Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.61 KB, 26 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT





NGUYỄN ĐỨC NGA





ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC TỘI
XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 62.38.40.01






TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2009

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HÒAN THÀNH TẠI:
VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT, VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM





Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. ĐÀO TRÍ ÚC

Phản biện 1: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Ủy ban Quốc phòng An ninh Quốc hội.
Phản biện 2: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
Bộ Tư pháp.
Phản biện 3: PGS.TS PHÙNG THẾ VẮC.
Học viện An ninh nhân dân.




Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp

Nhà nước họ
p tại Viện nhà nước và pháp luật.


Vào hồi: 14h ngày 14 tháng 03 năm 2009





Có thể tìm hiểu Luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam, Hà Nội;
- Thư viện Nhà nước và Pháp luật.
1

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, thế giới đã chuyển sang nền văn minh hậu công nghiệp,
khoa học kỹ thuật, công nghệ và thông tin trở thành yếu tố thứ năm của
nền kinh tế thị trờng, bên cạnh bốn yếu tố truyền thống là tài nguyên,
lao động, vốn và kỹ năng kinh doanh. Trong tình hình đó, sở hữu trí tuệ
nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng có vị trí ngày càng quan trọng
và ngày càng đợc mua bán, trao đổi nhiều hơn về số lợng, lớn hơn về
quy mô và nhanh hơn về tốc độ giao dịch. Song song với các hoạt động
giao dịch hợp pháp về sở hữu công nghiệp, tình hình các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp cũng diễn biến phức tạp, đa dạng với các thủ
đoạn ngày càng tinh vi, đặc biệt là ở khu vực Châu á-thái Bình Dơng.
Các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp không chỉ gây thiệt hại cho
chủ sở hữu công nghiệp, tác động lớn tới công việc kinh doanh của từng
công ty nói riêng mà còn gây ra những thiệt hại kinh tế nghiêm trọng đối
với toàn bộ nền kinh tế quốc gia nói chung.
ở Việt Nam ngay từ năm 1976, nhận thức đợc tầm quan trọng của
sở hữu trí tuệ, nớc ta đã tham gia Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, đồng

thời ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong lĩnh vực bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ. Nhng việc thực thi các văn bản này trên thực tế, cũng
nh sự quan tâm của toàn xã hội đối với lĩnh vực này còn nhiều hạn chế.
Trên thực tế, tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta
đang diễn ra một cách phổ biến, các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp còn ít đợc phát hiện và xử lý, ảnh hởng không nhỏ đến quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Trong khi đó, chính sách,
luật pháp của Việt Nam nói chung, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, cha đồng bộ, cha ổn định
và không tránh khỏi những bất cập chung của toàn bộ hệ thống, cha
đảm bảo tính rõ ràng và dự liệu trớc; cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ gây
khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án đã làm nản
lòng các nhà đầu t. Hơn nữa, các tội xâm phạm quyền sở hữu công
2

nghiệp cha đợc các cơ quan quản lý nhà nớc, các doanh nghiệp cũng
nh ngời dân hiểu biết một cách đầy đủ. Xét về phơng diện lý luận,
cha có sự quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng, và xung quanh các
loại tội phạm này còn nhiều quan điểm khác nhau.
Văn kiện Đại hội ại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng
định: "Tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế để phát
triển" [23, tr.330], do đó, phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật hiện hành đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, trong đó hệ
thống pháp luật về sở hữu công nghiệp là lĩnh vực đợc u tiên do đòi
hỏi khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Đây
đợc coi là một nhân tố có ý nghĩa quyết định để xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài "Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp ở Việt Nam hiện nay" mang tính cấp thiết, không

những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Lĩnh vực đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng đã đợc một số tác giả quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay cha có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và hệ thống về mặt lý luận, đánh giá thực trạng,
chỉ ra nguyên nhân hình thành, phát triển của các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp ở nớc ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát hóa những vấn đề lý
luận về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, đánh giá tình hình,
nguyên nhân và điều kiện của các tội này trong thời gian vừa qua, đề
xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp
luật hình sự nói riêng về phòng ngừa và xử lý có hiệu quả các loại tội
3

phạm trong đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc
trng và khía cạnh tội phạm học trong đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; hệ thống hóa các quy định về tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam;
nghiên cứu, so sánh các quy định pháp luật và kinh nghiệm của một số
tổ chức và quốc gia trên thế giới trong việc phòng, chống các tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp.

- Đánh giá, phân tích thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều
kiện của các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam và dự
báo tình hình loại tội phạm này trong thời gian tới.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta.
Đối tợng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; đánh giá phân tích thực
trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng,
chống các tội phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam dới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm
học trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2006.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án: là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nớc Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân, về chính sách hình sự nói chung, chính sách đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng.
Cơ sở thực tiễn của luận án: là tình hình thực hiện quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian 1996-2006, các báo cáo chuyên
đề về đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
4

nghiệp của các cơ quan chức năng, một số bản án, quyết định hình sự
của Tòa án nhân dân các cấp về các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp.
Phơng pháp nghiên cứu: luận án sử dụng tổng hợp các phơng
pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là: phơng pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, phơng pháp tiếp cận và phân tích hệ
thống, tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lịch sử, lôgíc, thống kê, so sánh,

