Do vậy, trong một số vụ án cụ thể đã có
tình trạng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có nhận
thức khác nhau về việc định tội và định khung hình phạt khi tiến hành xử lý hình
sự đối với hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản. Cá biệt, có trường hợp còn
nhầm lẫn trong việc xác định tội danh, áp dụng không đúng pháp luật, thậm
chí không làm sáng tỏ được ranh giới giữa tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật khác hoặc không phân biệt được sự khác nhau giữa tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm có tính chất chiếm đoạt khác trong Bộ
luật hình sự 1999 như: tội cướp tài sản (Điều 133), tội cướp giật tài sản (Điều
136), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135); tội trộm cắp tài sản (Điều 138).

Để tiếp tục nghiên cứu, nhận diện đầy đủ và làm sâu sắc hơn các vấn
đề lý luận về cấu thành tội phạm này cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét
xử đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản làm căn cứ để đề xuất, kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm này, việc nghiên cứu đề tài: "Tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam" là rất cần thiết và thực sự
cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản hiện đã được nghiên cứu, đề cập đến
trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học cả trong và ngoài nước của các cơ
sở nghiên cứu, đào tạo luật học cũng như các nhà hình sự học, tội phạm học.
Ở Việt Nam, các Giáo trình luật hình sự Việt Nam của các cơ sở nghiên cứu
và đào tạo luật học cũng nghiên cứu về tội này như: Trường Đại học Luật Hà
Nội; Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc
Viện Khoa học xã hội Việt Nam và một số cơ sở đào tạo khác

3
Từ góc độ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như định tội danh,
tội công nhiên chiếm đoạt cũng được nghiên cứu, bàn luận và làm sáng tỏ cả
về lý luận và thực tiễn trong nhiều cuốn chuyên khảo, trong đó phải kể đến
một số công trình nghiên cứu của ThS. Luật học Đinh Văn Quế như: Bình
luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998; Pháp luật hình sự thực tiễn xét
xử và án lệ, Nxb Lao động xã hội. Hà Nội, 2005); Thực tiễn xét xử và pháp
luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, 2000; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần
các tội phạm, tập II, các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
2005; một số chuyên khảo như: Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và
350 bài thực hành, của Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2004; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, của
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1999 Các vấn đề lý luận và thực tiễn định tội danh đối với tội công

nhiên chiếm đoạt tài sản còn được nghiên cứu và làm sáng tỏ trong một số bài
viết đăng trên Tạp chí chuyên ngành luật như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản, của ThS. Mai Bộ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 11, 2007; Một số vấn đề
cần hoàn thiện đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, của ThS. Nguyễn
Văn Trượng, Tạp chí Kiểm sát, số 24, 2008…Các bài nghiên cứu trên đã nhận
diện và làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm, đặc trưng, các dấu hiệu pháp
lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
hình sự; phân tích, đối chiếu và phân biệt với một số tội phạm trong Bộ luật
hình sự 1999 và đề xuất giải pháp hoàn thiện…
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến các tội phạm thuộc
nhóm tội xâm phạm sở hữu, có nhiều bài viết đề cập đến tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản ở góc độ so sánh, đối chiếu với một số tội phạm khác có nhiều điểm
tương đồng như tội trộm cắp tài sản, tội cướp giật tài sản; tội cướp tài sản; tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhất là một số bài nghiên cứu của ThS. Mai Bộ
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân… Trong thực tiễn xét xử, một số bài viết,
tranh luận cũng trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến cấu thành tội công nhiên

