1
Đại học Quốc gia Hà nội
KHOA LUẬT
Lê Thị Phượng
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
trong luật hình sự việt nam
Luận văn thạc sĩ luật học
Hà nội - 2010
2
Đại học Quốc gia Hà nội
KHOA LUẬT
Lê Thị Phượng
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
trong luật hình sự việt nam
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60.38.40
Luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: GS - TSKH Lê Văn Cảm
Hà nội - 2010
4
Mục lục
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Mở ĐầU 1
Chương 1: một số VấN Đề CHUNG Về TộI xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong luật hình sự 7
1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp và ý nghĩa của việc ghi nhận tội phạm này trong luật hình
sự Việt Nam 7
1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 7
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp 12
1.1.3. ý nghĩa của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam 14
1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam nói
chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp 14
1.3. Điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới
đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng chế tài hình sự 22
1.3.1. Điều ước quốc tế đa phương 22
1.3.2. Điều ước quốc tế khu vực 24
1.3.3. Điều ước quốc tế song phương 24
1.3.4. Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp bằng chế tài hình sự 26
5
Chương 2: Các quy định của luật hình sự việt nam hiện hành về tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp 32
2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp 32
2.1.1. Khách thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 32
2.1.2. Mặt khách quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp 33
2.1.3. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 38
2.1.4. Mặt chủ quan của tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp 40
2.2. Quy định về hình phạt đối với tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp 43
2.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với một số tội
phạm khác trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ 47
2.3.1. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với tội
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan 47
2.3.2. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với
các tội sản xuất, buôn bán hàng giả 49
2.3.3. Phân biệt tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với
tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp 51
Chương 3: thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở việt nam
hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 54
3.1. Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay 54
6
3.1.1. Tình hình xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực
tiễn xét xử tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 54
3.1.2. Nguyên nhân của tình hình xâm phạm và thực tiễn xét xử
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, xu hướng phát triển
tội phạm này trong thời gian tới 63
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 73
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế - xã hội 73
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp 74
3.2.3. Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý
nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh
phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp 78
3.2.4. Nâng cao nhận thức của nhân dân về sở hữu công nghiệp 81
3.2.5. Phát triển hợp tác quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp và trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp 82
KếT luận 84
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO 86
7
Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (trang 48)
Bảng 2.2: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
và các tội sản xuất, buôn bán hàng giả (trang 50)
Bảng 2.3: Sự khác nhau giữa tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
và tội vi phạm các quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp (trang 52)
Bảng 3.1: Số liệu khiếu nại về vi phạm quyền sở hữu công nghiệp từ
năm 2003 đến năm 2009 (trang 54)
Bảng 3.2: Số liệu thống kê tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp từ
năm 2003 đến năm 2009 (trang 58)
1
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ mà thế giới "tiếp tục có những biến đổi sâu sắc,
nền khoa học và nhất là khoa học công nghệ sẽ có bước phát triển nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật và quan trọng trong quá trình
phát triển lực lượng sản xuất" [45]. Xu thế toàn cầu hóa (quốc tế hóa) đã trở
thành một xu thế khách quan, tất yếu lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia
và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Với việc gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đất nước ta
đang có những bước tiến đáng kể đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ bởi
lẽ đây là lĩnh vực phát triển hết sức năng động, nhạy cảm, mang tính chất đặc
thù và có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Do vậy, vấn đề bảo hộ và thực thi quyền sở
hữu sở hữu công nghiệp - một trong những nội dung cơ bản của quyền sở hữu
trí tuệ là rất quan trọng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của đất nước
phát triển một cách lành mạnh, hạn chế những yếu tố tiêu cực có thể nảy sinh
của quá trình toàn cầu hóa.
