Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vai trò của Hội đồng nhân dân trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Cà Mau)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.07 KB, 84 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÝ MINH VỮNG


VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ
(Trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Cà Mau)


Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HỢP





HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Lý Minh Vững







MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ 5
1.1. Cơ sở lý luận về về vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của
các cơ quan tiến hành TTHS 5
1.1.1. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan
tiến hành TTHS 5
1.1.2. Vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến
hành TTHS 9
1.1.3. Nội dung, đối tượng, hình thức, căn cứ và các nguyên tắc cơ bản về
giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 10
1.2. Hậu quả của hoạt động giám sát 23
1.2.1. Kết luận giám sát và kiến nghị đến cơ quan được giám sát về việc thi
hành kết luận giám sát 23
1.2.2. Kiến nghị đến cơ quan cấp trên của cơ quan được giám sát về một số
vấn đề có liên quan 24
1.3. Hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan
tiến hành TTHS qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam 24
1.3.1. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 24
1.3.2. Theo quy định của Hiến pháp 1980 25
1.4. Pháp luật hiện hành về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt
động của các cơ quan tiến hành TTHS 26
1.4.1. Quy định của Hiến pháp về hoạt động giám sát của HĐND đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 26
1.4.2. Quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND về hoạt động giám sát
của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 26
1.4.3. Quy định của Luật TTHS về hoạt động giám sát của HĐND đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 27
1.4.4. Các quy định khác về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt

động của các cơ quan tiến hành TTHS 28

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH CÀ MAU 29
2.1. Tình hình chung về thực tiễn giám sát của HĐND đối với hoạt động
của các cơ quan tiến hành TTHS ở tỉnh Cà Mau 29
2.1.1. Giám sát của HĐND tỉnh đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 29
2.1.2. Giám sát của HĐND cấp huyện đối với hoạt động của các cơ quan
tiến hành TTHS 53
2.2. Đánh giá về những khiếm khuyết của cơ chế, pháp luật và thực tiễn
việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 58
2.2.1. Về mặt pháp luật 58
2.2.2. Cơ chế bảo đảm thực hiện 59
2.2.3. Về thực tiễn việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 61

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ 64
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND
đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 64
3.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động
giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 65
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định trong Hiến pháp 1992 có liên quan đến
hoạt động giám sát của HĐND đối với các cơ quan tiến hành TTHS 65
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 66
3.2.3. Kiến nghị khác có liên quan 67
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát hoạt động của
các cơ quan tiến hành TTHS 69

3.3.1. Đổi mới hình thức giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS 69
3.3.2. Đổi mới hình thức và nội dung chất vấn 70
3.3.3. Tăng cường thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến hoạt động
của các cơ quan tiến hành TTHS 71
3.3.4. Hoạt động giám sát đối với các cơ quan tiến hành TTHS phải được
tiến hành thường xuyên 71
3.3.5. Nâng cao hiệu quả giám sát các cơ quan tiến hành TTHS tại kỳ họp
của HĐND 72
3.3.6. Lựa chọn, cơ cấu Đại biểu, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng
giám sát cho Đại biểu HĐND 72
3.3.7. Tăng cường vai trò điều hòa, phối hợp hoạt động của Thường trực
HĐND, các Ban HĐND 73

KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã gần bảy mươi năm kể từ khi ra đời, vai trò của HĐND các cấp ở

nước ta ngày càng được khẳng định và củng cố. Trong bộ máy Nhà nước,
HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì
vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò,
trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay.
Giám sát là một trong hai chức năng quan trọng của HĐND, trong đó
có việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Thông qua hoạt
động giám sát, chúng ta có thể kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự phù hợp về
các quy định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống và những
chủ trương biện pháp mà HĐND đã quyết nghị; giúp chúng ta phát hiện ra
những khó khăn, vướng mắc mà kịp thời có những giải pháp tháo gỡ, để
thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động; cũng qua hoạt động giám sát còn là
cơ sở cho việc thực hiện công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một
cách chính xác, đảm bảo các Nghị quyết ban hành có chiều sâu, sát thực
tiễn, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cử tri và phù hợp quy định với
quy định của pháp luật.
Song trong thực tế, hoạt động giám sát nói chung, việc giám sát hoạt
động của các cơ quan tiến hành TTHS nói riêng trong thời gian qua tuy có
chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa mang lại
hiệu quả cao, thường bộc lộ một số hạn chế chủ yếu sau: Công tác giám sát
chưa đều, chủ yếu do Thường trực và các Ban HĐND tiến hành; việc tham
gia hoạt động giám sát của các Đại biểu còn hạn chế, chủ yếu mới giám sát tại
kỳ họp. Giám sát của HĐND đôi khi còn mang tính hình thức: nội dung giám
sát có lúc chưa sâu, chưa tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa

2
phương, những vấn đề mà nhiều cử tri quan tâm. Kết luận của Đoàn giám sát
đôi lúc chưa sâu, chưa chỉ đúng căn nguyên, đúng trọng tâm vấn đề đề cập…
Cũng có trường hợp kết luận của đoàn giám sát chưa được coi trọng, sự tiếp
thu, khắc phục còn hạn chế. Ngoài ra, trong thực hiện giám sát vẫn còn có sự

né tránh, nể nang, ngại va chạm… nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của
HĐND chưa cao.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là: 1) có sự hạn chế trong nhận
thức (chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, chức năng, vai trò, trách nhiệm
của HĐND); 2) thiếu sự tự tin và chưa quyết liệt của một bộ phận Đại biểu
(còn nể nang, ngại va chạm v.v…); 3) chưa có quy định ràng buộc trách
nhiệm pháp lý nếu không thực hiện đúng kết luận giám sát; 4) thêm nữa, tính
hình thức trong hoạt động của HĐND, cơ chế cho hoạt động giám sát chưa rõ
ràng (làm cho một số Đại biểu HĐND thiếu tự tin vào hoạt động); 5) sự hạn
chế về năng lực, trình độ; 6) thiếu thông tin lẫn thời gian thỏa đáng dành cho
hoạt động thực hiện nhiệm vụ Đại biểu…
Đây chính là một vấn đề bức xúc cần được nghiên cứu, hoàn thiện;
trên cơ sở đó, tìm ra những giải pháp phù hợp góp phần khắc phục những
vướng mắc, bất cập trong hoạt động giám sát của HĐND như đã nói ở trên,
để hoạt động này ngày càng hiệu quả. Đó là lý do tác giả chọn đề tài: Vai
trò của HĐND trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành
TTHS (trên cơ sở các số liệu thực tiễn của địa bàn tỉnh Cà Mau) làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có một số bài viết nghiên cứu về hoạt động giám sát
của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS trên các tạp
chí, sách chuyên khảo nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu về vấn đề này, quan điểm của các tác giả vẫn còn nhiều nội dung chưa đạt
đến sự đồng thuận, vì vậy vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu.

3
Tuy nhiên, ở các khía cạnh khác của hoạt động giám sát của HĐND
cũng có một số công trình nghiên cứu, bài viết quan trọng như:
- Sách chuyên khảo: „„Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện
quyền lực Nhà nước”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 do GS.TSKH Đào

Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh đồng chủ biên; „„Một số vấn đề cơ bản về
hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 do GS.TS Nguyễn Duy Gia làm chủ biên;
„„HĐND trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước”. Nxb Pháp lý, 1998,
do PTS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên; „„HĐND và UBND theo Hiến pháp
1992” và „„Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994”. Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 1996, của Phùng Văn Tửu.
- Luận án tiến sĩ có liên quan: „„Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát
của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”. Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998 của Vũ Mạnh Thông.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài:
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát hoạt động của các cơ quan tiến
hành TTHS, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giám
sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Hiến
pháp 1992, Luật tổ chức HĐND năm 2003, Bộ luật TTHS năm 2003 có
liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật liên
quan đến giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành
TTHS. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong
đề tài được viện dẫn từ các báo cáo giám sát, báo cáo năm của Hội đồng nhân
dân tỉnh Cà Mau, của Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND tỉnh và các
huyện, thành phố trong tỉnh.