4
chiến đoạt tài sản qua phân tích, đánh giá, nhận định về một số hành vi phạm
tội có tính chất chiếm đoạt, ngoài ra còn phải kể đến một số luận văn tốt
nghiệp Đại học Luật nghiên cứu về tội này như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản theo Bộ luật hình sự 1999 - những vấn đề lý luận và thực tiễn, của Đặng
Đình Chung, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001 và một số luận văn cử nhân,
thạc sĩ luật khác.
Tuy nhiên, có thể khẳng định, đến nay chưa có công trình nghiên cứu
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề pháp lý, lý luận và
thực tiễn định tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, dấu hiệu
pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn định tội danh đối với tội công nhiên

chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Trong khuôn khổ một luận
văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng, đường lối xử lý và những vấn đề liên quan đến định
tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản những năm gần đây với tư
cách là một tội phạm trong chương các tội phạm xâm phạm sở hữu của Bộ
luật hình sự năm 1999 mà chưa có điều kiện nghiên cứu, phân tích từ góc độ
tội phạm học.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những
vấn đề về lập pháp, lý luận và thực tiễn định tội danh đối với tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó, dựa vào quan
điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách hình sự về đấu
tranh phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu, luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý
luận, nội dung mới đối với tội phạm này từ yêu cầu của thực tiễn đất nước
hiện nay.

5
Để đạt được mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Phân tích các căn cứ về mặt lập pháp, lý luận và thực tiễn định tội
danh, bản chất, dấu hiệu pháp lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, đường
lối xử lý hình sự có so sánh với một số tội phạm theo Bộ luật hình sự 1999.
- Phân tích lịch sử lập pháp hình sự, đường lối xử lý và thực tiễn định
tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số kiến nghị, đề
xuất dưới góc độ hoàn thiện pháp luật hình sự, đường lối xử lý cũng như định
tội danh đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trong thời
gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt, trong đó có tội công nhiên chiếm đoạt tài sản trước yêu cầu mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các phương
pháp của khoa học luật hình sự, tội phạm học, thống kê tư pháp, khoa học lịch
sử, so sánh kết hợp với phân tích xã hội học, phương pháp hệ thống - cấu trúc,
phương pháp quy nạp, diễn dịch được sử dụng linh hoạt trong nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn được hoàn thành sẽ là chuyên khảo khoa học trình bày
tương đối toàn diện, có hệ thống về căn cứ lập pháp hình sự, các vấn đề lý
luận và thực tiễn đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, có đóng góp mới
sau đây:

6
Một là, phân tích căn cứ pháp lý, giải quyết những vấn đề lý luận về
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản nhằm góp phần bổ sung và hoàn thiện lý
luận về tội phạm đối với các tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt Nam,
nhất là các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Hai là, phân tích, đánh giá lịch sử lập pháp hình sự đối với tội công
nhiên chiếm đoạt, đường lối xử lý và thực tiễn định tội danh đối với tội
phạm này.
Ba là, đề xuất các phương hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự,
đường lối xử lý hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản.

Chương 2: Đường lối xử lý tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và phân
biệt với một số tội phạm khác
Chương 3: Thực trạng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

7
Chương 1
KHÁI NIỆM VÀ DẤU HIỆU PHÁP LÝ
CỦA TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP CỦA TỘI CÔNG NHIÊN
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là một trong số các tội xâm phạm sở
hữu, lần đầu tiên được quy định trong một điều luật độc lập (Điều 137) của
Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở tách tội cướp giật và tội công nhiên
chiếm đoạt được quy định tại Điều 131 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm
đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa) và Điều 154 (Tội cướp giật hoặc công nhiên
chiếm đoạt tài sản của công dân) theo Bộ luật hình sự năm 1985. Do Điều 137
Bộ luật hình sự không mô tả hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản mà chỉ nêu tội danh nên vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu, làm
rõ khái niệm của tội phạm này để từ đó, đi sâu phân tích những đặc trưng,
đánh giá thực tiễn, đường lối xử lý, định tội danh và đề xuất giải pháp hoàn
thiện cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
1.1.1. Khái niệm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Để hiểu khái niệm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, cần phân tích và
làm rõ các khái niệm "tài sản"; "chiếm đoạt tài sản", "công nhiên chiếm đoạt
tài sản" từ góc độ Luật hình sự, trên cơ sở đó, phân tích, đưa ra những đặc
trưng thuộc về nội hàm khái niệm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Khái niệm "tài sản", nghĩa Hán - Việt là khái niệm dùng để "chỉ chung tiền
bạc, của cải"