Có thể nói, hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung,
quyền sở hữu công nghiệp nói riêng ở nước ta được bắt đầu từ thập
niên 80 của thế kỷ XX nhưng so với các nước phát triển trên thế giới
như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Hà Lan thì chúng ta vẫn đi sau cả
một chặng đường dài (ở các nước này, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã
được điều chỉnh bằng pháp luật từ hàng trăm năm nay). Mặc dù thời gian gần
đây, nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc ban hành các văn bản pháp luật để
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (chẳng hạn như việc cho ra đời Luật chuyên biệt
về sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009) song đánh giá
2
một cách tổng quan thì pháp luật nước ta vẫn còn thiếu tính đồng bộ, chồng
chéo nên dẫn tới việc thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng như quyền
sở hữu công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Hiện tượng vi phạm quyền sở
hữu công nghiệp và các quyền tương đương khác diễn ra rất phổ biến, dưới
nhiều hình thức khác nhau mà chưa có cách nào ngăn chặn một cách hiệu quả.
Về phía chủ thể có đối tượng cần được bảo hộ, phần lớn lại chưa nhận thức
đẩy đủ, rõ ràng tầm quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp nên đã có phần
lơi là, mất cảnh giác trong việc bảo vệ quyền lợi của chính mình.
Mặt khác, nước ta đã tham gia cũng như ký kết nhiều hiệp ước đa
phương, song phương về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp như: Công ước
Paris năm 1883 về sở hữu công nghiệp; Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ năm 1994 (Hiệp định TRIPS); Thoả
ước năm 1891 về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; Hiệp định về hợp tác bằng
sáng chế (PTC) năm 1970; Hiệp định Việt Nam - Thuỵ Sĩ về sở hữu trí tuệ
ngày 7/7/1999; Thoả thuận hợp tác giữa Việt Nam - Nhật Bản về việc triển
khai dự án IICA tài trợ cho lĩnh vực quản lý sở hữu công nghiệp tại Việt Nam
ngày 01/02/1999; Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 13/7/2000,
trong đó có đề cập đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… Ngoài ra, nước ta
còn tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực chẳng hạn như Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), ASEAN …Do vậy, đòi hỏi quyền sở hữu
công nghiệp cần được quan tâm một cách thiết thực và đúng mức hơn nữa.
Bởi những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam” là cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta về sở hữu trí tuệ,
đấu tranh phòng, chống có hiệu quả các hành vi xâm phạm và tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp nhằm mục tiêu đưa đất nước ta hòa nhập nhanh
vào công cuộc hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu
3
Với vai trò ngày càng quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp nên
việc nghiên cứu tội phạm này ở các mức độ khác nhau đã được một số luật
gia trong nước quan tâm nghiên cứu song số lượng chưa nhiều: Có một số bài
viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành chẳng hạn như: Bài “Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự” đăng trên Tạp chí Dân chủ &
Pháp luật số 3/2004 của GS. TSKH Lê Cảm; bài “Tội phạm trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ và một số ý kiến về sửa đổi Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số
3/2007 của TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi; bài “Các quy định của Bộ luật hình sự
về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9/2008
của Ths. Lê Việt Long.v.v. .
Dưới dạng công trình nghiên cứu khoa học có luận án tiến sĩ vừa được
bảo vệ tháng 3/2009 tại Viện Nhà nước và Pháp luật của tác giả Nguyễn Đức
Nga với đề tài “Đấu tranh phòng, chống các loại tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay” nhưng dưới góc độ tội phạm học.
Ngoài ra còn được đề cập ít nhiều trong các sách chuyên khảo, giáo
trình như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2003; Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm) của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005.v.v.
Các công trình và bài viết này, đã bước đầu đi vào phân tích các quy
định cụ thể trong pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp cũng như những căn cứ áp dụng và những kiến giải lập pháp
cụ thể cho các quy phạm này.