4
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà

nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư
pháp; đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết, các đề tài khoa học của các nhà
nghiên cứu lý luận về vai trò, nhiệm vụ, hình thức hoạt động giám sát của
HĐND, các hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
Các phương pháp nghiên cứu được tác giả vận dụng gồm: phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê hình sự.
5. Điểm mới của luận văn
Điểm mới của luận văn gồm:
- Làm sáng tỏ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về giám sát
của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS, chỉ ra những
vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của HĐND đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận - pháp lý về vai trò của HĐND trong việc
giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt
động của các cơ quan tiến hành TTHS tại tỉnh Cà Mau.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC

CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Cơ sở lý luận về vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động
của các cơ quan tiến hành TTHS
1.1.1. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS
1.1.1.1. Khái niệm giám sát nói chung
Có nhiều định nghĩa giám sát khác nhau được đưa ra tùy theo phạm vi
rộng, hẹp của nội dung nghiên cứu. Theo Từ điển Tiếng Việt, cách hiểu chung
nhất, giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”. Mai Hữu Khuê,
Bùi Văn Nhơn trong Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính lại coi giám sát
là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên
tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt
động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được
mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được
tuân thủ nghiêm chỉnh [15].
Còn TS. Đặng Đình Tân cho rằng giám sát là “sự theo dõi, quan sát
hoạt động của một chủ thể quyền lực mang tính chủ động, thường xuyên,
liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và
hướng hoạt động của các tổ chức quyền lực chịu sự giám sát đi đúng quỹ
đạo, đúng quy chế nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo cho pháp luật được
tuân thủ nghiêm minh” [30]. Quan điểm này gần giống với quan điểm của
Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn, có chăng chỉ bổ sung thêm một số điểm về
chủ thể có quyền lực.

6
Ban Công tác lập pháp thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (hiện Ban
này đã được giải thể) có đưa ra khái niệm “giám sát dưới góc độ ngôn ngữ
thông thường được hiểu là: việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có
quyền đối với chủ thể khác để qua đó có được nhận định về hoạt động của

chủ thể này” [1].
Cả bốn quan điểm trên đều thống nhất về cách thức tiến hành hoạt động
giám sát, đó là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra. Đây cũng là cách hiểu mang
tính cơ bản trong quan điểm thứ nhất.
Riêng quan điểm của TS. Đặng Đình Tân và Ban Công tác lập pháp
bổ sung thêm “chủ thể có quyền lực”. Đây là yếu tố rất quan trọng bởi giám
sát thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể giám sát với đối tượng giám sát. Mối
quan hệ giữa chúng phải được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ quyền lực,
chủ thể giám sát phải có quyền với đối tượng giám sát. Quyền ở đây phải là
quyền quyết định, quyền tác động đến đối tượng bị giám sát, ví dụ: quyền
bãi nhiệm, miễn nhiệm, quyền hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật, phê
bình, kỷ luật… Nói cách khác, đối tượng bị giám sát phải biết “sợ” chủ thể
giám sát. Đây chính là tiền đề dẫn đến việc chủ thể giám sát sẵn sàng tác
động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng
chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế. Các biện pháp tác động tới đối
tượng giám sát như việc Quốc hội, HĐND bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn
bản quy phạm pháp luật; hoặc định hướng hoạt động của đối tượng giám sát
như việc Quốc hội, HĐND ban hành nghị quyết về chất vấn, trả lời chất vấn,
các kiến nghị từ hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội, Ban của Quốc hội hay Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Các kiến
nghị này không có giá trị bắt buộc thi hành nhưng sẽ tác động tới hành vi
của đối tượng bị giám sát.
Việc xác định chủ thể tiến hành giám sát và đối tượng bị giám sát là

7
cần thiết nhằm làm rõ hoạt động giám sát với hoạt động có tính chất gần
tương tự là kiểm tra, xem xét, theo dõi. Theo đó, giám sát là hoạt động được
thực hiện bởi chủ thể nằm bên ngoài tổ chức, hệ thống. Tức là cá nhân, tổ
chức, cơ quan này giám sát cá nhân, tổ chức, cơ quan khác trong việc thực
hiện nhiệm vụ của nó. Khi phân biệt hoạt động giám sát với thanh tra, TS.