xã hội học, khoa học dự báo
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý
hình sự Việt Nam ở cấp độ luận án tiến sĩ, nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống về đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp ở Việt Nam. Tác giả dự báo tình hình các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp và đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm này ở Việt Nam.
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của luận án:
1. Làm sáng tỏ khái niệm sở hữu công nghiệp, các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của
các tội phạm này; khái quát hóa các vi phạm sở hữu công nghiệp dới
khía cạnh tội phạm học, hệ thống hóa các quy định về tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam.
2. Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với những quy định
tơng ứng trong pháp luật hình sự của một số quốc gia và tổ chức trên
thế giới để rút ra những kinh nghiệm, giá trị hữu ích về lập pháp hình sự
cũng nh hình thức xử lý trong quá trình đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
3. Phân tích, đánh giá tình hình, nguyên nhân và điều kiện của các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; chỉ ra mặt đợc, mặt cha
đợc của cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này thời gian qua
và dự báo diễn biến các tội phạm này trong thời gian tới ở nớc ta.
5

4. Kiến nghị một số giải pháp chủ yếu đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam một cách toàn
diện, có hệ thống, đồng bộ và có hiệu quả.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận án có ý nghĩa quan
trọng đối với công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp, góp phần vào công cuộc cải cách t pháp ở Việt
Nam hiện nay. Tác giả mong muốn không chỉ đóng góp vào sự phát triển
của kho tàng lý luận pháp lý hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp và thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội phạm này ở
Việt Nam, mà còn góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho việc đổi
mới tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ thuộc các cơ quan có trách nhiệm
trong cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp, nhất là ở các cơ quan Điều tra, viện Kiểm sát, Tòa án nhân
dân Luận án này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, luật hình sự, luật
tố tụng hình sự, tội phạm học nói riêng, cũng nh trong đào tạo, bồi
dỡng cán bộ chuyên ngành về đấu tranh phòng, chống tội phạm thuộc
các ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an, Thanh tra, Hải quan, Quản
lý thị trờng và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác.
7. Kết cấu của luận án: Gồm 180 trang, ngoài phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, 09 bảng dữ liệu, luận án
gồm 3 chơng: Chơng1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về những dấu
hiệu đặc trng các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và đặc điểm
của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp; Chơng 2: Đánh giá, phân tích thực trạng các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam thời gian qua và dự báo các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong giai đoạn tới; Chơng 3:
Một số giải pháp chủ yếu đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.


6


CHƯƠNG 1
Một số vấn đề lý luận cơ bản về những dấu hiệu đặc
trng các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
v đặc điểm của cuộc đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp


Chơng này: Tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nh: trình bày về khái niệm
sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp và khái niệm các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp, hệ thống hóa các quy định về tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp trong Luật hình sự Việt Nam; Khái lợc về các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên phơng diện tội phạm học,
những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp; và những quy định pháp luật của một số tổ chức,
quốc gia trên thế giới trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

1.1. Khái niệm các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp v hệ thống hóa các quy định về các tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật hình sự
Việt nam
1.1.1. Khái niệm sở hữu trí tuệ
Trên cơ sở phân tích những quan điểm khác nhau về sở hữu trí tuệ,
tác giả đã đa ra khái niệm sở hữu trí tuệ nh sau: Sở hữu trí tuệ là sở
hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tên tác giả, sáng chế, giải pháp hữu
ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với
tên gọi, xuất xứ hàng hóa, bí mật thơng mại, thiết kế bố trí
(topography), mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang chơng trình đã đợc
mã hóa, giống thực vật và sở hữu các đối tợng khác do pháp luật quy
định. Từ khái niệm này, sở hữu trí tuệ bao gồm hai lĩnh vực: sở hữu công

nghiệp và quyền tác giả.
1.1.2. Khái niệm sở hữu công nghiệp và các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
7

Từ việc phân tích quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về quyền
sở hữu công nghiệp, quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về đối tợng
quyền sở hữu công nghiệp và làm sáng tỏ một số quan niệm khác về sở
hữu công nghiệp, tác giả đã đa ra khái niệm về sở hữu công nghiệp và
quyền sở hữu công nghiệp. Trên cơ sở đó, đa ra khái niệm các tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp nh sau: Các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật
hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện, xâm phạm quyền sở hữu của cá nhân, pháp
nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thơng mại, chỉ dẫn địa
lý, đợc Nhà nớc bảo hộ.
1.1.3. Hệ thống hóa các quy định về tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp trong luật hình sự Việt Nam
Các quy định có liên quan đến tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đã bắt đầu đợc đề cập khi Việt Nam gia nhập Công ớc Paris về
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trên nguyên tắc đối xử bình đẳng;
Thỏa ớc Madrid năm 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa và
Hiệp ớc hợp tác patent (PCT)-nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân trong việc đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và sáng chế. Thời gian đầu,
các hành vi vi phạm sở hữu công nghiệp đợc xử lý bằng các biện pháp
hành chính, với sự tham gia xử lý của các cơ quan nh: quản lý thị
trờng, cảnh sát kinh tế, hải quan, thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên,
các cơ quan này đã gặp phải hạn chế về thẩm quyền, do không có thẩm
quyền đáp ứng các quyền của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật

dân sự hiện hành, không có thẩm quyền xác định mức bồi thờng đối với
những thiệt hại mà chủ sở hữu công nghiệp hợp pháp phải gánh chịu.
Khắc phục những nhợc điểm trên, ngày 27/6/1985, Bộ luật hình sự
năm 1985 đã ra đời, theo đó các tội phạm kinh tế bao gồm: tội làm hàng
giả, buôn bán hàng giả đợc quy định tơng đối rõ ràng, nhng về cơ
bản chính sách xử lý hình sự đối với loại tội phạm này vẫn mang những
đặc điểm nh trớc khi pháp điển hóa về hình sự và Bộ Luật này cha
đa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm hàng giả. Hớng dẫn thực hiện,
8

