ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HIỀN
TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU NÓ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THU HIỀN
TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU NÓ TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 5.05.14
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - NĂM 2005
3
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………….
MỤC LỤC……………………………………………………………………………….
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………
3
4
7
Chương 1: TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU Ở MỘT SỐ NƢỚC
TRÊN THẾ GIỚI……………………………………………………………………….
12
1.1.
Khái niệm, đặc điểm tố tụng tranh tụng……………………
12
1.1.1.
Khái niệm của tố tụng tranh tụng hình sự
12
1.1.2.
Đặc điểm của tố tụng tranh tụng
20
1.1.2.a.
Sự tham gia tích cực và ngang quyền của bên buộc tội và bên
bào chữa trước Toà
20
1.1.2.b.
Quyền lực được san sẻ giữa Thẩm phán, Luật sư, Công tố viên
và Bồi thẩm đoàn
21
1.1.2.c.
Chứng cứ do các bên thu thập và đề xuất
24
1.1.2.d.
Thủ tục tố tụng phức tạp và phiên toà kéo dài
25
1.1.2.e.
Tố tụng tranh tụng không mong đợi sự hợp tác của bị cáo
27
1.2.
Hệ tố tụng tranh tụng trên thế giới…………………
28
1.2.1.
Lịch sử hình thành và sự phát triển của hệ tranh tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự…………………
28
1.2.2.
Một số mô hình tố tụng tranh tụng trên thế
giới………………
35
1.2.2.a.
Mô hình tố tụng tranh tụng ở Vương Quốc Anh………………
35
1.2.2.b.
Mô hình tố tụng tranh tụng ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ………
36
4
1.2.3.
Tố tụng tranh tụng dưới góc độ so sánh với tố tụng thẩm vấn
38
1.2.4.
Lý do sự phát triển của hệ tranh tụng…………………
42
1.2.5.
Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở một số nước trên thế
giới………
45
1.2.5.a.
Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở Cộng hoà
Pháp…………………
45
1.2.5.b.
Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở Cộng hoà Liên bang Nga
49
1.3.
Nội dung những vấn đề cần tiếp thu từ mô hình tố tụng
tranh tụng
56
1.3.1.
Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa
trong tranh tụng
56
1.3.2.
Phân định rõ các chức năng buộc tội, gỡ tội và tài phán
58
Chương 2: TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở
VIỆT NAM ………………… ………………… …………………
60
2.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988
60
2.1.1.
Pháp luật về tranh tụng
60
2.1.2.
Đánh giá chung về việc thực hiện tranh tụng
69
2.2.
Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
70
2.2.1
Pháp luật về tranh tụng
70
2.2.2.
Đánh giá chung về thực hiện tranh tụng
75
2.3.
Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
80
2.3.1.
Những điểm mới về mở rộng tranh tụng trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003
80
2.3.2.
Đánh giá chung về thực hiện tranh tụng từ năm 2003 đến
nay
83
5
2.4.
Những vấn đề tồn tại về tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay
84
Chương 3: SỰ CẦN THIẾT VÀ NỘI DUNG TIẾP THU CỦA TỐ TỤNG
TRANH TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM Ở VIỆT NAM
TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP
88
3.1.
Sự cần thiết phải tiếp thu một số nội dung từ mô hình tố
tụng tranh tụng vào xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Việt
Nam
86
3.2.
Những nội dung cần tiếp thu
93
3.2.1.
Trong việc thực hiện chức năng buộc tội
93
3.2.2.
Trong việc thực hiện chức năng gỡ tội
97
3.2.3.
Trong việc thực hiện chức năng tài phán
101
3.2.4.
Trong trình tự tại phiên toà
102
3.2.5.
Trong nâng cao văn hoá pháp lý
103
KẾT LUẬN
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
111
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan
trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo,
ngày 02.01.2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08/NQ-TW về "Một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Nghị quyết đã đưa
ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp, trong đó nhấn mạnh việc mở rộng tranh tụng tại phiên toà "Nâng cao
chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân
chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác ",
"Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và
những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định" và "các cơ
quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình
tố tụng: Tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ
tại phiên toà". Bộ luật tố tụng hình sự được thông qua ngày 18.11.2003 tại kỳ
họp thứ 4 Quốc hội khoá XI (có hiệu lực thi hành từ ngày 01.7.2004) là một
bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình
sự nước ta. Bộ luật này đã được sửa đổi tương đối đồng bộ và toàn diện, phù
hợp với những đổi mới về kinh tế và pháp luật ở nước ta hiện nay nên về cơ
bản đã đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết
08/NQ-TW. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể
hơn về trình tự, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên toà hình sự. Đây là
những cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà ở
7
nước ta, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được nhiều kết quả
trong sự nghiệp bảo vệ thành quả của cách mạng, giữ vững an ninh - chính trị,
trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc tổ chức phiên toà xét xử theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của
Bộ Chính trị, và theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003 bước đầu đã đạt được kết
quả ở nhiều nơi. Công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội
phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong thực tiễn
xét xử hiện nay, vẫn còn tồn tại những vấn đề sau:
- Mặc dù vấn đề tranh tụng không còn quá mới mẻ, nhưng những nội
dung liên quan đến tranh tụng và việc tiếp thu nó như thế nào trong xét xử vụ
án hình sự ở Việt Nam vẫn là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau và chưa có
nhận thức thống nhất.