Đặng Đình Tân và nhóm tác giả cũng đưa ra quan điểm tương tự “Giám sát là
một hoạt động kiểm soát quyền lực nhưng là sự kiểm soát từ bên ngoài đối với
các nhánh quyền lực Nhà nước”. Theo đó, hoạt động theo dõi, kiểm tra chỉ có
thể coi là hoạt động giám sát nếu chủ thể và đối tượng giám sát nằm trong hai
hệ thống độc lập (một cách tương đối) với nhau.
Như vậy, giám sát là sự theo dõi, quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ
thể có quyền đối với chủ thể khác để biết được đối tượng bị giám sát có thực
thi đúng, đủ theo quy định hay không và quy định về hành vi đối tượng giám
sát phải và được làm có phù hợp với điều kiện thực tiễn hay không và làm rõ
được nguyên nhân của sự vi phạm, sự không phù hợp này.
Theo khái niệm này thì một trong những căn cứ quan trọng để xác định
đối tượng giám sát của HĐND là có mối quan hệ mang tính quyền lực giữa
HĐND và đối tượng bị giám sát. Đối tượng bị giám sát phải chịu trách nhiệm
trước HĐND, HĐND có quyền tác động trực tiếp tới đối tượng bị giám sát.
Theo Từ điển luật học thì giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính
chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
tích cực, để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng
quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được thực hiện từ
trước, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.
Giám sát có những hình thức mang tính kỹ thuật, là sự quan sát, theo
dõi quy trình, quy phạm trong quá trình sản xuất hay trong đầu tư xây dựng,
quản lý môi trường… theo những tiêu chuẩn và quy phạm kỹ thuật nghiêm

8
ngặt. Nhưng cũng có hình thức giám sát mang tính chất kinh tế - chính trị - xã
hội - pháp luật, là sự quan sát, theo dõi về việc thực hiện các chế độ chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Các hình thức giám sát trên có quan hệ mật
thiết với nhau nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển.
1.1.1.2. Khái niệm giám sát của HĐND
HĐND nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có nhiệm

vụ ban hành các nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; quyết định những vấn đề quan trọng ở
địa phương như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về ngân sách, quốc
phòng, an ninh ở địa phương và các biện pháp nhằm ổ định và nâng cao đời
sống của người dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao, làm tròn nghĩa
vụ với Nhà nước; thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan Nhà nước ở
địa phương.Giám sát là một trong những nhiệm vụ hiến định của HĐND.
Giám sát của HĐND là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân để giám sát
hoạt động của bộ máy Nhà nước, là một hình thức thực hiện quyền giám sát
của nhân dân được thực hiện bằng pháp luật, thông qua cơ quan quyền lực
Nhà nước là HĐND các cấp.
Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát của
HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND như sau:
Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên tục
của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân
theo pháp luật, chấp hành Nghị quyết HĐND đối với Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp, của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, giám sát của HĐND thực chất là hoạt động nhằm kiểm soát
thực thi quyền lực Nhà nước. Giám sát chứa đựng những yếu tố thuộc tính

9
của công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Trong quá trình giám sát, chủ
thể giám sát có quyền tiếp cận mọi đối tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu
cầu giám sát.
1.1.1.3. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS
Căn cứ vào khái niệm giám sát nói chung và các quy định của Hiến
pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật

khác, giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS
có thể được hiểu như sau: giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành TTHS là tổng thể các hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá
của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND và Đại biểu HĐND đối với
hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS trong việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật, từ đó đưa ra các kết luận và kiến nghị về các giải pháp khắc phục
những tồn tại, hạn chế, phát huy những mặt ưu điểm trong quá trình hoạt
động của các cơ quan tiến hành TTHS.
1.1.2. Vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan
tiến hành TTHS
Giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành
TTHS được thực hiện thông qua nhiều phương thức hoạt động của HĐND
như xem xét báo cáo công tác, xem xét việc trả lời chất vấn, xem xét văn bản
quy phạm pháp luật, thành lập Đoàn giám sát trong đó xem xét báo cáo
công tác thường được coi là phương thức phổ biến và có hiệu quả nhất của
hoạt động giám sát.
Luật Tổ chức và Quy chế hoạt động của HĐND đã quy định khá cụ
thể về quyền hạn của các chủ thể tiến hành giám sát và nghĩa vụ của các cơ
quan, đơn vị có liên quan trong việc đáp ứng các yêu cầu giám sát của
HĐND; về chương trình giám sát và phân công, điều hòa phối hợp hoạt