Tuy nhiên, khái quát chung thì thấy rằng tất cả những nghiên cứu trên
đây của các tác giả mới chỉ dừng lại ở góc độ giới thiệu một cách cơ bản về
các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung hoặc nghiên cứu kết hợp
với một số tội phạm sở hữu trí tuệ khác hoặc chỉ đi sâu nghiên cứu dưới góc độ
tội phạm học mà chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện, có hệ
thống dưới góc độ pháp luật hình sự với tên đề tài “Tội xâm phạm quyền sở
4
hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam” ở cấp độ một luận văn thạc sĩ
hay ở cấp độ khác cao hơn cho nên rõ ràng việc nghiên cứu đề tài này vẫn là
cần thiết và mang tính thời sự sâu sắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận những nội dung cơ
bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
và việc xử lý tội phạm này trong thực tiễn, từ đó tìm ra những bất cập để đề
xuất những kiến giải lập pháp cũng như những giải pháp cụ thể phục vụ cho
công tác đấu tranh phòng và chống có hiệu quả loại tội phạm này ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên đã đặt ra cho luận văn các nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau:
Thứ nhất, từ những nghiên cứu, phân tích về sự hình thành và phát triển
các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng đối với
việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm
cũng như các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp, phân biệt nó với một số loại tội phạm khác, luận văn tập trung
vào việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của tội phạm
này theo luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Thứ hai, chỉ ra thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở
nước ta hiện nay nhằm lý giải cho sự cần thiết phải hoàn thiện về mặt pháp luật
thực định và đề xuất các giải pháp để phòng, chống có hiệu quả tội phạm này.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của luận văn có thể kể ra đó là: khái niệm, các
đặc điểm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác gần nó, đánh
giá thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tìm ra nguyên nhân
và đưa ra những kiến nghị thiết thực, cụ thể cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3.4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp theo luật hình sự Việt Nam hiện hành đồng
thời cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật chuyên biệt về sở hữu trí
tuệ, luật dân sự, hành chính nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối
tượng nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật của phương pháp luận Mác -
Lênin. Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chỉ đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm sở hữu trí tuệ nói
chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Đồng thời, căn
cứ vào các văn bản pháp luật và những giải thích có tính chất thống nhất về
đường lối xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật liên quan đến tội phạm
này, những số liệu thống kê thực tế của ngành Tòa án, Cục Sở hữu trí tuệ…
luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp,
logic, thống kê, lịch sử, so sánh.v.v. để làm sáng tỏ các vấn đề tương ứng
được lần lượt đưa ra nghiên cứu.
5. ý nghĩa của luận văn
6
Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp qua đó
khẳng định vai trò của các quy định này trong quá trình thực thi việc bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng và chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, khắc phục
tình trạng hành chính hóa tràn lan những hành vi xâm phạm đã vượt ra ngoài
phạm vi điều chỉnh của các ngành luật phi hình sự, đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong luật hình sự.
Chương 2: Các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Chương 3: Thực trạng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu
tranh phòng, chống tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
7
Chương 1: một số vấn đề chung về tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trong luật hình sự
1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp và ý nghĩa của việc ghi nhận tội phạm này trong luật
hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Để làm rõ khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, việc
trước tiên ta cần phải làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản có liên quan như:
tài sản trí tuệ, sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quyền
sở hữu công nghiệp.v.v. Yêu cầu này buộc ta phải tìm về với các quy định của
pháp luật dân sự và pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ.
Khái niệm tài sản trí tuệ: Trước những năm 90 của thế kỷ XX người ta
quan niệm tài sản chỉ bao gồm tiền tệ và vật chất (gọi chung là tài sản hữu
hình). Nhưng ngày nay khi nền kinh tế tri thức đã phát triển, khái niệm tài sản
đã có sự thay đổi đáng kể nó không chỉ bao gồm có tiền, vật chất (tài sản hữu
hình) mà còn bao gồm cả tài sản vô hình trong đó có tài sản trí tuệ. Chính bởi
mang trong mình thuộc tính vô hình nên tài sản trí tuệ không thể được xác
định bằng các đặc điểm vật chất mà cần được thể hiện ra bên ngoài theo một
cách thức nào đó với một hình thức cụ thể để chúng ta có thể nhận biết được.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: "trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt
đến một trình độ nhất định. Đó là tài sản riêng của con người mà không một
loài vật nào có được" [57].