Điều 3 , Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 đã đa ra khái niệm
hàng giả, nhng việc xử lý về mặt hình sự đối với tội làm hàng giả,
buôn bán hàng giả vẫn gặp nhiều vớng mắc, chủ yếu là do quy định về
hàng giả tại Nghị định vẫn còn xa rời thực tế.
Ngày 21/12/1999, Bộ luật hình sự (sửa đổi) đã đợc thông qua: Đã
phân biệt rõ về tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp; Đã sử dụng các khái niệm hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tuy cha đa ra định
nghĩa pháp lý của những khái niệm này; Đã đa ra một số dấu hiệu định
tội bắt buộc của một số cấu thành tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp thuộc về nhân thân ngời phạm tội, đó là dấu hiệu tái phạm hành
chính và tái phạm hình sự. Nhìn chung quy định về hình phạt đối với các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ít nghiêm khắc so với các loại
tội phạm kinh tế khác. Đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp, đã có quy định các hình phạt bổ sung.
1.2. Khái lợc về các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp trên phơng diện tội phạm học
1.2.1. Khái niệm về tội phạm học
Từ việc nghiên cứu, phân tích khái niệm tội phạm học trong Từ điển
Bách khoa Việt Nam, quan điểm về tội phạm học của Giáo s Võ Khánh

Vinh, Tác giả đã rút ra nhận xét: Cho đến nay, từ các góc độ tiếp cận
khác nhau, các nhà khoa học, các nhà luật học đã đa ra nhiều định
nghĩa khác nhau về thuật ngữ tội phạm học, nhng nhìn chung nội
dung cơ bản của tội phạm học là Hệ thống các quan điểm khoa học về
những quy luật cơ bản của tội phạm, nguyên nhân, điều kiện phát sinh
tội phạm trong xã hội, đặc điểm tính chất của ngời phạm tội và hệ
thống các giải pháp phòng chống tội phạm.
1.2.2. Phơng pháp luận về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Đi sâu nghiên cứu, phân tích một số vấn đề liên quan đến tội phạm
và tình hình tội phạm tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, nghiên cứu
phân tích quan điểm của Các nhà luật học về vấn đề này và nghiên cứu
9

quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ nhân
quả, Tác giả đã làm sáng tỏ rằng:
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp là đặt tội phạm trong hệ thống các hiện tợng và quá
trình xã hội để tìm ra những tác động của các hiện tợng và quá trình xã
hội đối với tội phạm, chỉ ra yếu tố nào là nguyên nhân, yếu tố nào là điều
kiện của tình hình tội phạm. Từ đó, có thể đa ra đợc các biện pháp
phòng ngừa tơng ứng, thích hợp, góp phần làm giảm tình trạng phạm
tội trong xã hội.
Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phạm tội của tình hình
tội phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp: Phải đặt trong điều kiện lịch
sử cụ thể nhằm đề ra các biện pháp đấu tranh chống các tội phạm đã xảy
ra, làm tiền đề để xây dựng một Hệ thống phòng ngừa với các biện pháp
khoa học; Quá trình nghiên cứu dới góc độ tội phạm học, cần thiết phải
phân biệt với mối quan hệ nhân quả trong Luật hình sự. Trong cuộc đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu công nghiệp, thì tội phạm

học và khoa học luật hình sự là hai khoa học nghiên cứu nhân thân ngời
phạm tội sâu, rộng nhất, nó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy
nhiên, giữa hai khoa học này có sự khác nhau về phơng pháp tiếp cận,
vì thế hai lĩnh vực khoa học này không thể tách rời nhau, tội phạm học
sử dụng thống kê hình sự nh công cụ để nhận thức đối tợng nghiên
cứu của mình còn thống kê hình sự thì sử dụng những hớng dẫn lý luận
do tội phạm học nêu ra để hoàn thiện hóa phạm vi tiếp cận của mình.