- Chúng ta phải thừa nhận rằng cải cách tư pháp tiến hành còn chậm so
với yêu cầu và đòi hỏi thực tế đặt ra. Mặc dù, Nghị quyết 08/NQTW đề ra
nhiều giải pháp cải cách tư pháp và trong 3 năm tổ chức thực hiện chúng ta đã
đạt được một số kết quả, nhưng Nghị quyết đó cũng chưa đề cập đầy đủ, toàn
diện những vấn đề cơ bản về cải cách tư pháp. Nghị quyết 48/NQ-TW ngày
24.5.2005 của Bộ chính trị đã đưa ra Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: và trong
Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ
chính trị đã khẳng định “Nâng cao chất lượng…tranh tụng tại tất cả các phiên
toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp …”. So với yêu cầu
và trước tình hình mới, "Tranh tụng" vẫn là một trong những vấn đề đang đặt
ra trong cải cách tư pháp cần được hoàn thiện hơn.
Vì vậy mà việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến
tranh tụng tại phiên toà ở một số nước trên thế giới, đánh giá thực hiện tranh
tụng tại phiên toà ở Việt Nam từ đó đưa ra những nội dung của tố tụng tranh
8
tụng cần được chúng ta tiếp thu để phục vụ công cuộc cải cách tư pháp có ý
nghĩa cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong thời gian qua, tình hình nghiên cứu về tranh tụng đã được đề cập
song đa số chỉ thể hiện trong các bài viết trên tạp chí pháp lý chuyên ngành.
Những bài viết này chỉ dừng lại ở một số khía cạnh, góc độ nhỏ lẻ, cá biệt.
Luận văn thạc sỹ luật học "Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự"
năm 1996 của Nguyễn Đức Mai, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật;
luận văn thạc sỹ luật học "Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên toà hình sự sơ
thẩm" năm 2003 của Nguyễn Hải Ninh, Trường đại học luật Hà Nội; đề tài
nghiên cứu khoa học - Tranh tụng tại phiên toà - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn năm 2003 của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp đều là những
nghiên cứu có ý nghĩa nhưng được đề cập trong điều kiện nhận thức chung
của chúng ta trước năm 2003, khi đó Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sửa
đổi.
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về tranh tụng chưa nhiều và chưa có
sự phân tích từ lý luận đến thực tiễn để rút ra những nội dung cơ bản mà
chúng ta cần tiếp thu từ tố tụng tranh tụng trong công cuộc cải cách tư pháp.
Vì vậy, khi nghiên cứu luận văn, chúng tôi không tham vọng là nghiên
cứu tất cả những vấn đề của tố tụng tranh tụng mà chỉ đặt ra và giải quyết trên
phương diện lý luận và những cơ sở thực tiễn để nhận thấy một số nội dung
của tố tụng tranh tụng có thể được tiếp thu một cách hợp lý vào tố tụng thẩm
vấn của nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi của luận văn:
9
Cơ sở lý luận của luận văn này là: Chủ nghĩa Mác Lê nin - tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật tố tụng của một số
nước trên thế giới và Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp, tư duy logic để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học
luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Đề tài tập trung nghiên cứu về quá
trình hình thành, phát triển cũng như đặc điểm của tố tụng tranh tụng nói
chung và một số quốc gia nói riêng, xu hướng hoà nhập, giao thoa trong lĩnh
vực tố tụng hình sự trên thế giới để tìm ra những ưu điểm nổi trội của hệ tố
tụng này, đối chiếu với điều kiện ở Việt Nam để từ đó có được kết luận về
định hướng và một số nội dung cần tiếp thu từ tố tụng tranh tụng vào giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.
Tố tụng tranh tụng có nhiều vấn đề cần nghiên cứu, song trong giới hạn
một luận văn cao học, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tố tụng tranh tụng
với mục đích phục vụ công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay,
nhất là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của việc tiếp thu một số nội dung của tố tụng tranh tụng trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phục vụ công cuộc cải cách tư pháp ở
Việt Nam. Để đạt được mục đích đặt ra, luận văn cần giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về khái niệm của tố tụng tranh tụng trong giải
quyết vụ án hình sự, phân tích đặc điểm, lịch sử hình thành, lý do phát triển
của nó.
10
- Nghiên cứu một số mô hình tố tụng hình sự của một số quốc gia trên
thế giới để thấy được những ưu điểm nổi trội của hệ tố tụng tranh tụng này.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về tranh tụng trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam để thấy được những tồn tại trong việc thực hiện tranh tụng,
tìm ra sự cần thiết và từ đó xác định cụ thể những nội dung nào cần tiếp thu
từ tố tụng tranh tụng để thực hiện thành công cải cách tư pháp trong lĩnh vực
tố tụng hình sự ở nước ta.
5. Cơ cấu của luận văn:
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trong luận văn cao học với cơ cấu
gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
6. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn của luận văn:
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về " Tố tụng
tranh tụng và việc tiếp thu nó trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
ở Việt Nam".
Thông qua đó làm sáng tỏ những cơ sở lý luận trong quan điểm đúng
đắn của Đảng, Nhà nước ta trong việc mở rộng tranh tụng ở Việt Nam.
Dựa trên sự đánh giá thích hợp, phân tích một cách khoa học, luận văn
đã chỉ ra những tồn tại trong quy định về tranh tụng của pháp luật cũng như
việc áp dụng nó trong thực tế để từ đó đưa ra những nội dung phù hợp cần
tiếp thu từ mô hình tố tụng tranh tụng vào giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự ở Việt Nam để có những bước đi tiếp theo trên lĩnh vực tố tụng hình sự
trong công cuộc Cải cách tư pháp.
11
Chương 1
TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU Ở
MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM TỐ TỤNG TRANH TỤNG.
1.1.1. Khái niệm tố tụng tranh tụng hình sự:
Tố tụng hình sự và các giai đoạn của nó được quy định trong pháp luật
tố tụng hình sự của mỗi nước. Ở Việt Nam, các giai đoạn của tố tụng hình sự
được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, theo đó quá trình giải quyết vụ
án hình sự gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố , xét xử và thi hành án.
Khác với quan điểm của một số nước thuộc hệ thống pháp luật Anh - Mỹ cho
rằng tố tụng hình sự chỉ bao gồm có giai đoạn xét xử vụ án hình sự tại phiên
toà, quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng như Liên xô
trước đây cho rằng quá trình giải quyết vụ án hình sự có nhiều giai đoạn
được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo và tố giác về
tội phạm đến khi có bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực và được
thi hành trong thực tế. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội là nhằm giải quyết nhiệm vụ của các giai đoạn tố tụng khác
nhau, nhưng đều hướng tới mục đích là giải quyết vụ án hình sự khách quan,
toàn diện. Có thể nói, “Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, nhanh
chóng, chính xác và đúng pháp luật” [38, tr.13].
Dựa vào các đặc điểm của tố tụng hình sự, trên thế giới hiện đang tồn
tại hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi).
12
Hai loại tố tụng hình sự này khác nhau ở đặc trưng nổi bật là: Tố tụng tranh
tụng – mang đặc điểm tố tụng đối kháng, còn tố tụng thẩm vấn là tố tụng
không đối kháng hay không tranh tụng [9, tr.19].
Trong khoa học pháp lý, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự
được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: Quá trình tranh tụng (cuộc tranh tụng)
và nguyên tắc tranh tụng.
Quan điểm cho rằng, quá trình tranh tụng hay cuộc tranh tụng được bắt
đầu muộn hơn thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự và kết thúc
sớm hơn thời điểm kết thúc của nó, quan điểm khác lại cho rằng qúa trình
tranh tụng bắt đầu cùng với thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng.
Với quan điểm cho rằng quá trình tranh tụng được bắt đầu cùng với
thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự, nghĩa là từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, quan
điểm này chưa đủ sức thuyết phục vì vào thời điểm đó chưa có sự buộc tội
nào của cá nhân hoặc Nhà nước do chưa có đối tượng bị buộc tội vì chưa
phát hiện ra ai là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Sự buộc tội
trong tố tụng hình sự chỉ xuất hiện khi thoả mãn điều kiện là nhằm vào một
đối tượng cụ thể, không thể tồn tại sự buộc tội mà không xác định đối tượng.
Chỉ khi xuất hiện sự buộc tội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với
một đối tượng là cá nhân cụ thể (ở một số nước có thể là pháp nhân) hoặc khi
có biện pháp áp dụng từ phía Nhà nước làm hạn chế quyền của chủ thể bị áp
dụng (ví dụ: bị tạm giữ), thì kể từ thời điểm này ở phía người bị buộc tội (bên
bị buộc tội) hoặc người bị áp dụng biện pháp hạn chế quyền mới xuất hiện sự
bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại sự
buộc tội hoặc hạn chế quyền đó. Như vậy, cuộc tranh tụng chỉ có thể bắt đầu
khi xuất hiện hai bên có quan điểm đối lập nhau trong tố tụng hình sự. Đó là
13
bên buộc tội và bên bào chữa với hai chức năng tương ứng là chức năng buộc
tội và chức năng gỡ tội.
Theo nghĩa đầy đủ thì tranh tụng chính là sự kiện cáo nhau. Đó là
“Tranh luận giữa hai bên có lập trường tương phản với nhau, yêu cầu Toà án
làm trọng tài phân xử” [24, tr.1238]. Như vậy, trong tố tụng hình sự, quá
trình tranh tụng được thể hiện tập trung, rõ nhất trong phiên xét xử vụ án và
gắn liền với chức năng tài phán. Tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, dưới sự
điều khiển của Chủ toạ phiên toà, với sự tham gia đầy đủ của tất cả các chủ
thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa, hoạt động buộc tội, bào chữa và xét xử
được thực hiện. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án là văn
bản pháp lý có giá trị bắt buộc kết thúc quá trình tranh tụng giữa các bên. Tuy
nhiên tuỳ thuộc vào phần quyết định của cấp có thẩm quyền về nội dung huỷ
án mà quá trình tranh tụng có thể được tiến hành lại ở các mức độ khác nhau.
Tranh luận được hiểu là “Bàn cãi để tìm ra lẽ phải” [25, tr.1024].