Do vậy, hiểu một cách đơn giản: Tài sản trí tuệ là sản phẩm của hoạt
động trí tuệ, tồn tại dưới các dạng thông tin, tri thức. Theo Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì tài sản trí tuệ bao gồm: tác
phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, bản ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, sáng chế, kiểu dáng công
8
nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh và giống cây trồng… Tài sản trí tuệ có khả
năng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần vô cùng to lớn cho chủ sở hữu
tài sản cũng như người chiếm hữu, sử dụng nó.
Khái niệm sở hữu trí tuệ: Trong khoa học pháp lý hiện đại, có khá
nhiều khái niệm khác nhau về sở hữu trí tuệ. Nhưng theo cách hiểu chung
nhất thì sở hữu trí tuệ là sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với các tài sản trí
tuệ - kết quả từ việc tư duy, sáng tạo của con người. Đây là khái niệm pháp lý
chỉ sự bảo hộ của Nhà nước đối với các thành quả lao động do hoạt động của
trí tuệ mang lại.
Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ: Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) giải thích quyền sở hữu trí tuệ là: "sáng tạo trí óc: sáng chế, tác phẩm
văn học và nghệ thuật, biểu tượng, tên, ảnh và các thiết kế dùng trong thương
mại. Quyền sở hữu trí tuệ được phân làm hai loại là sở hữu công nghiệp và
bản quyền".
Vậy hiểu một cách chung nhất, quyền sở hữu trí tuệ chính là quyền của
cá nhân, tổ chức đối với các sản phẩm trí tuệ do mình sáng tạo ra hoặc sở
hữu. Là độc quyền được công nhận cho phép họ sử dụng hay khai thác các
khía cạnh thương mại của sản phẩm trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ có điểm
giống với quyền sở hữu tài sản thông thường ở chỗ nó cũng phải chịu những
hạn chế nhất định về thời gian, hiệu lực bảo hộ và phạm vi lãnh thổ…
Khái niệm sở hữu công nghiệp: Sở hữu công nghiệp là một cụm từ
mang tính chất ước lệ, tượng trưng, có nguồn gốc từ châu Âu. Trải qua khá
nhiều cuộc tranh luận trong giới các nhà khoa học, giờ đây cụm từ này ngày
càng trở nên phổ biến, được các quốc gia dần dần công nhận và sử dụng một
cách rộng rãi.
9
Sở hữu công nghiệp có thể được hiểu là sở hữu của cá nhân, tổ chức
đối với các thành quả nghiên cứu triển khai có thể áp dụng công nghiệp. Các
"thành quả" này còn gọi là các đối tượng sở hữu công nghiệp và nó bao gồm:
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật
kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp: Tại Điều 780 Bộ luật dân sự
năm 1995 được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có ghi nhận: "Quyền sở
hữu công nghiệp là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa
và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định".
Khoản 4 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2009) thì đưa ra định nghĩa pháp lý đầy đủ, cụ thể và chính xác hơn.
Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp được hiểu là: "Quyền hợp pháp của tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh".
Như vậy, so với Bộ luật dân sự năm 1995 thì Bộ luật dân sự năm 2005
và Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có
những thay đổi đáng kể về đối tượng sở hữu công nghiệp cũng như về chủ thể
của quyền sở hữu công nghiệp. Đồng thời, các định nghĩa pháp lý riêng,
tương ứng với từng đối tượng sở hữu công nghiệp cũng có những điểm mới
cơ bản, phù hợp hơn với pháp luật thế giới. Một số đối tượng sở hữu công
nghiệp trước đây như giải pháp hữu ích, tên gọi xuất xứ hàng hóa đã không
còn được đề cập mà thay vào đó là các đối tượng: tên thương mại, chỉ dẫn địa
lý, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.
10
Các đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật Việt Nam hiện hành
ghi nhận và bảo vệ cụ thể như sau:
- Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
- Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể
hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (gọi chung là thiết kế bố trí) là
cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó
trong mạch tích hợp bán dẫn. Trong đó "mạch tích hợp bán dẫn" được hiểu là
"sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử
với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được
gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức
năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử".
- Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau.
+ Nhãn hiệu tập thể là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch
vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó.
+ Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho
phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá
nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách
thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác,
độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu.
+ Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký,
trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự
nhau hoặc có liên quan với nhau.
11
+ Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng
rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
- Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể
kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (khu vực kinh
doanh là khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng
hoặc có danh tiếng).
- Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu
vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.
- Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính,
trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. [28]
Căn cứ để chủ thể xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối
tượng sở hữu công nghiệp là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý, thiết kế bố trí được dựa trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Cục sở hữu trí tuệ thuộc Bộ
Khoa học & Công nghệ) hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Riêng đối với nhãn hiệu nổi
tiếng thì quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở sử dụng, không
phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên có các quyền cơ bản
như: sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ; ngăn cấm người khác sử dụng đối
tượng sở hữu công nghiệp; định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy
định của pháp luật.
Cũng phải nhấn mạnh rằng, trong số các hành vi xâm phạm đến đối
tượng sở hữu công nghiệp nêu trên thì chỉ có hành vi xâm phạm nhãn hiệu,
chỉ dẫn đại lý với quy mô nhất định mới được luật hình sự điều chỉnh (tại
12
Điều 171 Bộ luật hình sự) còn hành vi xâm phạm tới nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
nhưng chưa đến mức xử lý bằng chế tài hình sự hoặc các hành vi xâm phạm
đến đối tượng sở hữu công nghiệp khác như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
tên thương mại, bí mật kinh doanh… thì được xử lý chủ yếu bằng biện pháp
hành chính hay biện pháp dân sự.
Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp: Mặc dù Bộ luật
hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) không ghi nhận định
nghĩa pháp lý về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Song, từ những
khái niệm liên quan được phân tích ở trên đồng thời xuất phát từ khái niệm tội
phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cánh cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa" cho phép ta
đưa ra khái niệm về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp như sau:
Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, bị luật hình sự cấm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới nhãn hiệu
hoặc chỉ dẫn địa lý của chủ thể (cá nhân, tổ chức) khác đang được bảo hộ tại
Việt Nam với quy mô thương mại.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Từ khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, có thể nhận
thấy tội phạm này có bốn đặc điểm cơ bản:
13
Thứ nhất, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi nguy
hiểm cho xã hội:
Đó là hành vi gây nên (hoặc có khả năng thực tế) gây nên thiệt hại đáng
kể cho các quan hệ xã hội trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp được pháp luật
hình sự bảo vệ. Đây là đặc điểm thể hiện bản chất xã hội và thuộc tính khách
quan của tội phạm, là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi
vi phạm pháp luật khác.
Thứ hai, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là hành vi bị luật
hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm):
Đây là đặc điểm pháp lý (hình thức) của các tội phạm được quy định
trong luật hình sự nói chung và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói
riêng. Tính trái pháp luật hình sự thể hiện ở việc Bộ luật hình sự năm 1999
(được sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều 171 đã ngăn cấm việc thực hiện
tội phạm này bằng cách đe doạ áp dụng chế tài hình sự (hình phạt) đối với
người thực hiện hành vi phạm tội có thể là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù có thời hạn.v.v.
Đặc điểm này lại một lần nữa cụ thể hóa Điều 2 Bộ luật hình sự hiện
hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự" và cụ thể hóa cho một nguyên tắc cơ bản của luật
hình sự đó là nguyên tắc: "Nullum crimen, nulla poena sine lege" (không có
tội phạm, không có hình phạt nếu không được luật quy định).
Thứ ba, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp do người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố
ý:
Cũng giống như các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp nhất thiết phải là người ở trong trạng thái bình thường (tức
là không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoàn toàn khả năng
14
nhận thức hoặc điều khiển hành vi), có khả năng nhận thức được đầy đủ tính
chất thực tế cũng như tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện và điều
khiển được đầy đủ hành vi đó. Đồng thời, tại thời điểm thực hiện tội phạm,
người này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất định mà luật hình sự quy định
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cùng với năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thì "lỗi" cũng là một đặc điểm chủ quan và mang tính bắt buộc đối với
mọi cấu thành tội phạm. ở tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, lỗi của
chủ thể khi thực hiện tội phạm là lỗi cố ý: người phạm tội nhận thức rõ hành
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
được hậu quả của hành vi do mình gây nên nhưng vẫn mong muốn cho hậu
quả xảy ra.