10
động giám sát; về trình tự thủ tục các bước công việc cần tiến hành, những
yêu cầu đối với hoạt động giám sát, trách nhiệm theo dõi kết quả thực hiện
kiến nghị sau giám sát…
Hoạt động giám sát có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện chức năng
quyết định của HĐND, không những cung cấp thêm thông tin để HĐND cân
nhắc khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, mà còn là một
biện pháp để thúc đẩy việc thực hiện nghị quyết của HĐND và đánh giá tính
phù hợp, khả thi của nghị quyết trong thực tế.

Qua giám sát công tác giám sát giúp cho HĐND có thể phát hiện kịp
thời những hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng tại
các cơ quan tiến hành TTHS. Từ đó, HĐND có kết luận về những mặt làm
được, chưa được và đề ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời.
Mặt khác, từ kết quả giám sát cũng nhằm kịp thời biểu dương những
việc làm tốt; đảm bảo cho pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng đắn
và thống nhất; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, mà
trước tiên là hoạt động tiến hành tố tụng của các cơ quan tiến hành TTHS.
Chính vì vậy, giám sát có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động
của HĐND, tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của HĐND và tình
hình phát triển của địa phương.
1.1.3. Nội dung, đối tượng, hình thức, căn cứ và các nguyên tắc cơ bản
về giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS.
1.1.3.1. Nội dung, đối tượng giám sát
1) Giám sát hoạt động khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra thuộc lực
lượng cảnh sát nhân dân
Điều tra là giai đoạn TTHS, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dung
mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án.

11
Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự. Thiếu
hoạt động điều tra, Tòa án không có cơ sở để giải quyết vụ án. Tòa án muốn xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, giai đoạn điều tra phải
thu thập được những chứng cứ cơ bản, bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng
cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, cũng như xác định các tình tiết khác của vụ án.
Việc giám sát của HĐND đối với hoạt động khởi tố - Điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra thể hiện qua các nội dung cơ bản như:
- Giám sát để xác định việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự có đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật hay không; có để lọt tội phạm và người phạm
tội cũng như có làm oan cho người vô tội hay không.
- Giám sát hoạt động bắt, giam, giữ có đúng pháp luật không; có trường
hợp oan, sai trong bắt, giữ người không.
- Giám sát công tác thi hành các bản án hình sự có hiệu luật pháp luật
của Tòa án.
- Giám sát để từ đó đánh giá thực tiễn hoạt động khởi tố, điều tra đã
đáp ứng được yêu cầu góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa hay không.
2) Giám sát việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát.
Hiện nay, công cuộc ca
̉
i ca
́
ch bô
̣
ma
́
y nha
̀
nươ
́
c , trong đó có ca
̉
i ca
́
ch tư
pháp đã và đang đă
̣

t ra ha
̀
ng loa
̣
t vấn đề ly
́
luâ
̣
n va
̀
thư
̣
c tiê
̃
n cần tiếp tu
̣
c đươ
̣
c
nghiên cư
́
u va
̀
gia
̉
i quyết . Viê
̣
n kiê
̉
m sa

́
t nhân dân , mô
̣
t thiết chế trong hê
̣

thống quyền lư
̣
c nha
̀
nươ
́
c cần được đổi mới theo yêu cầu của cải cách tư
pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW nga
̀
y 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến
lươ
̣
c ca
̉
i ca
́
ch tư pha
́
p đến năm 2020” đa
̃
xa
́
c đi
̣

nh ro
̃
: “Trươ
́
c mắt, Viê
̣
n kiê
̉
m
sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố

12
và kiểm sát hoạt động tư pháp, tăng cươ
̀
ng tra
́
ch nhiê
̣
m cu
̉
a công tố trong hoa
̣
t
đô
̣
ng điều tra”.
Ở Việt Nam, cụm từ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên xuất hiện
trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng
của VKSND tại Điều 138, và được nhắc lại ở các Điều 1 và 3 Luật tổ chức
VKSND năm 1981. Kể từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công

tố và thực hành quyền công tố, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc cải
cách tư pháp.
Khái niệm “thực hành quyền công tố” cũng như nội dung, phạm vi của
nó còn ít được đề cập và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và
ngoài ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua cho thấy, khi đề cập đến thực
hành quyền công tố thì hoặc mới chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như: kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát thi hành án…; hoặc gắn việc thực hành
quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên
trong TTHS; hoặc lại mở rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong
mọi giai đoạn TTHS bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hoặc
chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: lập cáo trạng và luận tội trước phiên
toà sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí còn cho
rằng, thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên toà sơ thẩm.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên
thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo
quy định của pháp luật TTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm
tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tuy
vậy, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực

13
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực
hành quyền công tố. Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn
điều tra, truy tố và xét xử.
Với mục tiêu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý
theo pháp luật của TTHS, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi

hỏi quyền công tố phải được phát động. Khi quyền công tố được phát động thì
đồng nghĩa với hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai và khi
quyền công tố không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng được
kết thúc. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã
quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người
đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động
tố tụng này chính là nội dung của thực hành quyền công tố.
Nội dung giám sát của HĐND đối với hoạt động của VKS biểu hiện
trên các phương diện sau đây:
a) Giám sát các hoạt động thuộc về quyền công tố:
- Trong giai đoạn khởi tố - điều tra: HĐND cần kiểm tra xem xét để
làm rõ: Viện kiểm sát có chủ động tham gia phối hợp với Cơ quan điều tra
trong nắm bắt, xử lý tin báo, tố giác tội phạm hay không; việc áp dụng pháp
luật trong giai đoạn này của Viện kiểm sát có đúng pháp luật hay không.Việc
đánh giá các tài liệu vụ án do Cơ quan điều tra chuyển đến có khách quan,

14
toàn diện không; việc trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra điều tra bổ sung có đúng
quy định không; việc truy tố bị can ra xét xử tại Tòa án có đảm bảo các căn cứ
theo quy định của pháp luật không, có đúng người, đúng tội không; có để lọt
tội phạm và người phạm tội không.
- Trong giai đoạn xét xử: Việc đọc cáo trạng, thực hiện luận tội bị cáo
tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm có thể hiện đúng chức năng, vai
trò không; việc phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại các phiên tòa phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm như thế nào; kháng nghị các quyết định, bản

án của Tòa án có đúng quy trình hay không.
b) Giám sát việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp:
- Kiểm sát hoạt động khởi tố - điều tra vụ án hình sự: Việc thực hiện
vai trò của Viện kiểm sát như thế nào khi phát hiện quyết định khởi tố vụ án
của Cơ quan điều tra không có căn cứ; việc kiểm sát hoạt động khởi tố - điều
tra của Cơ quan điều tra có đúng thực chất hay chỉ chung chung; khi đưa ra
các yêu cầu đối với Cơ quan điều tra có phù hợp thực tế và các quy định của
pháp luật không.
- Kiểm sát hoạt động xét xử của TAND: Việc kiểm sát tuân theo pháp
luật trong hoạt động xét xử của TAND, trong tham gia tố tụng của những
người tham gia tố tụng thực hiện như thế nào; việc kháng nghị đối với bản án
của Tòa án có đảm bảo đúng trình tự, nội dung không, có phản ánh đúng thực
chất vấn đề không.
Qua công tác giám sát nhằm đánh giá những mặt làm được và chưa
được đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong thời gian tới.
3) Giám sát hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là
khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án

15
được coi là khâu đột phá của quá trình cải cách tư pháp. Trong thời gian qua,
các Toà án đã có nhiều cố gắng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" (gọi tắt là Nghị
quyết số 08-NQ/TW) là: Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,