Tranh luận là một hoạt động có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không
xác định, việc kết thúc tranh luận phụ thuộc vào các chủ thể tham gia tranh
luận, khi lẽ phải được xác định [50, tr.9]. Cuộc tranh luận về vụ án hình sự có
thể được tiến hành theo các quy định về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng
hình sự khi Toà án là người đứng giữa hai bên trong tố tụng hình sự làm
trọng tài phân xử và ra phán quyết cuối cùng có giá trị pháp lý bắt buộc kết
thúc quá trình tranh luận vụ án.
Sự tranh luận trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng có thể
được tiến hành dưới các hình thức khác không phụ thuộc vào các giai đoạn tố
tụng và không bị bắt buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Nó có thể được tiến hành và được thể hiện dưới hình thức họp rút
kinh nghiệm, trao đổi ý kiến giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, trong hội
14
thảo khoa học, giữa các cá nhân… chúng được diễn ra với không gian và thời
gian tuỳ nghi theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể nào quan tâm đến vụ
án. Thậm chí nó có thể được diễn ra sau khi bản án đã được chấp hành xong.
Hình thức, mức độ, phạm vi của những cuộc tranh luận nêu trên là khác
nhau tuỳ thuộc vào mục đích của các chủ thể tham gia tranh cãi. Đây
không phải là quá trình tranh tụng trong tố tụng hình sự mà là sự tranh
luận ở nghĩa chung nhất.
Tóm lại, quá trình tranh tụng bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn
thời điểm của quá trình tố tụng hình sự, nó chỉ bao gồm các hoạt động và các
hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm thực hiện các chức năng tố tụng cơ bản:
Buộc tội, bào chữa và tài phán. Trong tố tụng hình sự còn có những hoạt
động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm thực hiện các chức năng nhiệm
vụ khác của tố tụng hình sự như phòng ngừa tội phạm, tuyên truyền pháp
luật, giáo dục cải tạo phạm nhân, nhưng những hành vi này không nằm trong
giới hạn của quá trình tranh tụng [46, tr.15].
Nguyên tắc tranh tụng: Theo từ điển tiếng Việt “ nguyên tắc” là “Điều
cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm [25, tr.694].
Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là “tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ
bản của một hoạt động nào đó [38, tr.45]”. Trong khoa học pháp lý, theo
nghĩa chung nhất thì nguyên tắc của pháp luật là những nguyên lý, tư tưởng
chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt
và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp luật [8,
tr.245]. Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những phương châm, những định
hướng chi phối và quyết định toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự hoặc một
số giai đoạn tố tụng hình sự và mang tính chất định hướng cho mọi hoạt động
và hành vi tố tụng [32, tr.375].
15
Theo các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì nguyên tắc
tranh tụng được coi là cơ sở của tố tụng hình sự; còn theo quan điểm Ba Lan
thì nó là nguyên tắc tổ chức và là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; và
được xác định là nguyên tắc của tố tụng theo quan điểm của các nước thuộc
Liên Xô cũ và Đông Đức trước đây [46, tr.46]. Mặc dù được thừa nhận ở
nhiều góc độ khác nhau nhưng tranh tụng chính là phương tiện để đạt được
mục đích và nhiệm vụ đặt ra của tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án
hình sự khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Nó
bảo đảm cho các chủ thể có thể thực hiện có hiệu quả chức năng của mình
trong tố tụng hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án. Ta có thể thấy rõ,
không những tranh tụng thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng
hình sự mà còn là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và chức
năng của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng.
Như vậy nếu chỉ coi tranh tụng là một phương pháp nhằm thực hiện
mục đích xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự mà không coi
tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự là một thiếu sót. Việc khẳng
định tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự có ý nghĩa to lớn trong
việc bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chính vì
vậy, nguyên tắc tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu. Tại
Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ngày
10.12.1948 ghi nhận: "Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được
phát biểu bình đẳng và công khai trước một Toà án độc lập và không thiên vị,
nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình
có cơ sở trước Toà".
Mặc dù với những mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố
tụng cụ thể nhưng nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi quá trình giải quyết vụ án
hình sự phải được tiến hành dưới hình thức tranh luận, phản bác công khai
16
các quan điểm giữa các bên về vụ án hình sự. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi
sự phân định rõ ràng ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và tài phán thuộc các
bên tương ứng – Bên buộc tội, bên bào chữa và Toà án. Nội dung của nguyên
tắc tranh tụng hình sự không chỉ được ghi nhận ở một điều luật cụ thể mà nó
được thể hiện và cụ thể hoá trong nhiều quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
có liên quan, thống nhất với nhau để tạo thành một chế định pháp lý hoàn
chỉnh xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cần khẳng định:
Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, định hướng
cho các chủ thể trong hoạt động tố tụng nhằm thực hiện chức năng của mình
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Từ nội dung của khái niệm tố tụng hình sự và nguyên tắc tranh tụng ta
có thể rút ra định nghĩa tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là
một loại hình tố tụng hình sự mà ở đó khi yêu cầu Toà án làm trọng tài phân
xử, các bên phải tự mình đưa ra chứng cứ, lý lẽ và được tranh cãi với nhau về
những chứng cứ, lý lẽ đó. Nói cách khác tố tụng tranh tụng trong giải quyết
vụ án hình sự là loại hình tố tụng hình sự mà trong đó các bên tham gia vào
quá trình xác định sự thật vụ án có lợi ích đối lập nhau, địa vị tố tụng ngang
bằng nhau và phán quyết của Toà án dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các bên
tại phiên toà.