1.2.3. Cơ sở lý luận về công tác dự báo tình hình tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp
Khoa học nghiên cứu về tình hình tội phạm cho thấy việc dự báo
tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội phạm trong lĩnh vực sở hữu
công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc xác định những số liệu
chung nhất biểu thị diễn biến của tình hình tội phạm trong tơng lai, trên
cơ sở đó giúp cho công tác phân tích, tổng hợp của các cơ quan có trách
nhiệm trong cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp.
10

1.3. những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Tác giả đã phân tích khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và
chủ thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Đối với các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cần chú ý một số vấn đề về chủ
thể và hình phạt đợc áp dụng nh sau:
- Đối với tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, Khoản 1 Điều 170 quy định: Ngời nào có thẩm
quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà vi phạm quy định của pháp
luật về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, đã bị xử lý kỷ
luật hoặc xử phạt hành chính hành vi này mà còn vi phạm gây hậu quả

nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm. Nh vậy, chủ thể của cấu thành tội phạm
theo quy định này là chủ thể đặc biệt và đã bị xử lý kỷ luật hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi này trớc đó. Khoản 2, Điều 170 quy định rõ
mức cao nhất đối với tội danh này của khung hình phạt là từ hai năm đến
bảy năm và căn cứ quy định tại Điều 8, đây là tội phạm nghiêm trọng.
- Đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, chủ thể của cấu
thành tội phạm này phải từ đủ 16 tuổi trở lên và phải có năng lực trách
nhiệm hình sự. Khoản 2, Điều 171 quy định mức cao nhất của khung
hình phạt là đến ba năm tù, mà theo quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự,
đây là tội ít nghiêm trọng.
1.4. quy định pháp luật của một số tổ chức, quốc
gia trên thế giới trong việc BảO Vệ QUYềN Sở HữU TRí
TUệ
Tác giả đã đi sâu, làm rõ việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong
Hiệp định TRIPs, phân tích những quy định về các tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga, Bộ luật hình sự
năm 1979 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Quy chế của Cộng đồng
châu Âu. Phân tích, làm sáng tỏ kinh nghiệm của một số quốc gia về
hoạt động phòng, chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Từ đó, tác giả
rút ra kết luận:
11

Các tổ chức và quốc gia đều có quy định về các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, nhng việc tổ chức cơ quan thực thi các hoạt
động liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp và xử lý hành vi vi phạm
bằng các biện pháp pháp lý hình sự và hành chính khác nhau. Từ những
kinh nghiệm nêu trên, đối với Việt Nam trong giai đoạn trớc mắt cần
kết hợp cả hai hình thức: xử phạt hành chính (biện pháp kinh tế) thông
qua việc xử phạt bằng tiền ở mức cao và xử lý hình sự đối với các hành

vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đợc coi là nghiêm trọng ở
giai đoạn tiếp theo, khi trình độ sản xuất phát triển, ý thức của ngời dân
đối với quyền sở hữu công nghiệp đã đợc nâng cao, Việt Nam nên hớng
tới việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng các
biện pháp hành chính, mà chủ yếu là biện pháp tạm giữ hải quan, kê biên
hàng giả, tiêu hủy hàng giả và phạt đối tợng vi phạm với mức độ răn đe đủ
lớn, không giới hạn số tiền phạt mà tơng ứng với trị giá tang vật vi phạm
.
Mặt khác, Chính phủ cần có những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm
vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nớc, cơ quan bảo vệ pháp luật, và
mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong lĩnh vực phòng,
chống xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta.












12

CHƯƠNG 2
đánh giá, phân tích thực trạng các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam thời gian qua v
dự báo các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

trong giai đoạn tới

Nội dung chơng này nhằm làm sáng tỏ tình hình phòng, chống các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghịêp ở Việt Nam thời gian qua v dự
báo tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thời
gian tới.
2.1. thực trạng Tình hình vi phạm quyền sở hữu
công nghiệp
2.1.1. Tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp
Trên cơ sở phân tích tình hình khiếu nại vi phạm sở hữu công
nghiệp cho thấy, tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam gia tăng với tốc độ nhanh và diễn biến phức tạp, nhất là đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, trong đó vi phạm
về kiểu dáng công nghiệp, nhãn hịêu hàng hóa chiếm số lợng rất lớn,
còn vi phạm về sáng chế, giải pháp hữu ích xảy ra ít hơn
Qua nghiên cứu tình hình đăng ký, xác lập quyền sở hữu công
nghiệp ở nớc ta trong thời gian qua cho thấy: ở 64 tỉnh, thành phố trong
cả nớc đều có đơn xin đăng ký, xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Đối
với các nớc trên thế giới, có 103 nớc có công dân đăng ký, bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
2.1.2. Tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Qua nghiên cứu tác giả cho rằng, trong giai đoạn 1995 đến 2006,
tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Việt Nam diễn
biến phức tạp, nhng việc xử lý hình sự không tơng xứng với thực tế đã
xảy ra. Tác giả rút ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, trong Bộ luật hình sự năm 1985: Hàng giả đợc quy định
tại Điều 167 đợc hiểu là giả cả về nội dung và hình thức, nghĩa là cha
13