để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong
thời hạn pháp luật quy định. Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và hoạt
động xét xử nói riêng đã “được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nội dung giám sát hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND nhằm tập
trung làm rõ những vấn đề cơ bản như:
- Công tác chuẩn bị các điều kiện để đưa vụ án ra xét xử có được cơ
quan Tòa án quan tâm như thế nào.
- Tại phiên tòa, việc tranh tụng có được thực hiện đúng theo quy định
của pháp luật không, có đúng với tinh thần cải cách tư pháp hay không.
- Việc áp dụng các quy định của pháp luật để đưa ra các bản án có đảm
bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật không.
- Về tiến độ cũng như chất lượng giải quyết án qua các năm như thế nào.
1.1.3.2. Hình thức giám sát
1) Giám sát tại các kỳ họp thông qua các báo cáo, chất vấn và trả lời
chất vấn
a) Giám sát thông qua xem xét các báo cáo trình kỳ họp.

16
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ít nhất mỗi năm hai lần vào kỳ
họp giữa năm và cuối năm, thủ trưởng các cơ quan như TAND, VKSND phải
báo cáo công tác trước HĐND. Các báo cáo của hai cơ quan này được gửi
trước cho Thường trực, các Ban HĐND và Đại biểu HĐND trước khi khai
mạc kỳ họp HĐND để nghiên cứu, xem xét. Trên cơ sở nội dung các báo cáo
và quá trình nghiên cứu, các Đại biểu HĐND có thể nêu ý kiến và đề nghị
TAND và VKSND báo cáo, giải trình thêm. HĐND cũng có quyền yêu cầu
Chánh án TAND và Viện trưởng VKSND báo cáo về những vấn đề khác khi
xét thấy cần thiết (điều 52 Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005).
Xem xét báo cáo công tác của Chánh án TAND và Viện trưởng

VKSND theo quy định của pháp luật là hình thức giám sát rất quan trọng của
HĐND. Vì thực hiện hình thức giám sát này, HĐND xem xét, đánh giá nội
dung báo cáo công tác của các cơ quan nói trên, thông qua đó khẳng định
những ưu điểm, phân tích các khuyết điểm, yếu kém, những vi phạm pháp
luật (nếu có), xác định nguyên nhân khách quan, chủ quan của những yếu
kém, trì trệ, những vi phạm pháp luật trong hoạt động và trong trường hợp cần
thiết HĐND áp dụng các biện pháp pháp lý thuộc phạm vi thẩm quyền của
HĐND theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Điều 60 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003
thì các báo cáo công tác của Toà án nhân dân, VKSND phải được các Ban của
HĐND thẩm tra theo sự phân công của Thường trực HĐND.
Luật cũng quy định trình tự xem xét các báo cáo của các cơ quan nói
trên tại kỳ họp HĐND như sau:
- Người đứng đầu cơ quan nói trên trình bày báo cáo;
- Trưởng Ban của HĐND trình bày báo cáo thẩm tra;
- HĐND thảo luận;
- Người đứng đầu cơ quan trình báo cáo có thể trình bày thêm những
vấn đề có liên quan mà HĐND quan tâm;

17
- HĐND ra nghị quyết về báo cáo công tác của những cơ quan này khi
xét thấy cần thiết (điều 60 của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003).
b) Giám sát thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Đây là hình thức giám sát đặc biệt quan trọng của HĐND các cấp. Vì
chất vấn của Đại biểu HĐND là yêu cầu của Đại biểu với tư cách là người đại
diện có thẩm quyền của nhân dân đối với cơ quan hoặc người bị chất vấn theo
quy định của pháp luật, buộc họ phải giải thích trước cơ quan quyền lực Nhà
nước về những khuyết điểm trong hoạt động, công tác của cơ quan mà mình
lãnh đạo hay người đứng đầu phải trả lời rõ nguyên nhân và biện pháp khắc
phục các khuyết điểm đó.