16, tr. 622; "tiền của, của cải nói chung" 9, tr. 734, 17, tr. 602; là
"của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng"

47, tr. 1483. Theo Điều 163
Bộ luật dân sự năm 2005, tài sản được hiểu bao gồm "vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản", trong đó quyền tài sản là "quyền trị giá được bằng tiền

8
và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ"
(Điều 181).
Tuy nhiên, từ góc độ luật hình sự, đối với các tội phạm có tính chất
chiếm đoạt tài sản trong đó có tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, không phải
lúc nào tài sản theo quan niệm của Bộ luật dân sự cũng được coi là đối tượng
của tội phạm này bởi lẽ không phải tài sản nào người phạm tội cũng có thể
công nhiên lấy được từ chủ tài sản, ví dụ như các quyền tài sản. Đây là một
dạng tài sản vô hình, không nhìn thấy được, nó gắn liền với quyền nhân thân
và cố định với một chủ thể cụ thể được pháp luật công nhận, do đó, nó không
thể bị dịch chuyển trái phép, bị chiếm đoạt bởi người khác được, vì về mặt
pháp lý "quyền tài sản" phải được pháp luật thừa nhận thì mới có giá trị. Ví
dụ: Quyền của chủ nợ, quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá… Những
quyền này gắn liền với nhân thân của một chủ thể xác định. Mọi trình tự, thủ
tục thực hiện các quyền này đều tuân theo quy định của pháp luật, do đó, tội
phạm không thể chiếm đoạt được "loại tài sản này" nên nó không thể là đối
tượng tác động của tội "công nhiên chiếm đoạt tài sản". Ngoài ra, một số tài
sản khác là bất động sản có tính chất vật lý cố định; một số loại tài sản chưa
xác định được chủ sở hữu hoặc tài sản không có giá trị sử dụng, một số loại
giấy tờ có giá và một số loại tài sản có tính chất và công dụng đặc biệt cũng
không thể là đối tượng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
Khái niệm "chiếm đoạt", theo nghĩa Hán - Việt, "Chiếm" là "lấy làm của

mình"; "chiếm đoạt" là "dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình" 9, tr. 142,
16, tr. 140; chiếm là: "giữ lấy làm của mình", đoạt là cướp lấy, chiếm đoạt là
"cướp lấy bằng võ lực hay quyền thế" 9, tr. 142,

17, tr. 108; chiếm đoạt
còn được hiểu là "chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức
mạnh vũ lực"

47, tr. 1483. Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản"
là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ
tài sản thành tài sản của mình 39, tr. 366 hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một
cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một

9
nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm"

3, tr. 230. Ở đây, khái
niệm "quản lý" có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì"

47, tr. 1363,
"chủ tài sản" được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao
quản lý tài sản đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp
luật được giao nhiệm vụ quản lý tài sản). Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm
cho chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài
sản) mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt
thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người

chiếm đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ
sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện
các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới
những dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa
người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt
cụ thể.
Thứ hai, tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi
phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của
chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát
của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm
đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến
hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ
tài sản.
Thứ ba, xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm
tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý
trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản

10
đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người
phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản,
để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản
chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người
phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục
đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.
Khái niệm "công nhiên", theo nghĩa Hán - Việt được giải thích là "rõ
ràng như vậy, ai cũng thấy"; thuật ngữ "công khai" được hiểu là "mở chung cho
mọi người cùng thấy, không dấu diếm" 16, tr. 114; "công nhiên" còn được

giải thích là "một cách công khai, rõ ràng, không giấu giếm" 47, tr. 457;
"đường hoàng trước mặt mọi người"