Trong giai đoạn điều tra, đã có một số yếu tố của tranh tụng cùng với
sự xuất hiện của bên buộc tội và bên bào chữa, tuy nhiên những đặc điểm của
tranh tụng chỉ có đủ khi xuất hiện chức năng tài phán của phía trọng tài. Như
vậy, đặc điểm, tính chất của tranh tụng chỉ có đủ trong phiên toà xét xử. Về
hình thức, tranh tụng tại phiên toà là hình thức tiến hành các hoạt động tố
tụng theo quy định pháp luật của bên buộc tội và bên bào chữa trước Toà án.
Về nội dung tranh tụng là quá trình chứng minh hoặc phủ nhận tính hợp pháp
của nội dung quyết định buộc tội. Tất cả mọi hoạt động của các chủ thể ở
17
phiên toà đều tập trung kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của từng nội dung
trong cáo trạng truy tố. Trong tố tụng hình sự giai đoạn xét xử được coi là
giai đoạn trung tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò
quan trọng nhất bởi vì toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được
xem xét và quyết định tại giai đoạn này. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một
giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Trong đó, “Toà án có thẩm quyền,
sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử
bằng phiên toà nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người
có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết
định” [38, tr.310].
Việc xét xử vụ án hình sự có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
(xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái
thẩm…). Tuy nhiên đây không phải là các giai đoạn mà mỗi vụ án hình sự
đều phải trải qua một cách đầy đủ và đúng trình tự. Duy nhất chỉ có giai đoạn
xét xử sơ thẩm là giai đoạn bắt buộc đối với quá trình giải quyết các vụ án
hình sự.
Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy đủ
nhất của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa cũng như các chủ
thể khác tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên xét xử này các chức năng tố
tụng cơ bản được phân định rạch ròi: Buộc tội, gỡ tội, và tài phán. Cũng chỉ tại
phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa
được xác định là các bên có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các phương
tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình khi tranh tụng
trước Toà án công bằng.
Vì phiên toà thường ghi âm, ghi hình, nên trong hệ tranh tụng, với mục
đích xem xét lại việc tuân thủ các quy tắc tố tụng, các Thẩm phán phúc thẩm
sẽ xem lại (nghe lại) toàn bộ diễn biến phiên toà và có thể huỷ án nếu có sự vi
18
phạm tố tụng. Trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị với lý do không
phải từ thủ tục tố tụng, thì chủ thể kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm chỉ ra
rằng trong phiên toà xét xử sơ thẩm có sự sai lầm trong việc thực thi công lý,
sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hoặc chứng minh được rằng chứng cứ
được đưa ra xem xét tại phiên toà sơ thẩm không có quan hệ nhân quả với
phán quyết của Bồi thẩm đoàn. Quan điểm là căn cứ cho kháng cáo, kháng
nghị thường do một bên đưa ra với yêu cầu được Toà án xem xét lại. Đó là
những đề nghị liên quan đến chức năng tài phán của Toà án chứ không phải là
quan điểm đưa ra để tranh luận với bên có lập trường tương phản. Ngay khi
phiên toà phúc thẩm có được thiết lập thì nội dung của phiên toà cũng chỉ
xoay quanh những vấn đề bị kháng cáo, kháng nghị và chủ yếu do các chủ thể
có kháng cáo, kháng nghị trình bày với toà. Trong phiên toà chỉ có sự có mặt
của chủ thể có kháng cáo, kháng nghị và có thể có một số chủ thể khác có liên
quan (nhưng không bị bắt buộc). Như vậy, trong phiên toà phúc thẩm, sự tranh
luận (nếu có) chỉ tồn tại một cách phiến diện, được xác định ở một góc độ
hoặc một khía cạnh nào đó chứ không phải toàn bộ vụ án hình sự và tính tranh
tụng không được thể hiện với đầy đủ những đặc điểm của nó.
Mặc dù, nguyên tắc tranh tụng được coi là nguyên tắc cơ bản của tố
tụng hình sự, định hướng cho các chủ thể trong hoạt động nhằm thực hiện
chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhưng rõ ràng
nguyên tắc tranh tụng được thể hiện một cách đầy đủ nhất ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Nó xác định rõ vai trò và vị trí đặc biệt của Toà án với
tố tụng tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Toà án phải tạo
mọi điều kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết tính chủ
động và tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Là chủ thể chính trong
việc đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các chủ thể khác
xuất trình tại phiên toà, ở một mức độ cần thiết Toà án phải tham gia vào quá
19
trình tranh tụng để góp phần làm rõ các chứng cứ và tình tiết về vụ án. Tuy
nhiên, Toà án không được để chủ thể nào bị động khi tham gia tranh tụng
bằng cách làm thay chức năng của họ và ngược lại không được để quá trình
tranh tụng diễn ra theo hướng một chiều theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ
thể tham gia phiên toà nào khác.
Tất cả những phân tích trên đây cho thấy: Chỉ có ở giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, nguyên tắc tranh tụng mới được thể hiện một cách đầy đủ
và toàn diện nhất.