có sự phân biệt giữa tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm

quyền sở hữu công nghiệp. Đến Bộ luật hình sự năm 1999, hàng giả đã
đợc quy định tại các Điều 156, 157 và 158 đợc hiểu là giả về nội dung
nghĩa là hàng hóa có mức chất lợng thấp hơn mức tối thiểu cho phép
theo tiêu chuẩn Việt Nam hoặc là sản phẩm, hàng hóa có giá trị sử dụng
không đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của
nó. Hành vi sản xuất hoặc buôn bán hàng hóa chỉ giả về hình thức, tức là
mang nhãn của cơ sở sản xuất khác, mang nhãn không đúng với nhãn
sản phẩm đã đăng ký, mang kiểu dáng công nghiệp của cơ sở sản xuất
khác thì không xử lý về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156,
157, 158, mà bị xử lý về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo
Điều 171. Trờng hợp một ngời sản xuất hoặc buôn bán hàng hóa giả
cả về nội dung và giả cả về hình thức, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về hai tội: tội sản xuất, buôn bán hàng giả tơng ứng và tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp.
Thứ hai, trong thời gian qua mặc dù Việt Nam đã ban hành Bộ luật
hình sự năm 1999 quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp, nhng thực tế chỉ có 01 vụ với 01 bị cáo về tội xâm phạm quyền
sở hữu công nghiệp bị xử lý, trong khi đó các tội phạm về sản xuất, buôn
bán hàng giả bị xử lý nhiều hơn hàng trăm lần so với các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp. Đây là vấn đề không hợp lôgíc, bởi lẽ ngời
sản xuất, buôn bán hàng giả về nội dung, thờng làm giả những hàng
hóa nổi tiếng, có chất lợng cao, đợc thị trờng thừa nhận, mà chủ sở
hữu những hàng hóa này thờng đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, trong khi đó các cơ quan bảo vệ pháp luật của ta trong khi xử lý
hành vi làm hàng giả lại chỉ xử lý tội phạm về mặt nội dung hàng giả,
mà bỏ qua mặt hình thức của hàng giả, tức là vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp, đây là điều bất cập hiện nay.
2.2. Nguyên nhân v điều kiện của các tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp
2.2.1. Nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm phạm quyền sở

hữu công nghiệp thuộc về chính sách, pháp luật
14

Tác giả cho rằng, hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu
công nghiệp hiện nay đợc đánh giá là khá đầy đủ và tơng đối phù hợp
với yêu cầu chung của quốc tế, nhng còn một số tồn tại sau: Thứ nhất,
Thông t liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BCA-BKHCNMT ngày
27/4/2000 của Bộ Thơng mại, Tài chính, Công an, Khoa học công nghệ và
Môi trờng, hớng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày
27/10/1999 của Thủ tớng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và
buôn bán hàng giả: việc phân biệt hàng hóa bị coi là hàng giả (Phần III
Thông t) với hàng hóa bị coi là kém chất lợng (Phần IV Thông t)
cha rõ ràng, dẫn tới vớng mắc trong thực tiễn áp dụng. Thứ hai, quy
định tại Điểm 17.2 Thông t số 825/2000/TT-BKHCNTM, ngày 03-05-
2000 về hớng dẫn thi hành Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06-03-
1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
đã nhầm lẫn việc giải quyết quan hệ dân sự với quan hệ hành chính. Thứ
ba, quy định tại khoản 1, Điều 17 Nghị định số 13/2001/NĐ-CP là trái
với một trong những nguyên tắc quan trọng của hợp đồng là tự do ý chí.
Thứ t, Điều 171 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn phù hợp với
những quy định về quyền sở hữu công nghiệp năm 2005.
2.2.2. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về hoạt động và sự phối
hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan quản lý nhà
nớc trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp
Theo tác giả, ý thức pháp luật của một số cán bộ thuộc cơ quan bảo
vệ pháp luật và cơ quan quản lý nhà nớc về sở hữu công nghiệp trong
đấu tranh chống vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp còn tùy tiện, bỏ lọt nhiều vụ phạm tội, hành
chính hóa tràn lan các vụ phạm tội xâm phạm sở hữu công nghiệp. Trong

đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, chất lợng điều tra còn thấp,
nhiều vụ án còn kéo dài, xử lý không kịp thời, không nghiêm Nhiều cơ
quan tham gia vào việc xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp, nhng việc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan đó lại cha
rõ ràng dẫn tới hạn chế hiệu quả hoạt động.
15

2.2.3. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về sở hữu công nghiệp nói chung, các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp nói riêng đã đợc sự quan tâm bớc đầu của các cấp ủy
Đảng, các cơ quan, đoàn thểTuy nhiên, công tác này còn có những
mặt yếu kém sau: Thứ nhất, cha chú ý đầy đủ tới đặc điểm đối tợng
cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về sở hữu công nghiệp.
Phơng pháp, hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, thiếu minh họa, kém
hấp dẫn, nên tính thuyết phục cha cao. Thứ hai, cha có biện pháp cụ
thể, thiết thực để bồi dỡng kiến thức pháp luật về sở hữu công nghiệp
cho cán bộ và nhân dân, các cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể, cha kết hợp
tốt việc giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa với giáo dục đạo đức,
lối sống có văn hóa để tạo thành thói quen tuân thủ pháp luật trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng. Thứ ba, vai
trò của các phơng tiện truyền thông đại chúng trong việc tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về sở hữu công nghiệp cha cao, cha bám sát những
thông tin mới về cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm quyền sở hữu
công nghiệp, các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, nhất là các
phơng thức, thủ đoạn phạm tội mới. Thứ t, công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cha chỉ ra đợc tác hại, hậu quả cả về vật chất lẫn tinh
thần của tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, các tội xâm phạm