17, tr. 143; "rõ ràng, ai cũng có thể thấy" -
đồng nghĩa với từ "đàng hoàng - một cách ung dung" và trái nghĩa với từ "lén lút-
cố ý dấu diếm, vụng trộm, không để lộ ra do có ý gian" 9, tr. 182; 242; 467.
Khái niệm "công nhiên chiếm đoạt tài sản" được hiểu là "ngang nhiên
chiếm đoạt tài sản do người khác giữ mà không chạy trốn" 43, tr. 198; "là
lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài
sản của họ" 39, tr. 381. Về lý luận, "công nhiên chiếm đoạt tài sản" được
hiểu là hành vi công khai lấy tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc
người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản
lý tài sản", đó là "hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người quản lý tài
sản để lấy tài sản một cách công khai"

25, tr. 175. Dưới góc độ khoa học
pháp lý, công nhiên chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội lợi dụng tình
trạng chủ tài sản không có điều kiện bảo vệ tài sản hoặc ngăn cản hành vi
phạm tội mà chiếm đoạt tài sản của họ"

3, tr. 260.

11
Như vậy, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi của một người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện có tính chất công khai, lợi dụng tình
trạng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản để chiếm đoạt tài sản. Tính chất
công khai thể hiện ở chỗ, người thực hiện hành vi phạm tội không cần và
không có ý định có bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó với chủ tài sản, họ
cũng không phải đối phó với bất kỳ sự phản ứng nào của chủ tài sản vì lý do

chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản do đang ở trong hoàn cảnh không thể
ngăn cản hành vi phạm tội.
Khái niệm tội phạm, theo Điều 8 Bộ luật hình sự:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hay vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa

28, tr. 46.
Từ góc độ khoa học luật hình sự, tội phạm được định nghĩa là "hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình
phạt" 39, tr. 33; "là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự
(tức là hành vi bị luật hình sự cấm), do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi (cố ý hoặc
vô ý)"

3, tr. 297. Theo tác giả luận văn, tội phạm có 5 dấu hiệu đặc trưng:
1) Tính nguy hiểm cho xã hội; 2) Tính trái pháp luật hình sự; 3) Tính có năng
lực trách nhiệm hình sự; 4) Tính đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; 5) Tính có
lỗi. Với cách tiếp cận đó, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có 5 đặc trưng cơ
bản: 1) Đó là hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho

12
xã hội; 2) Hành vi đó bị luật hình sự cấm, nếu thực hiện hành vi này là trái với
pháp luật hình sự; 3) Hành vi này phải do người có năng lực trách nhiệm hình

sự thực hiện; 4) Người thực hiện hành vi phạm tội phải đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự; 5) Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi có lỗi.
Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những
điểm hợp lý trong các khái niệm về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và
những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra
định nghĩa khoa học về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau: Tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác
bằng hành vi lợi dụng chủ tài sản trong hoàn cảnh đặc biệt không có điều
kiện bảo vệ tài sản hoặc ngăn cản hành vi phạm tội để công khai chiếm đoạt
tài sản của họ.
1.1.2. Lịch sử lập pháp của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
a) Giai đoạn trước năm 1985
Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ
sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước và các chủ thể pháp luật, nhiều Nhà nước phong kiến ở
nước ta đã sử dụng hình luật để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu.
Dưới thời Lê Sơ mà đỉnh cao là triều đại trị vì của vua Lê Thánh Tông, Bộ
luật Hồng Đức đã được ban hành, trong đó dành gần 50 Điều để thiết lập các
quy định nhằm bảo vệ chế độ sở hữu phong kiến. Theo Điều 370 Bộ luật
Hồng Đức thì: Các nhà quyền quý chiếm đoạt nhà cửa, ruộng đất, ao đầm của
lương dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt; từ năm mẫu trở lên thì xử tội
biếm. Quan tam phẩm trở lên thì xử tội năng thêm hai bậc và phải bồi thường
như luật định. Đã tâu lên rồi thì xử khác". Đối với những kẻ cướp (nghĩa là
ban đêm cầm khí giới giết người lấy của):