Pháp luật hiện hành quy định tương đối cụ thể về đối tượng thuộc
quyền chất vấn của Đại biểu HĐND, về thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn
của Đại biểu HĐND.
Về đối tượng thuộc quyền chất vấn của đại biểu HĐND:
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) và Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chánh án Toà
án nhân dân, Viện trưởng VKSND (điều 122 Hiến pháp 1992, điều 41 Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003). Đây là những người đứng đầu các cơ quan
tư pháp trên địa bàn.
2) Thành lập Đoàn giám sát trực tiếp theo chuyên đề, theo bản án, vụ việc
cụ thể
Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Quy
chế hoạt động của HĐND năm 2005, căn cứ vào chương trình giám sát của
HĐND hoặc khi xét thấy cần thiết, Thường trực HĐND tự mình hoặc theo đề
nghị của các Ban HĐND hoặc của Đại biểu HĐND trình HĐND quyết định
thành lập Đoàn giám sát của HĐND đối với các cơ quan tiến hành TTHS theo
phân cấp thẩm quyền.

18
Những vấn đề qua giám sát, kiểm tra được các cơ quan này giải trình
rõ, sẽ là yếu tố quan trọng giúp cho việc thẩm tra, thuyết trình, thảo luận và
quyết định các vấn đề tại kỳ họp có chất lượng; đồng thời giúp cho chính các
ngành này chỉ đạo thực hiện và tổ chức tốt hơn các vấn đề thuộc thẩm quyền.
Đoàn giám sát có quyền mời đại diện Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận
tổ quốc Việt Nam cùng cấp, các tổ chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu
đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có liên quan, các chuyên gia về lĩnh
vực được giám sát tham gia Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
3) Giám sát thông qua hoạt động của Đại biểu HĐND, Tổ Đại biểu
HĐND.
Đại biểu HĐND tham gia trực tiếp vào hoạt động giám sát của HĐND

tại các kỳ họp của HĐND hoặc hoạt động giám sát của Thường trực và các
Ban HĐND. Trong các hình thức giám sát chung của HĐND như đã trình
bày, thì Đại biểu HĐND chú trọng các hoạt động giám sát độc lập thông qua
việc tiếp xúc cử tri, theo dõi việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và giám
sát thông qua các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương và qua các
kênh thông tin khác trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Đại biểu đối với các
cơ quan tiến hành tố tung hình sự.
1.1.3.3. Căn cứ giám sát
1) Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003
Theo quy định của Hiến pháp và tại Điều 1 Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 2003 thì “HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân
địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan
Nhà nước cấp trên”. Quy định này xác định rõ vị trí pháp lý và địa vị pháp lý
của HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đồng thời là cơ quan
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.

19
Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước và cơ quan đại diện của
nhân dân ở địa phương, HĐND thay mặt cho nhân dân địa phương, cho cử tri
đã bầu ra mình để quyết định các vấn đề quan trong của địa phương và giám
sát việc thi hành những quyết định đó. Điều đó cũng có nghĩa là hoạt động
giám sát của HĐND là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước và
quyền lực của HĐND trong lĩnh vực giám sát là quyền lực của nhân dân địa
phương trao cho những Đại biểu của mình, thay mặt cho nhân dân địa phương
thực hiện quyền dân chủ theo quy định của pháp luật.
Từ sự phân tích trên, có thể xác định quyền giám sát của HĐND là một
bộ phận cấu thành không thể tách rời của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, là quyền lực mà nhân dân địa phương trao cho cơ quan đại diện của
mình theo một trình tự, thủ tục được pháp luật quy định, thực hiện để chăm lo

và bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của nhân dân địa phương. Đó
chính là bản chất quyền giám sát của HĐND.
Giám sát của HĐND là quyền của HĐND thực hiện việc theo dõi, xem
xét và đánh giá hoạt động của thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND
cùng cấp; các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và công dân địa phương trong việc thực hiện các nghị quyết
của HĐND và việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
2) Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005.
Tại các điều từ điều 51 đến điều 66, chương 6, Quy chế hoạt động của
HĐND được ban hành kèm theo Nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH11,
ngày 02 tháng 5 năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XI, theo đó
là các quy định về nhiệm vụ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành
chương trình giám sát hàng năm của HĐND, của Thường trực HĐND và các
Ban HĐND; thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành giám sát của Thường trực
HĐND, các Ban HĐND và các Đại biểu HĐND đối với UBND, TAND,

×