quyền sở hữu công nghiệp, cho nên nhiều cá nhân, doanh nghiệp có thái
độ bàng quan với diễn biến của loại tội phạm này.
2.2.4. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về công tác hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế nổi lên nh một xu hớng dẫn dắt
quá trình phát triển của thế giới, trong đó tự do hóa thơng mại dịch vụ
là một trong những đặc trng chủ yếu của tòan cầu hóa kinh tế. Bên cạnh
những thuận lợi cơ bản, là những thách thức không nhỏ trong quá trình
nớc ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng nh khu vực, trong đó
16

tình trạng sản xuất buôn bán hàng giả, hàng kém chất lợng, tình trạng
vi phạm quyền sở hữu công nghiệp ngày một gia tăng với thủ đọan ngày
càng tinh vi và trắng trợn hơn bao giờ hết.
Về hợp tác quốc tế, mặc dù nớc ta đã có những ký kết hợp tác với
một số tổ chức quốc tế, và quốc gia trên thế giới cũng nh ở khu vực
trong đấu tranh chống tội phạm nói chung, các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp nói riêng, Tuy nhiên, công tác hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
cha thật sự có hiệu quả, vấn đề này không chỉ không hạn chế đợc các
hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp tại nớc ta, mà còn cha thật
sự phát huy hết vai trò của Việt Nam với t cách là thành viên của các tổ
chức này.
2.3. Dự báo về các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trong thời gian tới
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tác giả dự báo: Trong
những năm tới, tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
trong cả nớc vẫn tiếp tục gia tăng với diễn biến phức tạp và nghiêm

trọng hơn so với trớc đây. Điều đó đòi hỏi pháp luật về sở hữu trí tuệ
nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng phải có sự hoàn thiện tơng ứng
với pháp luật về sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp của các nớc trong
khu vực và các nớc công nghiệp tiên tiến.








17

CHƯƠNG 3
Một số giải pháp chủ yếu đấu tranh phòng, chống các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam

3.1. bối cảnh trong nớc v quốc tế mới trong
hoạt động đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam
Tác giả cho rằng, trong bối cảnh trong nớc và quốc tế mới, có
những vấn đề cần chú ý nh sau: Thứ nhất, xu thế toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế đã và đang có những tác động vô cùng lớn, buộc
Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế
thực thi về quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền sở hữu công nghiệp
nói riêng theo những chuẩn mực quốc tế. Thứ hai, tiến trình hội nhập
quốc tế và khu vực, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc và
xây dựng nền kinh tế tri thức của Việt Nam, đặt ra những yêu cầu mới
đối với cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu

công nghiệp. Yêu cầu hết sức cấp thiết, không thể trì hoãn là : Một, tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
nhằm làm cho pháp luật Việt Nam không chỉ phù hợp tập quán và "luật
chơi" quốc tế mà còn giữ đợc bản sắc riêng, tranh thủ tốt hơn các lợi
ích, hạn chế những thua thiệt, giữ gìn độc lập và chủ quyền quốc gia
trong quá trình hội nhập quốc tế; Hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế thực thi
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói riêng trên cơ sở phát
huy các thành quả đã đạt đợc, điều chỉnh và bổ sung những yếu tố còn
thiếu hoặc cha hợp lý, nhất là về tổ chức và cơ chế vận hành của bộ
máy thực thi pháp luật.
3.2. Các quan điểm của Đảng v Nh nớc trong đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp ở Việt Nam
Thứ nhất, cuộc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp
bách, vừa mang tính lâu dài. Cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể phù
18

hợp với từng ngành, từng địa phơng, từ việc bổ sung hoàn chỉnh cơ sở
pháp lý của cuộc đấu tranh, đến việc tăng cờng và đổi mới công nghệ
sản xuất và quản lý chặt chẽ quy trình công nghệ, thực hiện chế độ đăng
ký tiêu chuẩn chất lợng, nhãn mác, kiểu dáng công nghiệp Phải coi
đây là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành,
đặt dới sự lãnh đạo thờng xuyên, thống nhất của các cấp ủy Đảng,
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự
phát huy nội lực và nhân tố bên ngoài. Thứ hai, coi công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về sở hữu công
nghiệp nói riêng là nhiệm vụ cơ bản, thờng xuyên, liên tục, có ý nghĩa
quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh này. Thứ ba, Phải kiên quyết xử
lý về mặt hành chính, dân sự đối với các hành vi vi phạm sở hữu công

nghiệp. Kịp thời giáo dục, răn đe ngời vi phạm để ngăn ngừa họ tiếp tục
vi phạm trở thành ngời phạm tội. Đồng thời, cần xử lý kiên quyết đối
với mọi trờng hợp phạm tội xâm phạm sở hữu công nghiệp để giáo dục,
phòng ngừa chung. Trong việc xử lý về hành chính, dân sự, hình sự, cần
có sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan Thanh tra Nhà nớc
về sở hữu công nghiệp, Quản lý thị trờng, Hải quan, Thuế, Công an,
Viện Kiểm sát, Tòa án để tạo thành sức mạnh tổng hợp. Có quy chế
phối hợp giữa các lực lợng trong cuộc đấu tranh này. Thứ t, Cần xây
dựng đợc tính đồng bộ, tính hệ thống của các giải pháp, nhất là các giải
pháp đổi mới chính sách, pháp luật về sở hữu công nghiệp, đổi mới các
chính sách về thuế, hải quan, đổi mới công nghệ thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển.
3.3. một số giải pháp chủ yếu TRONG đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp
3.3.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu công nghiệp
Cần phải thờng xuyên đổi mới, hoàn thiện chính sách về sở hữu
công nghiệp; sửa đổi, bổ sung pháp luật về sở hữu công nghiệp. Cụ thể:
Về chính sách, Nhà nớc cần có chiến lợc bảo hộ sở hữu công nghiệp
mang tính nhất quán, có tính ổn định cao, gắn kết với chiến lợc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Trên cơ sở chiến lợc này, các ngành,
19

các cấp, các địa phơng xây dựng kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn
về bảo hộ sở hữu công nghiệp của mình. Về pháp luật: Việt Nam cần sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung, sở hữu
công nghiệp nói riêng theo lộ trình nhất định. Trớc hết, cần rà soát, sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu công nghiệp, pháp
điển hóa toàn bộ hệ thống pháp luật để thay thế cho những văn bản pháp
luật mang tính chất riêng lẻ trớc đây, phù hợp với quy luật phát triển

của hệ thống pháp luật nớc ta. Hai là, tiếp tục nghiên cứu và đánh giá
các quy định hiện hành về thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền sở hữu công nghiệp nói riêng, đa ra các khuyến nghị và
đề xuất sửa đổi để hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ cho hoạt động thực
thi quyền sở hữu trí tuệ, nhất là trong việc thi hành Hiệp định TRIPS
theo Luật mẫu về sở hữu trí tuệ của WCO đã xây dựng. Ba là, cần rà
soát, bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi của ngời tiêu dùng
ngày 27/4/1999, theo hớng quy định rõ trách nhiệm của nhà sản xuất,
kinh doanh đối với hàng hóa của mình và ngời tiêu dùng; quyền của
ngời tiêu dùng trong việc khiếu nại, tố cáo khi mua phải hàng giả, hàng
kém chất lợng, trách nhiệm của các cơ quan nhà nớc có liên quan
trong việc bảo vệ quyền lợi của ngời tiêu dùng; các biện pháp xử lý đối
với các hành vi vi phạm quyền lợi của ngời tiêu dùng Bốn là, cần
hớng dẫn cụ thể việc thi hành Pháp lệnh chất lợng ngày 01/7/2000:
Trong đó quy định cụ thể hệ thống tiêu chuẩn chất lợng hàng hóa Việt
Nam và mức độ tối tiểu chất lợng hàng hóa, thủ tục đăng ký tiêu chuẩn,
chất lợng hàng hóa. Quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền cấp giấy
phép đăng ký tiêu chuẩn hàng hóa và có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định
tiêu chuẩn chất lợng hàng hóa. Bên cạnh đó, cần quan tâm hoàn thiện
đồng bộ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, trong đó quy định các
biện pháp xử phạt hành chính nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi
phạm sở hữu trí tuệ nói chung, sở hữu công nghiệp nói riêng theo hớng
không giới hạn mức phạt mà xử phạt theo mức độ hậu quả tác hại của
hành vi vi phạm. Đối với Bộ luật hình sự năm 1999, việc quy định các
tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm vấn đề sở hữu công nghiệp
cần quy định thành một chơng riêng. Trong bối cảnh trong nớc và
quốc tế mới, cũng nh từ thực tiễn cuộc sống và pháp luật hình sự hiện
hành của một số nớc trên thế giới có kinh nghiệm trong đấu tranh
20


phòng, chống các vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, cần nghiên cứu
xây dựng bổ sung chơng: Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong
Bộ luật hình sự Tác giả xin đề xuất tập trung vào các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, bằng cách bổ sung các điều luật sau: Điều:
Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp; Điều: Tội xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa;
Điều: Tội xâm phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp; Điều:
Tội xâm phạm quyền sở hữu bí mật kinh doanh; Điều: Tội xâm phạm
quyền sở hữu sáng chế; Điều: Tội xâm phạm quyền sở hữu thiết kế bố
trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và các đối
tợng khác do pháp luật quy định.
3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cờng sự phối hợp
giữa các cơ quan quản lý nhà nớc về sở hữu công nghiệp và các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp
Với sự đa dạng của các đối tợng sở hữu công nghiệp đang đợc
bảo hộ nh hiện nay, thì:
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nớc về sở hữu công
nghiệp và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta giữ một vai trò
hết sức quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công tác phòng, chống
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Các cơ quan chức năng
cần tập trung vào thực hiện một số công việc đợc coi là chủ yếu đó là:
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nớc về sở
hữu công nghiệp; Nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân các
cấp trong việc xét xử các vụ án về các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp; Nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân trong
việc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
các vụ án về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; Tăng cờng
đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của

ngành Hải quan; Tăng cờng sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nớc về sở hữu công nghiệp và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
21