13
Thì xử tội chém, tòng phạm thì xử tội giảo, ngoài việc phải
đền tang vật ăn cướp, điền sản phải sung công. Cướp của lại giết

người thì xử tội chém bêu đầu, tòng phạm xử chém phải nộp tiền
đền mạng và tiền đền tang vật gấp đôi trả lại cho chủ nhà bị cướp.
Kẻ chứa chấp bọn cướp lâu ngày thì xử đồng tội, mới khoảng mười
ngày thì xử giảm một bậc, đều phải bồi thường một phần ba nộp
vào kho. Kẻ biết việc mà không cáo giác thì xử tội đồ làm chủng
điền binh [29, Điều 426].
Cũng theo Bộ luật trên "kẻ ăn trộm mới phạm lần đầu thì phải lưu
châu xa. Kẻ trộm có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải bị chém. Giữa ban
ngày ăn cắp vặt cũng bị xử tội đồ…" (Điều 429).
Liên quan đến hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, tại Điều 435 của
Bộ luật trên quy định:
Những kẻ thừa thời cơ lúc có trộm, cướp, cháy, lụt là lấy
trộm của cải của người ta, hay là giữa ban ngày mà đoạt lấy tiền tài
của người, cùng là lấy của cải đánh rơi mà lại đánh lại người mất
của thì cũng phải đền tội như ăn trộm thường, mà giảm một bậc.
Lột lấy những quần áo và đồ vật của trẻ em, người điên, người say
thì phải tội đồ và phải bồi thường gấp đôi [29].
Có thể nói, đây là những quy định đầu tiên trong hình luật nước ta mà
trong đó, những dấu hiệu trong hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản sau này đã được đề cập. Đặc biệt, nhà làm luật đã mô tả và mô
hình hóa khá chính xác điều kiện thực tiễn nước ta lúc bấy giờ, đồng thời răn
đe, phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm pháp luật do lợi dụng hoàn
cảnh, tình trạng thân phận của người có tài sản để trục lợi, thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong trường hợp này được xác định
nhẹ hơn tội ăn trộm thường, mục đích của việc ghi nhận tội phạm này là để
bảo vệ quyền sở hữu tài sản của các chủ thể có nguy cơ bị tội phạm xâm hại

14
trong những điều kiện, tình huống đặc biệt mà người có tài sản không có
điều kiện bảo quản, coi giữ. Quy định này được duy trì và áp dụng trong

suốt các giai đoạn của Nhà nước phong kiến, từ thời Lê - Trịnh - Nguyễn,
đáng tiếc rằng, dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, qua nghiên cứu Bộ luật
của triều đại này - Hoàng Việt luật lệ - những quy định trên không còn thấy
được đề cập. Sau đó, mặc dù ở nước ta có tồn tại các bộ Hình luật Trung Kỳ;
Hình luật Bắc Kỳ; Hình luật Nam Kỳ nhưng những quy định liên quan đến tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản lại không được đề cập đến, nói cách khác, hình
luật không quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là một tội phạm độc
lập, được quy định trong Bộ luật hình sự để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
các chủ tài sản.
Ngay sau khi giành được độc lập, công cuộc xây dựng, quản lý nước
nhà bằng pháp luật bước đầu được quan tâm, pháp luật mới ra đời - pháp luật
dân chủ nhân dân - công cụ để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của người dân lao động, bảo vệ thành quản của cách
mạng. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá hủy
công sản, theo đó nếu người phạm tội thực hiện một trong các tội sau đây sẽ
bị phạt tù từ hai năm đến mười năm và có thể bị xử tử: 1) Cố ý phá hoại một
phần hay toàn thể các cầu cống hay sông đào, vận hà, nông giang, thuộc công
ích, đường xe lửa, các đường giao thông công hay tư đường bộ hay đường
thủy, đê đập, các công sở, kho tàng hoặc các nhà máy điện, máy nước; 2) Cố
ý hủy hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại, điện tín cùng các cột dây điện và
dây thép; 3) Đặt ở các nơi nói trên những khí cụ dùng để giết người, đốt phá
hay tác liệt.
Tiếp theo là Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù
lạm, biển thủ công quỹ, Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm xâm
phạm sở hữu như trộm cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín… Qua nghiên cứu các

15
văn bản pháp luật này, cho thấy nhà lập pháp chưa đề cập đến tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản với tư cách là một tội phạm độc lập. Ngày 15/6/1956, Chủ

tịch nước ký Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những âm mưu hoạt động phá hoại
tài sản của Nhà nước, Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện
chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa. Văn bản này tuy chưa quy
định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, song theo tinh thần của nó thì các dạng
hành vi thuộc cấu thành của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản ngày nay cũng
đã được đề cập và hướng dẫn về đường lối xử lý tương tự tội cướp và tội
cướp giật tài sản.
Để củng cố thành quả mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đạt
được ở miền Bắc, bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực,
tập trung phát triển sản xuất để chi viện sức người, sức của cho miền Nam
ruột thịt, các quy định pháp luật về kinh tế, tài chính, dân sự, lao động, hình
sự từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của quản lý đất nước trong
tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo hai Pháp lệnh
trên, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chưa được đề cập với tư cách là một tội
phạm độc lập mà nằm trong quy định gắn với tội cướp giật tài sản (Điều 4 và 5)
và được hướng dẫn chi tiết, cụ thể tại Thông tư liên Bộ ngày 16/3/1973 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an (điểm 1
Mục c Phần II). Theo đó, hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản được
nhà làm luật mô tả như sau: "trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở, vướng
mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ tài
sản, hoặc công nhiên lấy từ nơi để tài sản với ý thức không che giấu hành vi
phi pháp của mình rồi chạy trốn hoặc bỏ đi không dùng vũ lực". Đây là quy
định thể hiện khá rõ một số đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản,
nhưng lúc đó, về kỹ thuật lập pháp, nhà làm luật chưa thừa nhận đây là một
tội phạm độc lập mà được hiểu là một dạng hành vi của tội cướp giật tài sản.

16
b) Giai đoạn từ 1985 đến nay

Sau khi nước nhà thống nhất, nhận thức được vị trí, vai trò của pháp
luật hình sự trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ trật
tự xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, ngày 27/6/1985 Quốc hội đã
biểu quyết thông qua Bộ luật hình sự trên cơ sở pháp điển hóa những nguyên
tắc, chế định pháp luật hình sự của nước ta trước đây. Lần đầu tiên, Bộ luật
hình sự quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định là một tội
phạm được quy định tại Điều 131 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa) và Điều 154 (Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm
đoạt tài sản của công dân), nhưng về mặt kỹ thuật lập pháp, tội phạm này
được đặt trong cùng một điều luật với tội cướp giật tài sản với ba khung hình
phạt khác nhau ứng với mỗi tình tiết định khung tăng nặng. Theo đó, tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản được xác định có cùng tính chất, đặc điểm và tính
nguy hiểm cho xã hội tương tự như tội cướp giật tài sản, sự khác biệt có
chăng chỉ là về hành vi phạm tội được mô tả trong mặt khách quan của tội
phạm; giữa hai tội phạm này có cùng các yếu tố định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự. Quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, bảo đảm sự
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật về đấu tranh phòng ngừa và chống
các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản; khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật có tính
chất công nhiên chiếm đoạt tài sản nhưng không thể xác định thuộc cấu thành
nào của một trong các tội phạm có tính chất xâm phạm sở hữu.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với việc xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung,
bao cấp, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhiều thành phần kinh tế được xác lập với nhiều hình thức sở hữu khác