Thứ tư, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu công nghiệp đối với
hai đối tượng sở hữu công nghiệp cụ thể là nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang
được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại:
(Đặc điểm này sẽ được đi sâu làm rõ tại Chương 2 của luận văn).
1.1.3. ý nghĩa của việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
Việc ghi nhận tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam mang lại
những ý nghĩa thiết thực:
Một là, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể trong xã hội,
khuyến khích khả năng sáng tạo các tài sản trí tuệ, tạo động lực để phát triển
kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật và hướng tới một môi trường kinh doanh
lành mạnh.
Hai là, việc quy định tội phạm này trong luật hình sự đã tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cũng như nâng cao hơn nữa hiệu quả của công cuộc đấu tranh
phòng, chống các xâm phạm về sở hữu công nghiệp nói chung và tội xâm
15
phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng. Qua đó, góp phần giáo dục mọi
người dân có ý thức tôn trọng pháp luật về sở hữu công nghiệp, không làm,
không tiêu dùng các loại hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…
Ba là, việc ghi nhận tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật
hình sự còn là một bước quan trọng để tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật
về sở hữu trí tuệ trong lộ trình những năm tiếp theo.
1.2. Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam
nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (một bộ phận của quyền sở hữu trí
tuệ) là nội dung quan trọng được pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
hình sự Việt Nam nói riêng ghi nhận tương ứng với từng giai đoạn phát triển
khác nhau của lịch sử.
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1975
Do đặc điểm tình hình đất nước bị chia cắt hai miền với hai chế độ
chính trị - xã hội khác nhau, Đảng ta chỉ đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược là: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng độc lập
dân tộc dân chủ ở miền Nam để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất tổ quốc. Với nhiệm vụ đã đặt ra, cả dân tộc đều đồng lòng, dốc sức
cho sự nghiệp thống nhất đất nước nên việc ban hành các văn bản pháp luật
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh còn rất ít ỏi và hầu như chưa có
một văn bản pháp luật nào đề cập đến việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến trước năm 1985
Khi non sông đã thu về một mối, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện thì vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng đã bắt đầu được đề cập. Mốc đánh
dấu quan trọng đầu tiên là việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức sở
16
hữu trí tuệ thế giới (WIPO) năm 1976 và bước đầu đã có một số quy định về
tội phạm và hình phạt đối với hành vi sản xuất hàng giả, lừa gạt người tiêu thụ
tại Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng
lâm thời. Song, do đặc điểm kinh tế xã hội thời kỳ này chưa có cơ sở cho sự
xuất hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nên quy định về tội
phạm này chủ yếu để ngăn chặn hành vi sản xuất hàng giả về nội dung. ở tầm
cao hơn, Hiến pháp năm 1980 đã gián tiếp nhắc đến vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp qua quy định tại Điều 72: "Công dân có quyền nghiên cứu
khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật… Quyền lợi của tác giả và của người
sáng chế, phát minh được bảo đảm". Sau khi Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực
thì một số văn bản về sở hữu công nghiệp đã được ban hành nhằm cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp như: Điều lệ về sản xuất và sáng chế năm 1981, điều
lệ về nhãn hiệu hàng hoá năm 1982…
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1990
Nhà nước ta đã có động thái tích cực trong việc ban hành hàng loạt các
văn bản pháp luật để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp như: Điều lệ về giải
pháp hữu ích năm 1988; Điều lệ về kiểu dáng công nghiệp năm 1988; Pháp
lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989… Đáng chú ý nhất ở thời
kỳ này, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng chế tài hình sự đã bắt
đầu được ghi nhận trong một văn bản pháp lý quan trọng của Nhà nước đó
chính là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1985. Bộ luật này đã xây dựng hẳn một điều luật quy định về các
tội liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp, cụ thể là "Tội làm hàng giả và tội
buôn bán hàng giả" quy định tại Điều 167 ở Chương VII "Các tội phạm về
kinh tế":
Điều 167. Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả
17
1- Người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
ba năm đến mười hai năm:
a/ Hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh;
b/ Có tổ chức;
c/ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc danh nghĩa Nhà nước, tổ chức xã
hội;
d/ Hàng giả có số lượng lớn; thu hồi bất chính lớn;