1.1.2. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự:
Về bản chất, Tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quá trình thể hiện
sự cọ sát các quan điểm lập luận của các bên có lợi ích đối lập nhau khi tham
gia vào quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án
[46, tr.20]. Tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau:
1.1.2.a. Sự tham gia tích cực và ngang quyền của bên buộc tội và bên
bào chữa trước Toà.
Tranh tụng bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và đối lập
với nó là chức năng gỡ tội. Bên buộc tội gồm: Công tố viên, người bị hại,
nguyên đơn dân sự và những người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Bên bào chữa gồm: Người bị buộc tội, người bào chữa, bị
đơn dân sự và người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những người này. Trong suốt quá trình tranh tụng, bên buộc tội và bên
bào chữa liên tục trao đổi với nhau những lập luận, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình. “Tố tụng tranh tụng dành một vị trí đặc biệt cho
lợi ích các bên. Lợi ích của xã hội được đặt xuống hàng thứ yếu” [18, tr.3].
Có thể coi tố tụng tranh tụng là một dạng tố tụng đặc biệt diễn ra tại Toà án
để xử lý các tranh chấp giữa ít nhất là hai bên. Tranh chấp do các bên “kiểm
soát”, nghĩa là các bên xác định tranh chấp, xác định các vấn đề phải được
20
quyết định và mỗi bên đều có cơ hội trình bày phần tranh luận của mình tại
toà [18, tr.40].
Như vậy, tố tụng tranh tụng thực sự tạo ra cơ hội cho các bên, bên buộc
tội và bên bào chữa có một vị thế ngang nhau trong việc điều tra để xác định
sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quan điểm của mình trước Toà án. Sự
ngang bằng này được thể hiện ở địa vị tố tụng là các bên tham gia vào quá
trình giải quyết vụ án và có được những phương tiện tương ứng mà pháp luật
dành cho họ như sự bảo đảm về khả năng trong việc thực hiện quyền của
mình. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền điều tra, thu thập chứng cứ,
triệu tập nhân chứng để phản bác lại quan điểm của phía đối phương và khẳng
định cho lý lẽ của mình trước toà. Những chứng cứ và lý lẽ hợp pháp được
Toà án chấp nhận và là căn cứ cho phán quyết cuối cùng. Như vậy, “Tố tụng
tranh tụng để cho bên buộc tội vận dụng hết khả năng của mình để buộc tội
một kẻ trước Toà cũng như dành cho bên bào chữa những khả năng cao nhất
để thực hiện chức năng gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội” [36, tr.240]. Đây là đặc
điểm quan trọng của hệ tố tụng tranh tụng.
1.1.2.b Quyền lực được san sẻ giữa Thẩm phán, Luật sư, Công tố
viên và Bồi thẩm đoàn.
Với mục đích của hệ thống tranh tụng là hạn chế đến mức thấp nhất sự
can thiệp của những người có quyền quyết định đối với vụ án để đảm bảo cho
các thủ tục tố tụng được tiến hành một cách công bằng theo cách các bên
tranh chấp có quyền trình bày về vụ án mà không bị sự lấn át của bên kia [18,
tr.28] nên trong tố tụng tranh tụng không có ai chiếm vai trò tuyệt đối về
quyền lực, mà có sự chia sẻ quyền lực giữa công tố viên - đại diện cho bên
buộc tội, Luật sư - đại diện cho bên bào chữa, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
và Bồi thẩm đoàn.
21
Viện công tố ở các nước theo hệ tranh tụng sẽ làm nhiệm vụ truy tố kẻ
bị tình nghi là phạm tội ra trước Toà. Người giữ quyền công tố - đại diện cho
cơ quan này trước Toà án được gọi là Công tố viên hoặc là Luật sư buộc tội.
Trước khi phiên toà diễn ra, Công tố viên có quyền tiến hành điều tra thu thập
chứng cứ. Vai trò của Công tố viên trong một phiên toà hình sự là lựa chọn và
trình bày tất cả những chứng cứ mà Nhà nước sẽ lấy làm căn cứ buộc tội.
Công việc buộc tội không chỉ đơn giản là với quyết định truy tố nhằm mục
đích buộc tội ai đó ra trước Toà, mà với tư cách là đại diện cho cơ quan công
quyền, Công tố viên còn phải chứng minh sự đúng đắn và hợp pháp của nội
dung truy tố bằng cách đưa ra các chứng cứ, và các lập luận để bảo vệ quan
điểm của mình về sự buộc tội đối với bị cáo đồng thời bác bỏ các chứng cứ và
lập luận của bên bào chữa.
Bào chữa là toàn bộ các hành vi, hoạt động tố tụng của người bị tình
nghi; bị can; bị cáo; người bào chữa; đại diện hợp pháp của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo là vị thành niên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho người bị tình nghi, gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
người bị buộc tội. Luật sư bào chữa là một chức danh dùng để chỉ người là
người đại diện cho người bị buộc tội trong việc phủ nhận những lý lẽ của
công tố viên nhằm mục đích gỡ tội cho người bị buộc tội. Vai trò của Luật sư
bào chữa là “Hành động không sợ hãi trong việc bào chữa cho khách hàng”
[18, tr.44]. “Mặc dù Luật sư có nghĩa vụ với Toà án nhưng nghĩa vụ chính
của họ là đối với khách hàng” [44, tr.13]. Pháp luật tố tụng của các nước theo
hệ tranh tụng dành cho Luật sư bào chữa một địa vị tố tụng và những quyền
năng ngang bằng, không hề thua kém các công tố viên. Sự ngang bằng này
thể hiện ở chỗ, nếu pháp luật dành cho một công tố viên những quyền gì thì
một Luật sư bào chữa cũng được pháp luật dành cho những quyền năng tương
ứng như thế. Trong quá trình giải quyết vụ án, Luật sư cũng được điều tra, thu
22
thập chứng cứ, và được phép trình bày lý lẽ của mình trước Toà án để bác bỏ
sự buộc tội, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội cho bị cáo và được phép
tranh luận bình đẳng với Công tố viên.
Bồi thẩm đoàn thường được nói tới như là “Một tổ chức được trao nghĩa
vụ hiến định là quyết định các tình tiết sự thực vụ án” [18, tr. 43]. Bồi thẩm
đoàn được tuyển lựa qua con đường bầu cử với một thời gian nhất định và là
một đặc trưng tại các nước theo hệ tranh tụng. Bồi thẩm đoàn thường gồm từ
9 đến 12 thành viên và họ sẽ chỉ làm việc theo lời mời của Toà án cho từng vụ
việc với cơ chế kiêm nhiệm, khi tham gia xét xử, Bồi thẩm đoàn bỏ phiếu để
quyết định bị cáo có tội hay không có tội, trong trường hợp bị cáo tự thú tội,
việc xét xử không cần có Bồi thẩm tham gia. Trước khi phiên toà diễn ra, Bồi
thẩm đoàn không được biết bất kỳ một thông tin nào về vụ án ngoài cái tên
gọi của nó. Để ra được một kết luận về sự thực vụ án, Bồi thẩm đoàn phải chú
ý lắng nghe cuộc tranh luận giữa các bên tại phiên toà và có thể được đặt các
câu hỏi để xác định xem một người nào đó có phạm tội hay không. Nếu đa số
phiếu của Đoàn bồi thẩm phán quyết một kẻ nào đó là không có tội thì phiên
toà xét xử sẽ chấm dứt và bị cáo sẽ được phóng thích ngay, ngược lại nếu đó
là phán quyết bị cáo có tội thì giai đoạn kết án sẽ được bắt đầu [18, tr.43]. Có
thể nhìn nhận Bồi thẩm đoàn là một cơ chế quan trọng để hạn chế sự chuyên
chế của Chính phủ cũng như của các "Quan toà". Quy định quyền được xét
xử trước Bồi thẩm đoàn như một hạn chế đối với mọi can thiệp từ chính
quyền.
Các vị Thẩm phán thuộc hệ tố tụng tranh tụng thường có tuổi đời khá
cao có xuất thân và thâm niên là các vị Luật sư giỏi. Trong phiên toà hình sự
có Bồi thẩm đoàn, vai trò của Thẩm phán là vai trò của trọng tài duy nhất về
luật pháp. Vai trò này là thiết yếu trong việc có được một phiên toà công
bằng. Trước khi diễn ra phiên toà, Thẩm phán không có hồ sơ hay bất kỳ tài
23
liệu nào về vụ án. Thẩm phán trong phiên toà tranh tụng là người làm nhiệm
vụ điều khiển phiên toà, để cho phiên toà diễn ra theo đúng trình tự quy định
của luật tố tụng, đảm bảo rằng không có sự dẫm đạp lên sự tôn nghiêm của
Toà án. Quy tắc chứng cứ hạn chế đối với những nhận xét đánh giá của Thẩm
phán về vụ án trước khi Bồi thẩm đoàn nghị án. Sau khi Bồi thẩm đoàn ra
phán quyết một bị cáo là có tội thì nhiệm vụ của quan toà là phải xem xét rõ
hành vi của bị cáo đã thoả mãn cấu thành tội phạm nào? tội phạm đã hoàn
thành chưa? trên cơ sở đó quan toà sẽ ra phán quyết bị cáo phạm tội gì, mức
hình phạt đối với bị cáo về tội đó và cách thức thi hành hình phạt trong tương
lai. Tính chuyên nghiệp và nhiệm kỳ ổn định giúp đội ngũ Thẩm phán tài
năng thoát khỏi ảnh hưởng của chính quyền hành pháp. Căn bệnh quan liêu
của nền hành chính đồ sộ thực sự bị loại bỏ trong hệ thống Toà án. Toà án
không được phép định kiến đối với bất cứ bên nào và cũng không thể bị ràng
buộc bởi bất cứ một yêu cầu, đề nghị hoặc ý kiến của bất kỳ ai.