Cần có sự phân công nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý nhà nớc
với từng đối tợng sở hữu công nghiệp, trong đó: Quản lý thị trờng,
Công an tập trung vào nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên
thơng mại; còn các đối tợng có tính chuyên biệt, kỹ thuật, nằm trong
phạm vi hẹp thì thuộc thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành. Cục Sở
hữu trí tuệ, Thanh tra Nhà nớc về Khoa học và Công nghệ cần làm tốt
công tác tham mu cho cấp ủy, chính quyền địa phơng trong việc phân
công trách nhiệm và phối hợp hoạt động của các lực lợng có chức năng
chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của địa phơng. Cần
sớm nghiên cứu, triển khai việc xây dựng quy chế phối hợp giữa các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng .
3.3.3. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về sở hữu
công nghiệp và nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản
xuất, doanh nghiệp và ngời tiêu dùng trong đấu tranh phòng,
chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Để đấu tranh có hiệu quả các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật, nhất là từ cơ sở, trong đó hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về sở hữu công nghiệp đợc hiểu là hoạt động truyền đạt,
giải thích rộng rãi đến các tầng lớp nhân dân, nhất là các doanh nghiệp
nhằm thuyết phục, vận động họ có thói quen làm theo pháp luật nh là
một đòi hỏi tất yếu của xã hội văn minh.
3.3.4. Tăng cờng hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,
chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế nh: WTO,
ASEAN, INTERPOL nên việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu công nghiệp vừa là nghĩa vụ,
vừa là nhu cầu nội tại. Tong vấn đế hợp tác quốc tế: Cục sở hữu trí tuệ,
Hải quan, công an tuỳ theo chức năng nhiệm vụ mà có những hoạt
động đầy mạnh hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cho phù hợp.

22

Kết luận

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, quy định và
kinh nghiệm của một số tổ chức, quốc gia và thực trạng tình hình các tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta trong thời gian qua, luận
án đã phân tích và luận giải một số vấn đề sau:
1. Bằng cách tiếp cận hệ thống và lôgích, luận án đã tổng hợp và
phân tích những vấn đề cơ bản về sở hữu công nghiệp, các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp, trong đó bao gồm các vấn đề liên quan đến
khái niệm, đặc điểm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trng của các
tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trên các phơng diện: khách
thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm; một số vấn đề
lý luận về đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp trên phơng diện tội phạm học. Hệ thống hóa các quy định pháp
luật hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong luật
hình sự Việt Nam và một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
các tội nói trên. Luận án cũng đã trình bày một số điều trong Hiệp định
TRIPS, quy chế của Cộng đồng châu âu, luật hình sự của Liên bang Nga,
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Trung
Quốc trong họat động chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung, sở

hữu công nghiệp nói riêng, để làm cơ sở phân tích và rút ra những kinh
nghiệm cần thiết cho việc đề xuất một số giải pháp trong công tác xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan quản lý nhà nớc và các cơ quan bảo vệ pháp luật nớc ta trong đấu
tranh phòng, chống loại tội phạm này.
2. Tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn, luận án đã phân tích, đánh
giá khách quan, toàn diện tình hình vi phạm cũng nh thực trạng tình
hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở nớc ta trong giai
đọan 1995-2006; tập trung nghiên cứu một số vụ xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp đã bị khởi tố, truy tố và xét xử, đồng thời nghiên cứu
tình hình vi phạm quyền sở hữu công nghiệp nói chung. Mặt khác, giải
thích mối quan hệ giữa tình hình tội phạm và vi phạm, về thực trạng tội
phạm ẩn của các tội phạm này ở nớc ta. tác giả cho rằng, tình hình các
23

tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đang là là vấn đề phức tạp, nhức nhối trong phạm vi cả nớc nói
chung. Các loại tội phạm này không những gây tác hại hết sức nghiêm
trọng đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, tài sản, lợi ích
hợp pháp của Nhà nớc, tổ chức và công dân, mà còn là trở ngại lớn đối
với sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của đất nớc.
3. Luận án cũng tập trung phân tích cơ chế làm phát sinh một số
nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp ở nớc ta những năm qua, mà trớc hết là các nguyên nhân
và điều kiện thuộc về nhận thức, đồng thời nhấn mạnh một số nguyên
nhân và điều kiện chủ yếu, bao gồm: một, nhóm các nguyên nhân và
điều kiện của các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thuộc về
chính sách, pháp luật; hai, nhóm các nguyên nhân và điều kiện thuộc về
hoạt động và sự phối hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan
quản lý nhà nớc về sở hữu công nghiệp trong đấu tranh phòng, chống

các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; ba, nhóm các nguyên nhân
và điều kiện thuộc về công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về sở hữu
công nghiệp trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp; và bốn, nhóm nguyên nhân và điều kiện thuộc về công
tác hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp. Đặc biệt là, pháp luật về sở hữu công nghiệp
còn nhiều tồn tại, cha đồng bộ, còn mâu thuẫn, chồng chéo, không
thống nhất. Công tác quản lý nhà nớc về sở hữu công nghịêp còn nhiều
sơ hở, thiếu sót, bất cập, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu
kiên quyết trong đấu tranh phòng, chống các vi phạm quyền sở hữu công
nghiệp, các tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nói riêng.
4. Luận án dự báo tình hình các tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp ở nớc ta, nêu lên sự cần thiết cũng nh một số quan điểm của
Đảng và nhà nớc cần nắm vững trong đấu tranh phòng chống tội phạm
này ở Việt Nam trong giai đoạn tới, và cho rằng đấu tranh phòng, chống
các tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp có hiệu quả là điều kiện rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế -
xã hội một cách bền vững, phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nớc. tác giả đã đề xuất một hệ thống các giải pháp,

×