17

nhau, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Khi đó, việc phân
định các nhóm tội xâm phạm sở hữu thành xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa
và xâm phạm sở hữu của công dân theo Bộ luật hình sự năm 1985 tỏ ra không
còn phù hợp do tính chất đa hình thức sở hữu. Hơn nữa, về dấu hiệu pháp lý,
các tội đó tuy nằm ở hai chương khác nhau nhưng đều có cùng đặc điểm, tính
chất, có chăng sự khác biệt chỉ là khách thể và đối tượng là tài sản chịu sự tác
động của tội phạm thuộc sở hữu của Nhà nước hay của công dân và trong
nhiều trường hợp, không phải lúc nào người phạm tội cũng có thể xác định
được tài sản đó là của Nhà nước hay công dân. Trước yêu cầu đó, ngày
21/12/1999 Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới thay thế cho Bộ luật
hình sự 1985, theo đó tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được quy định tại
Điều 137 Bộ luật hình sự thành một tội phạm độc lập trên cơ sở tách khỏi tội
cướp giật tài sản và không phân biệt thành công nhiên chiếm đoạt tài sản xã
hội chủ nghĩa và công nhiên chiếm đoạt tài sản của công dân như Bộ luật hình
sự năm 1985 mà sáp nhập lại thành một tội phạm độc lập. Việc sáp nhập thể
hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mặt pháp lý là không có sự
phân biệt đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, mặt khác, nó cũng đáp
ứng được yêu cầu do thực tiễn xét xử đặt ra trong những năm qua, nhiều hành
vi xâm phạm tài sản của các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu chung của nhiều
thành phần kinh tế như: Công ty cổ phần, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, liên doanh, liên kết… nhưng không thể xác định được người phạm tội
xâm phạm tài sản thuộc thành phần kinh tế nào.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 137 Bộ luật hình sự năm
1999 có nhiều sửa đổi, bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định tội;
phân biệt ranh giới giữa hành vi là tội phạm với hành vi chưa tới mức phải xử
lý về hình sự - điểm khác biệt cơ bản so với Bộ luật hình sự năm 1985 khi
quy định về tội phạm này. Về hình phạt Điều 137 quy định nặng hơn Bộ luật
hình sự năm 1985 (mức cao nhất là từ chung thân, trong khi đó Điều 131 quy
định là hai mươi năm tù, còn Điều 154 là mười lăm năm tù). Về cơ cấu, tội


18
công nhiên chiếm đoạt tài sản theo Điều 137 Bộ luật hình sự được cấu tạo
thành 05 khoản (Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội này chỉ có
03 khoản). Khoản 1 là cấu thành cơ bản có khung hình phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm (nhẹ hơn khoản 1 Điều 131 và nặng hơn khoản 1 Điều 154 Bộ
luật hình sự năm 1985); khoản 2 có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy
năm (nhẹ hơn khoản 2 của hai Điều 131 và 154 Bộ luật hình sự năm 1985);
khoản 3 có khung hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm (nhẹ hơn khoản 3
Điều 131 và bằng khoản 3 Điều 154 Bộ luật hình sự 1985); khoản 4 có khung
hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân (là khung
hình phạt mới mà Điều 131 Điều 154 Bộ luật hình sự năm 1985 không có).
Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật 25, tr. 177.
1.2. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI CÔNG NHIÊN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra, việc đầu tiên cần xác
định hành vi đó có phải là tội phạm hay không. Căn cứ để xác định một hành
vi nguy hiểm có phải là tội phạm không cần phải dựa vào các dấu hiệu của tội
phạm, nhưng không chỉ dừng lại ở đó cần phải xác định xem tội phạm xảy ra
là tội phạm gì và được quy định tại điều nào, chương nào của Bộ luật hình sự,
để giải quyết được điều này cần dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu
thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại
tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Cấu thành tội phạm là kết
cấu của một khái niệm, nó bao gồm hệ thống các dấu hiệu cần và đủ để xác
định hành vi của con người có phải là tội phạm hay không. Một hành vi được
coi là tội phạm khi nó có đầy đủ các yếu tố hợp thành, thiếu một yếu tố nào
đó thì chưa coi là tội phạm.
Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, tội phạm có đặc điểm chung là đều
được hợp thành bởi những yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau
nhưng có thể phân chia được trong tư duy và do vậy, có thể cho phép nghiên
cứu độc lập với nhau. Những yếu tố đó, theo khoa học Luật hình sự Việt Nam
là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm.


19
Theo luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù đặc biệt
nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng, dù bị quy định bởi hình phạt tới chung
thân, tử hình hay chỉ là cảnh cáo, phạt tiền cũng là sự thống nhất giữa mặt
khách quan và mặt chủ quan - giữa những biểu hiện bên ngoài và những
những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội nhất định. Sự thống
nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính
trị - xã hội của tội phạm, nếu về mặt nội dung chính trị - xã hội, mỗi tội phạm
có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì về mặt cấu trúc,
bốn yếu tố cấu thành tội phạm cũng có những nội dung biểu hiện khác nhau,
chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm 15, tr. 54.
Dấu hiệu pháp lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là đặc điểm
chung về mặt lập pháp cụ thể các thuộc tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc
trưng cho tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Cũng như các tội khác, "tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản" cũng có đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm cụ
thể như sau.
1.2.1. Khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm theo nghĩa chung nhất là quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại 39, tr. 62, khách thể của tội phạm
còn được định nghĩa "là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh
khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây
nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định 5, tr. 343.
Khách thể luôn tồn tại độc lập với ý thức ở bên ngoài ý thức của chủ
thể; hành vi của con người luôn là sự thống nhất giữa khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi và bất kỳ hành vi nào một cách trực tiếp hay gián
tiếp cũng đều nhằm đạt tới, tác động tới một đối tượng nhất định, qua đó tác
động, ảnh hưởng đến một khách thể nhất định. Tội phạm là hành vi nguy


20
hiểm của con người, nó luôn nhằm vào những khách thể cụ thể, làm biến đổi
tình trạng ban đầu của các khách thể tức là các khách thể đã bị xâm hại.
Khách thể của tội phạm bao gồm khách thể chung, khách thể loại và khách
thể trực tiếp.
Nghiên cứu về khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì một
hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể bị coi là tội phạm nếu như nó không
xâm hại (hoặc có nguy cơ thực tế xâm hại) đến quan hệ xã hội được bảo vệ
bằng pháp luật hình sự; nó còn là yếu tố bắt buộc và là cơ sở để đặt ra vấn đề
trách nhiệm hình sự của một người. Hiểu rõ khách thể của tội phạm có ý
nghĩa quan trọng đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự vì sự đánh giá về
mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm là nhằm xác
định xem hành vi phạm tội được thực hiện đã xâm hại đến quan hệ xã hội nào
được bảo vệ bằng pháp luật hình sự và vai trò của dấu hiệu đó trong việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đã được thực hiện trong thực tế ra
sao. Qua hiểu rõ về khách thể còn giúp xác định rõ tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội, đồng thời trong một số trường hợp còn giúp ta
phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Khi nghiên cứu về khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, có quan
niệm cho rằng khách thể của tội phạm này là quyền sở hữu về tài sản 3, tr. 260,
tuy nhiên, quan niệm khác lại cho rằng, khách thể của tội phạm này là xâm phạm
đến quan hệ sở hữu, ngoài ra nó còn tác động xấu đến trật tự xã hội 43, tr. 197.
Như vậy, về mặt khách thể, điểm chung được nhiều người thừa nhận,
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho các quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này phải phán ảnh được
đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong đó,
quan hệ sở hữu được hiểu là các quan hệ xã hội trong đó quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt được tôn trọng và bảo vệ, hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm các quyền chiếm

×