1.1.2.c. Chứng cứ do các bên thu thập và đề xuất.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự của các nước thuộc hệ
thống pháp luật Anh - Mỹ thì nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự
được phân đều cho cả hai bên tham gia tranh tụng. Bên buộc tội, mà chủ yếu
là cơ quan điều tra và Viện công tố chỉ có trách nhiệm thu thập các chứng cứ
buộc tội, tức là các chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo là người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội và là tội phạm mà không có nhiệm vụ phải thu
thập các chứng cứ có tính chất gỡ tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
can, bị cáo. Việc thu thập chứng cứ phản bác lại sự buộc tội, chứng minh sự
vô tội, giảm nhẹ tội hoặc trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là nhiệm vụ
của bên bào chữa. Người bị tình nghi hoặc bị can phải tự mình hoặc thuê Luật
sư bào chữa tiến hành cuộc điều tra độc lập để thu thập các chứng cứ đó. Tại
24
phiên toà các bên buộc tội và bào chữa đều có quyền như nhau về việc đưa ra
chứng cứ, được quyền kiểm tra chéo để xác định độ tin cậy các chứng cứ của bên
đối phương nhằm mục đích khẳng định hay bác bỏ chúng, bên buộc tội có trách
nhiệm chứng minh tội phạm của bị cáo, bên bào chữa có trách nhiệm chứng minh
sự vô tội, giảm nhẹ tội hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho thân chủ của mình.
Trong tố tụng tranh tụng chỉ có giai đoạn tiền xét xử, không có giai
đoạn điều tra, mọi chứng cứ hoàn toàn được các bên thu thập, lựa chọn đưa ra
và tranh cãi tại phiên toà xét xử. Luật sư của hai bên và công tố viên được
khuyến khích để chất vấn nhau về tất cả các chứng cứ được đưa ra tại toà.
Thẩm phán chỉ được biết đến các chứng cứ của vụ án tại phiên toà và chỉ
phân tích chứng cứ với mục đích và giới hạn là để tuyên án [18, tr.40] mà
không có quyền biết đến các chứng cứ đó trước khi phiên toà diễn ra. Mỗi bên
có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia để xác định làm rõ chứng cứ, thậm
chí có quyền ngắt lời bên kia để phản bác.
1.1.2.d. Thủ tục tố tụng phức tạp và phiên toà kéo dài:
Có ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục trong hệ thống tranh
tụng: giai đoạn trước và sau khi xét xử là quy tắc tố tụng, giai đoạn xét xử
(tại Toà) là quy tắc về chứng cứ và cuối cùng là quy tắc điều chỉnh đạo đức
Luật sư .
Quy tắc tố tụng gồm một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị chứng
cứ trước khi bước vào xét xử chính thức và là một thủ tục tư pháp hành chính
để Toà án xem xét các chứng cứ đã đủ cho một phiên toà chính thức chưa
nhằm tránh những thủ tục điều tra có thể diễn ra không cần thiết tại Toà.
Quy tắc về chứng cứ bảo đảm sự thống nhất của các yếu tố trong hệ
tranh tụng. Quy tắc loại trừ chứng cứ đảm bảo hiệu quả cho hoạt động đối
chất và nó ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy, gây
tranh cãi và có thể làm Toà án đưa ra phán quyết dựa trên những thông tin sai
25
lệch. Ví dụ như: Không sử dụng lời khai của người đã từng bị kết tội khai báo
gian dối, hạn chế sử dụng lời khai của người vợ đối với chồng. Nó cũng
nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không công
bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng. Ví dụ như: Trước khi Bồi thẩm
đoàn đưa ra phán quyết có tội hay không có tội, Công tố viên không được đưa
ra những thông tin hay ám chỉ về nhân thân bị cáo (chẳng hạn như tiền án,
tiền sự). Thông hiểu các quy tắc như chứng cứ tốt nhất (chứng cứ trực tiếp),
chứng cứ nghe nói lại (chứng cứ gián tiếp), các Luật sư hay Công tố viên đều
phải lựa chọn, dự tính chứng cứ nào sẽ được mình xuất trình trước toà, tránh
những rủi ro có thể xảy ra từ việc xuất trình những chứng cứ ít giá trị chứng
minh và thiếu tính xác thực. Đây cũng là điều kiện ràng buộc Luật sư (Luật sư
của các bên - và của cơ quan công tố) để họ biết được những chứng cứ nào sẽ
được Toà án chấp thuận. Với những quy định trong quy tắc về chứng cứ, hệ
tranh tụng đảm bảo sự trung lập và thụ động của Toà án trong khi xét xử. Mặc
dù là Chủ toạ phiên toà nhưng Thẩm phán cũng phải tuân theo các quy tắc
chứng cứ đã được xác định trước.
Do tính cạnh tranh, đối đầu của hệ tranh tụng có thể dẫn tới tình trạng
cần phải thắng trong cuộc đấu với bất cứ giá nào kể cả sử dụng các thủ đoạn,
hệ tranh tụng sử dụng một loạt các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp để kiểm
soát đội ngũ Luật sư của cả hai bên. Những hành động thủ đoạn nhằm đe doạ
đối phương, che dấu, làm sai lệch giá trị chứng minh của thông tin có thể làm
cho Toà án bị lạc hướng hoặc có định kiến hoàn toàn bị cấm và loại trừ. Hơn
nữa, quy tắc về đạo đức đòi hỏi Luật sư phải hành sự và trung thành tuyệt đối
với quyền lợi của thân chủ của mình như chính quyền lợi của họ.
Các thủ tục tố tụng sau khi xét xử (sơ thẩm) với hàng loạt các quy định
về quyền kháng cáo, kháng nghị là căn cứ để xem xét lại bản án sơ thẩm.
Thẩm phán (phúc thẩm hay giám đốc thẩm) sẽ nghe lại (ghi âm, ghi hình),