đ/ Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều này cho thấy, đã có bước phát triển mới trong nhận thức về tầm
quan trọng của việc bảo vệ các thành quả do trí tuệ con người sáng tạo ra
trong đó có vấn đề bảo vệ các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
Sự ra đời của Bộ luật hình sự năm 1985 đã đặt nền móng đầu tiên trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam đối với các tội phạm liên quan đến lĩnh vực
sở hữu công nghiệp. Song, Bộ luật hình sự năm 1985 còn bộc lộ những hạn
chế ở chỗ: chưa bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp một cách đầy đủ, chưa tiên
liệu được hết các dạng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng
như chưa có sự tách bạch giữa hành vi làm, buôn bán hàng giả về nội dung
với hành vi làm, buôn bán hàng giả về hình thức (hành vi xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp) nên đã gây khó khăn rất nhiều cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự và hình phạt.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Bước vào những năm 90 của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ
XXI, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách mở cửa, sản xuất lưu
18
thông hàng hóa trong và ngoài nước ngày càng mở rộng, nước ta đang tiến
dần vào hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cơ hội mới, vận hội mới đã đặt
ra những thách thức mới nhất là trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Tình
trạng vi phạm quyền sở hữu công nghiệp diễn biến phức tạp, số lượng vi
phạm ngày càng tăng khiến cho hoạt động quản lý nhà nước gặp rất nhiều khó
khăn cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm hại một cách
nghiêm trọng. Đến lúc này, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trở
thành một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết.
Thời kỳ này, dấu hiệu để xác định các loại hàng giả được dựa trên cơ
sở Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy
định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả và Thông tư liên bộ
số 1254-TT/LB ngày 08/11/1991 của Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Bộ
Thương mại và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số 140-HĐBT ngày
25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (trong đó có một số loại hàng giả được mô
tả giống với dấu hiệu của hàng hóa là đối tượng vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp).
Cũng trong thời kỳ này, Hiến pháp năm 1992 đã được ra đời thay thế
cho Hiến pháp năm 1980, tại Điều 60 Hiến pháp năm 1992 có quy định:
"Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, phê bình văn học nghệ thuật và tham gia
các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu
công nghiệp". Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước ta tiếp tục
ban hành, sửa đổi các văn bản pháp luật nhằm bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp mà trước hết là sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 1995.
Bộ luật dân sự năm 1995 đã dành hẳn phần thứ sáu (gồm 94 điều từ
Điều 745 đến Điều 838) quy định về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
Để cụ thể hóa các quy định này của Bộ luật dân sự năm 1995, hàng loạt các
19
văn bản dưới luật đã được nối tiếp nhau ban hành đó là: Nghị định số
63/1996/NĐ-CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về quyền
sở hữu công nghiệp; Thông tư số 3055/TT ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa
học, Công nghệ & Môi trường hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục
xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong Nghị định số
63/1996/NĐ-CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu
công nghiệp; Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 63/1996/NĐ-CP ngày
24/10/1996 quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp; Thông tư số 23/TC-TCT
ngày 09/3/1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn thu nộp và quản lý phí, lệ phí sở
hữu công nghiệp; Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành quy chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước
và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Thông tư số 34/1999/TT- BTM ngày
15/12/1999 của Bộ Thương mại hướng dẫn thực hiện Quyết định số
178/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy
chế ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu; Thông tư liên tịch số 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 của
Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan hướng dẫn về việc xác định và kiểm
tra xuất xứ hàng hóa; Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 của
Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh,
chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành
mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp… Một số quy định về xử lý các hành
vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng đã được đưa ra chẳng hạn như:
Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả; Thông tư liên tịch số
10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27/4/2000 hướng dẫn
thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính