Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Vai trò của thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 95 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





BÙI VĂN LƯƠNG






VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của thẩm phán trong hoạt
động tố tụng hình sự
6
1.1. Đặc điểm của tố tụng hình sự và các mô hình tố tụng hình sự
6
1.2. Vai trò của thẩm phán trong tố tụng hình sự
15
1.3. Những yêu cầu của cải cách tư pháp và vấn đề nâng cao vai trò
của thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự
24
Chương 2: Vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của thẩm phán
trong tố tụng hình sự Việt Nam
28
2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
28

2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988
31
2.3. Vai trò thẩm phán theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
36
2.4. Quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
từ năm 1988 đến nay về vai trò của thẩm phán
43
Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về vai
trò của thẩm phán trong TTHS và một số kiến nghị
52
3.1. Vai trò của thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự
52
3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự
77
3.3. Một số kiến nghị về mặt tổ chức nhằm nâng cao vai trò của
thẩm phán trong tố tụng hình sự
81
Kết luận
85
Danh mục tài liệu tham khảo
87




1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chủ trƣơng “cải cách tổ chức,
nâng cao chất lƣợng và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tƣ pháp trong công tác điều tra, bắt, giam,
giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra trƣờng hợp oan, sai. Sắp xếp
lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của toà án các
cấp. Tăng cƣờng đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân cả về số lƣợng và
chất lƣợng” [11, tr. 133].
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Nghị quyết xác định Toà án giữ vị
trí trung tâm trong hệ thống tƣ pháp, hoạt động của Toà án là trọng tâm của hoạt
động tƣ pháp. Đây là bƣớc phát triển mới về nhận thức lý luận trong lĩnh vực tƣ
pháp nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với mục
tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tƣ pháp khẩn
trƣơng, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm ” [12, tr. 127].
Điều đó càng thể hiện rõ vai trò của Toà án trong cải cách tƣ pháp.
Đƣợc thành lập ngay sau khi Nhà nƣớc dân chủ nhân dân ra đời vào
năm 1945, Toà án nhân dân trở thành một trong những công cụ đắc lực của
chuyên chính vô sản. Tiền thân là Toà án quân sự, đƣợc thiết lập tại một số
địa phƣơng bởi Sắc lệnh số 33c ngày 13 tháng 9 năm 1945 của Chủ tịch
Chính phủ lâm thời, ngành Toà án Việt Nam không ngừng phát triển và lớn
mạnh. Hoạt động của Toà án trong thời kỳ đầu cách mạng đã “kịp thời
trừng trị những ngƣời có hành vi vi phạm pháp luật; góp phần giữ vững nền
độc lập dân tộc, sức mạnh chiến đấu của quân đội, nâng cao nhận thức về
pháp luật, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm cho cán bộ, chiến sỹ và
nhân dân” [39, tr. 15]. Với cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ nhất vào năm


2
1950 theo Sắc lệnh số 85-SL, mô hình Toà án đã đƣợc xác định, với mục

đích là “nhằm bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Toà án, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào việc xét xử đồng thời
giám sát hoạt động xét xử của Toà án; tổ chức lại hệ thống Toà án nhân dân
gọn nhẹ, thống nhất, có hiệu quả” [39, tr. 11]. Vào tháng 4 năm 1958 Quốc
hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao, tách Toà án ra khỏi Bộ
Tƣ pháp, sau đó ban hành Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960. Đây
đƣợc xem nhƣ cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ hai. Thời kỳ này ngành Toà án
đã góp phần cải tạo các quan hệ sản xuất cũ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của Toà án đã mang lại nhiều kinh
nghiệm để Nhà nƣớc ta xây dựng các đạo luật trong những năm gần đây.
Trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc, Toà án nhân dân đƣợc mở rộng thẩm
quyền giải quyết các loại án, góp phần làm lành mạnh các quan hệ xã hội,
ổn định môi trƣờng đầu tƣ cho doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc.
Từ năm 2002 thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới, các Toà án đã
tiến hành các phiên toà hình sự theo hƣớng nâng cao vai trò tranh tụng, đảm
bảo quyền của bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng. Nghị quyết 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã xác định rõ những nhiệm vụ cải
cách tƣ pháp đến năm 2020, yêu cầu đặt ra là phải nâng cao chất lƣợng hoạt
động của các cơ quan tƣ pháp, chất lƣợng tranh tụng tại tất cả các phiên toà
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp; tăng quyền hạn, trách
nhiệm tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động thực
thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố
tụng.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, ngành Toà án Việt Nam đang thực sự
đổi mới về tổ chức và hoạt động, tăng cƣờng quản lý và nâng cao năng lực


3
của đội ngũ thẩm phán để đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp trong xu thế hội

nhập kinh tế quốc tế.
Gắn liền với hoạt động của Toà án là Thẩm phán. Chức danh Thẩm
phán sớm đƣợc quy định bằng những văn bản có giá trị pháp lý cao, quy định
về tiêu chuẩn ngạch Thẩm phán, thẩm quyền các Toà và sự phân công giữa
các nhân viên trong Toà án. Đội ngũ Thẩm phán thời kỳ đầu đƣợc bổ nhiệm
chủ yếu từ cán bộ công nông, có hạnh kiểm tốt và trung thành với Tổ quốc,
sau này đã đƣợc chuẩn hoá với điều kiện là phải có trình độ cử nhân luật, có
kinh nghiệm và thời gian nhất định làm việc trong ngành pháp luật.
Trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, Thẩm phán các cấp Toà án trong cả
nƣớc đã xét xử tốt các vụ án, trừng trị kẻ phạm tội góp phần bảo đảm an ninh
chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ đƣợc quyền lợi chính đáng của ngƣời dân.
Hoạt động của Thẩm phán là thực tiễn sinh động làm cơ sở lý luận cho khoa
học tố tụng hình sự và việc xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
Xác định hoạt động của Toà án là trọng tâm của hoạt động tƣ pháp đòi
hỏi phải nâng cao vai trò của thẩm phán, với tƣ cách là ngƣời đại diện Nhà
nƣớc thực hiện quyền tài phán.
Tuy nhiên, hoạt động của thẩm phán trong tố tụng hình sự còn nhiều
điều bất cập. Nguyên tắc độc lập xét xử chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ, vẫn còn
nhiều vƣớng mắc trong hoạt động tố tụng của thẩm phán khi giải quyết các vụ
án hình sự, làm cho hiệu quả xét xử của Toà án chƣa cao. Vì vậy tôi đã chọn
đề tài: “Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự” để làm
luận văn cao học. Thông qua bản luận văn này, tôi muốn làm rõ thêm vai trò
và thực trạng hoạt động của thẩm phán trong tố tụng hình sự, từ đó đề xuất
một số ý kiến nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm phán
trong tiến trình cải cách tƣ pháp, nâng cao hiệu quả xét xử của Toà án.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI


4
Vai trò của thẩm phán trong tố tụng nói chung và trong tố tụng hình sự

nói riêng đã đƣợc đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu, bài viết
đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, nhƣ Thông tin khoa học xét xử
của Toà án nhân dân tối cao, Tạp chí Toà án nhân dân, luận án tiến sĩ của
nghiên cứu sinh Đỗ Gia Thƣ về cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ
thẩm phán ở Việt Nam hiện nay. Năm 2001 Bộ Tƣ pháp đã nghiệm thu công
trình nghiên cứu cấp Bộ với đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn góp
phần xây dựng Quy chế thẩm phán”. Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi soạn
thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã nghiên cứu tổng thể luật tố tụng
của một số quốc gia có nền tƣ pháp phát triển trên thế giới, trong đó có các
quy định về vai trò của thẩm phán.
Tuy nhiên, các công trình và bài viết đó mới nhằm đến những khía cạnh
nhất định của chế định thẩm phán, chủ yếu dƣới góc độ tổ chức và quản lý,
chƣa nghiên cứu một cách hệ thống và đồng bộ về địa vị pháp lý của thẩm
phán trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong công cuộc xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là khi thực hiện Chiến lƣợc Cải cách tƣ
pháp đến năm 2020, vấn đề này cần đƣợc làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và
thực tiễn làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của
thẩm phán trong tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp mà Đảng
cộng sản Việt Nam đặt ra.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
Mục đích: Nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vai trò của thẩm phán trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lƣợng xét
xử của thẩm phán.
Nhiệm vụ:
- Phân tích những đặc điểm của tố tụng hình sự, các mô hình tố tụng
hình sự, vai trò của thẩm phán trong tố tụng hình sự.


5
- Đánh giá, phân tích thực trạng việc áp dụng các quy định pháp luật

hiện hành về vai trò của thẩm phán trong tố tụng hình sự.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của thẩm
phán trong tố tụng hình sự.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về vai trò của thẩm
phán trong tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945 tới nay, hoạt
động của thẩm phán trong thực tiễn tƣ pháp hình sự nƣớc nhà. Luận văn có
tham khảo kinh nghiệm tố tụng hình sự của một số nƣớc, kinh nghiệm của
ông cha thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập.
Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu vai trò của thẩm phán ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm về hình sự.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: Lịch sử, thống kê,
phân tích, tổng hợp, so sánh… để phân tích về hệ thống quyền và nghĩa vụ
của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
6. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm có ba chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố
tụng hình sự.
Chƣơng 2: Vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự Việt Nam.
Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về vai trò
của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự và một số kiến nghị.
Ngoài ra còn phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.


6
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN

TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ CÁC MÔ HÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Nghiên cứu đặc điểm của tố tụng hình sự và các mô hình tố tụng hình
sự là nhằm làm rõ sự tác động và chi phối của các mô hình này đối với vị trí,
vai trò của thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự.
Theo từ điển Tiếng Việt, “tố” là nói về những sai phạm, tội lỗi của
ngƣời khác một cách công khai trƣớc ngƣời có thẩm quyền hoặc nhiều ngƣời
[30, tr. 797]; “tố tụng” là tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các vụ án hình sự [27, tr. 1008]. Theo giáo trình luật tố tụng hình sự của
Khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội, tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng và cá nhân, cơ
quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện,
nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật [14, tr. 13].
Tố tụng hình sự là trình tự hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng và mối quan hệ giữa họ trong
quá trình giải quyết một vụ án hình sự, từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử và
thi hành án đối với ngƣời có hành vi phạm tội. Mục đích của tố tụng hình sự
là phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh, chính xác mọi tội phạm.
Khi xuất hiện một hành vi tội phạm, bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng có
thể thông tin cho cơ quan có thẩm quyền. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì cơ
quan có thẩm quyền phải khởi tố vụ án để làm căn cứ tiến hành điều tra và
truy tố trƣớc Toà án. Hàng loạt hành vi đó đƣợc nối tiếp nhau theo một trình
tự chặt chẽ do Luật tố tụng hình sự quy định.
Hoạt động tố tụng hình sự đƣợc bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền
nhận đƣợc tin báo về tội phạm, trải qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử và


7
thi hành án. Ngƣời bị kết án chấp hành xong phần hình sự của bản án thì các
hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án cũng chấm dứt.

Tố tụng hình sự có những đặc điểm cơ bản, mà những đặc điểm này có
ý nghĩa quy định địa vị pháp lý của thẩm phán:
Thứ nhất, đó là hoạt động mang tính công quyền. Luật hình sự do Nhà
nƣớc ban hành, quy định về tội phạm và hình phạt. Nhƣng trình tự, thủ tục
xác định tội phạm và áp dụng hình phạt lại do luật tố tụng hình sự quy định.
Tố tụng hình sự nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc và lợi ích chung toàn xã
hội, nó xuất hiện, vận động và chấm dứt không lệ thuộc vào ý chí của bất cứ
cá nhân nào.
Trong tố tụng hình sự bao giờ cũng có hai chủ thể chính là Nhà nƣớc và
cá nhân (ở một số nƣớc có cả pháp nhân). Nhà nƣớc giao cho một số cơ quan
và nhân viên của mình thực hiện các hành vi tố tụng. Khi thực hiện các hành
vi đó, ngƣời có thẩm quyền nhân danh quyền lực công cộng và hoạt động của
họ mang tính cƣỡng chế đối với những ngƣời có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên
quan đến vụ án. Các vụ án hình sự đều do Cơ quan công tố tiến hành việc truy
tố và buộc tội ngƣời có hành vi phạm tội trƣớc Toà án. Một số nƣớc có quy
định về quyền tƣ tố, ngƣời bị hại hoặc đại diện của họ trực tiếp buộc tội ngƣời
phạm tội trƣớc Toà án, nhƣng trong mọi trƣờng hợp Viện công tố đều giám
sát các hoạt động tố tụng để đảm bảo cho việc truy tố, xét xử đúng pháp luật.
Thứ hai, đó là hoạt động mang tính giai cấp và tính xã hội cao. Trong
xã hội có giai cấp luôn tồn tại tội phạm, đấu tranh phòng và chống tội phạm
là trách nhiệm của Nhà nƣớc. Mọi Nhà nƣớc đều phải xây dựng pháp luật
hình sự quy định về tội phạm và hình phạt, đồng thời quy định trình tự, thủ
tục áp dụng pháp luật hình sự vào đời sống xã hội. Các hoạt động này
không chỉ nhằm duy trì sự tồn tại của giai cấp thống trị mà còn là đòi hỏi
của xã hội đƣơng đại. Trong từng giai đoạn lịch sử có sự bất bình đẳng
giữa các nhóm xã hội khác nhau, nhƣng tố tụng hình sự bao giờ cũng phải


8
bảo vệ lợi ích của cả cộng đồng ngƣời đang tồn tại trong lòng xã hội thuộc

phạm vi tác động của nó.
Tố tụng hình sự thể hiện tính giai cấp sâu sắc. Nhà nƣớc phong kiến vì
muốn bảo vệ cơ sở xã hội của mình nên có những quy định nhằm bảo vệ lễ
giáo phong kiến, bằng việc cấm ngƣời bị giam tố cáo ngƣời khác, hạn chế
việc kiện ông bà, cha mẹ hay anh chị em kiện nhau; lời khai của những ngƣời
có địa vị trong xã hội có giá trị chứng cứ cao hơn lời khai của thƣờng dân.
Nhà nƣớc tƣ sản vì muốn lật đổ giai cấp phong kiến độc quyền đã đƣa vào tố
tụng hình sự những quy định thể hiện tính dân chủ, đó là việc phân tách quyền
tƣ pháp ra khỏi quyền lập pháp và hành pháp, quy định rất chặt chẽ trình tự
điều tra và xét xử vụ án. Vì đặc biệt coi trọng quyền tƣ hữu nên Nhà nƣớc tƣ
sản đề cao quyền tƣ tố, các cá nhân khi bị tội phạm xâm hại đều có thể đứng
ra khởi kiện ngƣời phạm tội trƣớc Toà án, đồng thời cho phép “thoả thuận thú
tội” giữa các bên. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa công khai tuyên bố nhiệm vụ
của tố tụng hình sự bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình, đó là việc góp phần
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
giáo dục mọi ngƣời tuân theo ý thức pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm (Điều 1 Bộ luật TTHS năm 2003 của Việt Nam).
Thứ ba, tố tụng hình sự là sự thống nhất và nhất quán giữa các giai đoạn.
Hoạt động tố tụng hình sự xuất hiện khi có hành vi có tính chất tội phạm xảy ra
trên thực tế, kết thúc khi ngƣời thực hiện hành vi đƣợc kết luận là không phạm
tội, hoặc nếu bị kết án thì phải thi hành án xong. Hàng loạt hoạt động của các
cơ quan và những ngƣời tiến hành tố tụng nối tiếp nhau theo một trình tự nhất
định, đƣợc pháp luật quy định chặt chẽ, giai đoạn trƣớc là tiền đề của giai đoạn
sau. Những hành vi có tính chất gần giống nhau đƣợc liên kết lại thành một
nhóm gọi là giai đoạn, đƣợc thực hiện bởi những ngƣời hoặc cơ quan khác
nhau. Thông thƣờng có các giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử, thi hành án.


9

Giai đoạn xét xử là quan trọng nhất của tố tụng hình sự. Toàn bộ vụ án
đƣợc giải quyết một cách chính thức tại phiên toà sơ thẩm do Thẩm phán và
Hội thẩm thực hiện. Ở giai đoạn này, bị cáo, đại diện của bên buộc tội và bên
gỡ tội cùng những ngƣời khác công khai trình bày ý kiến của mình. Khác với
giai đoạn điều tra, xét xử bao giờ cũng đƣợc tiến hành công khai (trừ một số
trƣờng hợp đặc biệt), với sự có mặt của những ngƣời liên quan đến vụ án. Xét
xử công khai là đòi hỏi của một nền tƣ pháp dân chủ bắt buộc phải ghi nhận
trong luật, mục đích là để cho công chúng theo dõi, giám sát hoạt động xét xử
của Toà án, tránh tình trạng lạm quyền của những ngƣời nhân danh quyền lực
nhà nƣớc làm thiệt hại đến ngƣời dân.
Chỉ có Toà án và bằng bản án mới có thể kết tội một ngƣời. Điều 9 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 của Việt Nam quy định: "Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chƣa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của
Toà án".
Trong lịch sử tƣ pháp hình sự đã tồn tại nhiều cách thức khác nhau khi
tiến hành giải quyết một vụ án hình sự, đó là mô hình tố tụng tranh tụng và tố
tụng thẩm vấn. Ngoài ra còn có mô hình tố tụng pha trộn giữa hai loại trên.
Tuỳ thuộc vào mỗi mô hình mà pháp luật quy định về vai trò của thẩm phán
khác nhau.
Tố tụng tranh tụng xuất hiện từ thời cổ đại, đƣợc áp dụng tại Nhà nƣớc
Hy Lạp cổ đại, sau đƣợc đƣa vào Nhà nƣớc La Mã với tên gọi là thủ tục "hỏi
đáp liên tục". Theo mô hình này thì vụ án hình sự đƣợc điều tra công khai tại
phiên toà, những tài liệu điều tra trƣớc đó hầu nhƣ không có ý nghĩa về mặt
chứng cứ, các bên buộc tội và bị buộc tội có vị trí ngang nhau trong việc đƣa
ra chứng cứ, công tố viên có mặt tại Toà để trình bày những thiệt hại do tội
phạm gây ra đối với xã hội và chứng minh trách nhiệm hình sự của bị can.
Thẩm phán chỉ đóng vai trò của ngƣời trọng tài, không có trách nhiệm tìm ra
sự thật. Để đƣa ra phán quyết, Thẩm phán chỉ dựa trên những chứng cứ đƣợc



10
các bên đƣa ra tại phiên toà và không có quyền biết đến các chứng cứ đó
trƣớc khi phiên toà diễn ra [39, tr. 3].
Mô hình tố tụng thẩm vấn (hay còn gọi là tố tụng thẩm cứu) đƣợc áp
dụng phổ biến tại các quốc gia theo truyền thống luật châu Âu lục địa từ cuối
thế kỷ thứ XV. Nét đặc trƣng nhất của tố tụng xét hỏi là đề cao vai trò của
Thẩm phán. Thẩm phán là ngƣời đƣa ra quyết định điều tra, có trách nhiệm
tìm ra sự thật trên cơ sở các sự việc, chứng cứ ; là ngƣời chỉ đạo toàn bộ quá
trình tố tụng, kể cả giai đoạn điều tra [39, tr. 4]. Trong tố tụng thẩm vấn thì
cuộc điều tra về căn bản đã đƣợc hoàn tất trƣớc khi Toà án xét xử vụ án,
những chứng cứ viết có ý nghĩa quan trọng. Tại phiên toà Viện công tố có
quyền hạn rất lớn, thẩm phán có vai trò chủ động trong việc tiến hành phiên
toà và cùng với công tố viên có trách nhiệm tìm ra sự thật của vụ án, các bên
tham gia không có nghĩa vụ chứng minh.
Giữa hai mô hình trên có những điểm tương đồng:
Thứ nhất, về mục đích, cả hai loại hình tố tụng đều nhằm tìm ra sự thật
của vụ án, đó là hành vi của con ngƣời đã đƣợc thực hiện, đƣợc những ngƣời
và cơ quan có thẩm quyền nhận diện rồi mang đối chiếu với pháp luật hình
sự, từ đó có căn cứ khẳng định ngƣời thực hiện hành vi có tội hay không có
tội.
Thứ hai, về phƣơng pháp tiến hành, cả hai loại hình đều có những bƣớc
(giai đoạn) tiến hành theo một trình tự nhất định. Khi xảy ra hành vi vi phạm
pháp luật hình sự thì những ngƣời có thẩm quyền theo luật định phải xác
minh làm rõ sự thật, nếu có dấu hiệu tội phạm thì tiến hành điều tra xác định
tội phạm và ngƣời phạm tội. Khi cuộc điều tra hoàn thành thì vụ án đƣợc
chuyển cho Viện công tố xem xét truy tố can phạm trƣớc Toà án. Khẳng định
một ngƣời có tội hay không bao giờ cũng do Toà án với một thẩm phán hay
một Hội đồng xét xử thực hiện.



11
Thứ ba, ngƣời tiến hành tố tụng là những nhân viên nhà nƣớc đƣợc
pháp luật giao nhiệm vụ giải quyết vụ án. Thông thƣờng việc điều tra các tình
tiết của vụ án đƣợc giao cho cảnh sát thực hiện dƣới sự giám sát của công tố
viên. Khi cuộc điều tra hoàn tất thì hồ sơ đƣợc chuyển cho thẩm phán để xét
xử. Điều tra viên, công tố viên và thẩm phán là ba nhân vật trung tâm của tố
tụng hình sự, trong đó thẩm phán có vai trò quan trọng đƣa ra kết luận cuối
cùng cho vụ án.
Thứ tư, cả hai loại hình đều đòi hỏi về một thủ tục tố tụng dân chủ,
công khai, công bằng. Đó là việc tuân thủ các nguyên tắc hiến định, nhƣ
nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tôn trọng quyền tự do dân chủ của con
ngƣời, nguyên tắc công bằng và bình đẳng trƣớc pháp luật. Một ngƣời chỉ bị
bắt và giam giữ theo một trình tự tố tụng nghiêm ngặt. Kể từ khi bị bắt họ có
quyền biết lý do và thông báo việc bị bắt cho ngƣời thân, đƣợc thực hiện
quyền bào chữa, đòi hỏi xét xử công khai với một hội đồng xét xử công bằng,
đƣợc đối xử bình đẳng nhƣ những ngƣời khác.
Thứ năm, việc xét xử thƣờng đƣợc tiến hành theo hai cấp với các hội
đồng xét xử vô tƣ, khách quan. Quy định này nhằm đảm bảo quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, hạn chế những sai lầm có thể xảy ra trong khi giải quyết vụ
án. Ngoài hai cấp xét xử, các mô hình tố tụng đều quy định có cấp giám đốc
thẩm để giải quyết khiếu nại, đây là trình tự kiểm tra của Toà án cấp trên đối
với Toà án cấp dƣới, phát hiện sai lầm của bản án đã có hiệu lực pháp luật để
khôi phục quyền lợi chính đáng cho ngƣời dân.
Bên cạnh đó, giữa hai mô hình tố tụng cũng có những điểm khác biệt,
và đó chính là yếu tố tạo ra sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của thẩm phán
khi giải quyết các vụ án hình sự.
Tố tụng thẩm vấn nhấn mạnh vào giai đoạn điều tra, việc điều tra cẩn
thận sẽ đảm bảo xác định chính xác tội phạm, trong khi đó tố tụng tranh tụng
lại chú trọng vào giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ.



12
Phiên toà trong tố tụng thẩm vấn là sự tiếp tục điều tra, các bên có nghĩa vụ
cung cấp tất cả các chứng cứ thích hợp cho Toà án, công tố viên đại diện cho
Nhà nƣớc chứng minh tội trạng của bị cáo. Phiên toà trong tố tụng tranh tụng
là sự cạnh tranh giữa hai bên đối lập nhau, các bên đƣa ra chứng cứ và tìm
mọi cách bảo vệ chứng cứ đó.
Trong tố tụng tranh tụng, thẩm phán đóng vai trò của ngƣời trọng tài,
trung lập, chủ yếu là điều hành hoạt động của phiên toà, công tố viên và luật
sƣ cùng bị cáo trình bầy các tình tiết buộc tội và gỡ tội để sau đó Toà quyết
định về vụ án. Thẩm phán trong tố tụng thẩm vấn đóng vai trò một thẩm tra
viên đồng thời có quyền quyết định vụ án. Thẩm phán hỏi phần lớn các câu
hỏi để làm rõ sự thật, sau đó đại diện của bên buộc tội và bên gỡ tội tranh luận
để bổ sung cho sự thật. Tố tụng tranh tụng tìm kiếm sự thật khách quan của
vụ án bằng việc tranh luận tự do giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, các bên có
quyền đƣa ra những chứng cứ để bác bỏ ý kiến của nhau, có quyền đặt câu hỏi
trực tiếp cho bên kia cũng nhƣ cho nhân chứng và giám định viên. Đó là một
quá trình cọ xát giữa những ý kiến mâu thuẫn nhau. Vì sự phức tạp của quy
trình tố tụng, các bên thƣờng phải dựa vào luật sƣ để bảo vệ quyền lợi của
mình trƣớc Toà.
Trong tố tụng tranh tụng, quy trình tố tụng chỉ chính thức bắt đầu từ khi
mở phiên toà xét xử, còn các hoạt động điều tra trƣớc đó đƣợc coi là bí mật.
Tại phiên toà các bên có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu, nếu chứng minh
đƣợc tính hợp lý sẽ đƣợc Toà chấp nhận làm chứng cứ của vụ án. Trong tố
tụng thẩm vấn quy trình tố tụng bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, các hoạt động
điều tra hợp lệ đều mang lại những giá trị chứng minh, phiên toà chủ yếu là
kiểm tra lại các chứng cứ đã đƣợc thu thập ở giai đoạn trƣớc. Nếu xuất hiện
chứng cứ mới quan trọng thì hồ sơ phải chuyển lại cho Viện công tố để điều
tra lại chứ không thể quyết định ngay tại phiên toà.



13
Trong tố tụng thẩm vấn tất cả mọi ngƣời tham gia vào vụ án đều cố
gắng tìm ra sự thật nên bị cáo có nghĩa vụ khai báo và cung cấp thông tin cho
điều tra viên, trả lời các câu hỏi tại phiên toà. Tố tụng tranh tụng lại không
mong đợi sự hợp tác của bị cáo cho việc điều tra, họ có quyền giữ im lặng
trong khi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về công tố viên.
Một đặc điểm nổi bật của tố tụng tranh tụng là yếu tố thú tội và mặc cả
thú tội. Vì tính chất phức tạp của việc tranh tụng mà cơ quan cảnh sát hoặc
công tố nhiều khi không thể tìm ra đủ chứng cứ để buộc tội một bị cáo trƣớc
Toà. Do đó, các nhà lập pháp đã đặt ra nhiều quy định để khuyến khích bị can,
bị cáo nhận tội, cung cấp thông tin về bị cáo khác, đổi lại họ có thể đƣợc miễn
truy tố về tội đã phạm hay đƣợc giảm hình phạt sau này. Việc mặc cả thú tội
đƣợc diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện công tố và bị can, bị cáo cùng luật sƣ
của họ. Ƣu điểm đặc biệt của việc dàn xếp tội danh và hình phạt là giảm bớt
gánh nặng ở các Toà án, làm giảm tải cho Toà án và các nhà tù [23, tr. 123].
Ngƣợc lại, tố tụng thẩm vấn không chấp nhận sự mặc cả thú tội, vì Nhà nƣớc
có nhiệm vụ kết tội đúng với những gì mà bị cáo gây ra chứ không phải kết
tội theo ý muốn của bị cáo. Yếu tố thú tội (tự thú) chỉ đƣợc đánh giá nhƣ một
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo.
Tuy nhiên, mỗi mô hình tố tụng đều có nhƣợc điểm riêng. Theo bà
Elisabeth Pelsez, Thẩm phán Toà phúc thẩm Rouen (Hoa Kỳ): Nhƣợc điểm
của tố tụng tranh tụng là làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các bên trong vụ
án hình sự, vì bên nào có nhiều tiền thuê luật sƣ thì sẽ có nhiều khả năng
giành thắng lợi hơn; trong khi đó thủ tục xét hỏi khắc phục đƣợc nhƣợc điểm
này vì công tác điều tra do thẩm phán độc lập và khách quan đảm nhiệm.
Nhƣợc điểm thứ hai của tố tụng tranh tụng là nó rất phức tạp vì khi phiên toà
diễn ra chƣa có gì khẳng định là chắc chắn cả nên đôi khi dẫn đến hệ quả
nguy hiểm. Còn tố tụng xét hỏi bị chỉ trích là không tôn trọng đầy đủ quyền
của các bên đƣơng sự, vì chứng cứ do thẩm phán điều tra nên tố tụng xét hỏi



14
bị coi là đi ngƣợc lại nguyên tắc vô tƣ, khách quan, đôi khi thẩm phán có sẵn
trong đầu quyết định xét xử trƣớc khi diễn ra giai đoạn xét xử, dƣới góc độ đó
việc tranh luận trở nên vô nghĩa [39, tr. 4].
Đối với Việt Nam, trong lịch sử tƣ pháp việc xét xử các vụ án hình sự
đƣợc tiến hành theo thủ tục thẩm vấn nhiều hơn. Dƣới thời phong kiến xây
dựng quốc gia độc lập, theo Bộ Lê triều hình luật, khi điều tra vụ án quan
xét án tra hỏi tù thì trƣớc theo sự việc mà suy xét kỹ lời lẽ của họ khai, xét
nhiều lần còn chƣa quyết định sự việc thì cần phải hỏi thêm, lập hội đồng
quan án rồi mới khảo hỏi; khảo tù không đƣợc quá ba lần. Nếu tang chứng
đã phơi bày, tình lý không còn nghi ngờ gì nữa, dù kẻ phạm cố chối cũng
căn cứ sự việc mà quyết định bản án [4, tr. 343]. Thời nhà Nguyễn, từ 1802
đến 1858 theo Bộ luật Gia Long đƣợc ban hành năm 1815, thủ tục tố tụng
hình sự về cơ bản mô phỏng Bộ luật của nhà Thanh và có tham khảo Lê triều
hình luật. Từ năm 1858 bắt đầu chịu ảnh hƣởng luật châu Âu lục địa thông
qua sự đô hộ của thực dân Pháp. Thời kỳ này nƣớc ta bị chia cắt thành ba
kỳ: Nam kỳ là thuộc địa, Trung kỳ và Bắc kỳ là xứ bảo hộ của Pháp. Nam kỳ
áp dụng Bộ hình luật Pháp và do Toà án Pháp xét xử , Bắc kỳ thực hiện hai
hệ thống Toà án: Toà án Tây xử ngƣời Âu, Toà án Nam xử ngƣời bản xứ,
Trung kỳ áp dụng Bộ luật Gia Long nhƣng phải thay đổi một số quy định có
lợi cho thực dân Pháp [13, tr. 110].
Sau khi Cách mạng Tháng tám thành công, trong khi chƣa ban hành
đƣợc pháp luật mới Nhà nƣớc ta tạm thời sử dụng các luật lệ cũ không gây
phƣơng hại cho nền độc lập và không trái với chính thể dân chủ cộng hoà. Hệ
thống toà án thực dân phong kiến bị xoá bỏ, Toà án nhân dân đƣợc thiết lập và
hoạt động theo những thủ tục dân chủ, hoạt động tố tụng hình sự theo mô
hình tố tụng xét hỏi. Từ năm 1950 bắt đầu công cuộc cải cách tƣ pháp, nhƣng
tố tụng hình sự vẫn mang đậm sắc thái loại hình tố tụng thẩm vấn. Năm 1974

Toà án nhân dân tối cao ban hành Bản hƣớng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm


15
về hình sự (kèm theo Thông tƣ số 16-TATC ngày 27/9/1974). Theo Bản
hƣớng dẫn này thì Toà án nhân dân phải họp trù bị với Viện kiểm sát khi hồ
sơ thiếu những chứng cứ chủ yếu, nếu không khắc phục đƣợc tại phiên toà thì
phải hoàn hồ sơ để Viện kiểm sát nhân dân điều tra bổ sung [18, tr. 127]. Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành của Việt
Nam phân định trình tự tố tụng thành các giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử và
thi hành án. Toà án khi xét xử căn cứ vào hồ sơ điều tra ở giai đoạn trƣớc để
phán quyết đối với vụ án.
Từ năm 2002, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới đã
hƣớng nền tố tụng đến mô hình thẩm vấn kết hợp với tranh tụng: “Việc phán
quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà,
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,
ngƣời bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những ngƣời có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức
thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [9, tr. 3]. Nghị quyết 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến
năm 2020 đƣa ra nhiệm vụ cải cách tƣ pháp là “đổi mới việc tổ chức phiên toà
xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của ngƣời tiến hành tố
tụng và ngƣời tham gia tố tụng theo hƣớng đảm bảo tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lƣợng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây
là khâu đột phá của hoạt động tƣ pháp” [10, tr. 5].
Do vậy mà tố tụng hình sự của Việt Nam từ trƣớc đến nay và giai đoạn
tới đây vẫn thuộc loại hình tố tụng thẩm vấn.
1.2. VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Theo nghĩa Hán-Việt, “thẩm” là xử, “phán” là xét định. Thẩm phán

(judge) là ngƣời của Toà án có nhiệm vụ điều tra, hoà giải, truy tố hay xét xử
các vụ án [30, tr. 727]. Thẩm phán là ngƣời chuyên làm công tác xét xử các


16
vụ án [27, tr. 922]. Thẩm phán là một nhân viên công quyền đƣợc bổ nhiệm
để nghe và phân xử tại toà án; Thẩm phán là ngƣời đƣợc bổ nhiệm để phân xử
các tranh chấp [26, tr. 824].
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân năm 2002 quy
định: “Thẩm phán là ngƣời đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của Toà án”.
Trong tố tụng hình sự có ba chức danh tƣ pháp chủ yếu, đó là điều tra
viên, công tố viên và thẩm phán. Những ngƣời này quyết định toàn bộ quy
trình tố tụng của một vụ án hình sự, pháp luật của các quốc gia đều giao cho
họ những quyền độc lập khi giải quyết vụ án. Trong số này thì thẩm phán có
vai trò quan trọng, vì duy nhất thẩm phán mới có quyền tuyên bố một ngƣời
là đã phạm tội và ấn định hình phạt cũng nhƣ các nghĩa vụ khác cho ngƣời đó.
Khi nói xét xử sơ thẩm là trung tâm của tố tụng hình sự thì thẩm phán chính
là trung tâm của giai đoạn xét xử. Về thực chất, Toà án là cơ quan thực thi
quyền lực tƣ pháp, là nơi thể hiện sản phẩm cuối cùng của toàn bộ quá trình
điều tra và xét xử. Thông qua hoạt động của Toà án - quyền lực tƣ pháp mà
pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội. Đây không phải là phƣơng tiện
duy nhất nhƣng lại là chủ yếu nhất trong việc giải quyết xung đột, tranh chấp
trong xã hội nhằm đƣa xã hội vào trạng thái ổn định để phát triển [40, tr. 15].
Thẩm phán ngoài việc mang quyền lực nhà nƣớc, khi tiến hành xét xử
còn thể hiện ở mức độ nhất định là ngƣời trọng tài đứng giữa bên buộc tội là
công tố viên, ngƣời bị hại và bên gỡ tội là bị cáo và ngƣời bào chữa của bị
cáo. Với vị trí nhƣ vậy nên đòi hỏi thẩm phán phải là những ngƣời hiểu biết,
trung thực, công bằng, khách quan và phải thực sự vì công lý.

Đối với một vụ án hình sự, cho dù là tội phạm nghiêm trọng hay ít
nghiêm trọng, muốn kết tội bị can, bị cáo thì phải thông qua hoạt động xét xử
do thẩm phán thực hiện. Khi công tố viên đƣa một ngƣời ra Toà án và yêu cầu


17
buộc tội họ thì thẩm phán phải mở phiên toà để xét xử, với kết cục là đƣa ra
bản án kết tội hay tuyên bố vô tội. Xét xử là hoạt động mang tính nghề nghiệp
của thẩm phán.
Thẩm phán khi xét xử vụ án phải xem xét một cách khách quan trên cơ
sở tranh luận công khai và bình đẳng trƣớc phiên toà để tìm ra sự thật. Kết
quả xét xử của thẩm phán là ra bản án, quyết định nhân danh Nhà nƣớc. Hoạt
động của thẩm phán ngoài mục đích bảo vệ pháp luật còn phải bảo vệ công lý,
lẽ phải trên cơ sở khôi phục tình trạng vi phạm pháp luật bằng chế tài nghiêm
khắc. Do vậy mà Thẩm phán đƣợc đảm bảo tính độc lập cao trong hoạt động
nghề nghiệp. Mục đích của độc lập là nhằm đến sự công bằng, vô tƣ, khách
quan. Nhƣng yêu cầu của độc lập là phải tuân theo pháp luật, chịu sự điều
chỉnh của pháp luật. Lao động của thẩm phán là lao động trí não, mang tính
sáng tạo cao, chịu sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội và công dân. Các bản
án, quyết định của thẩm phán khi có hiệu lực thi hành thì mọi cơ quan, tổ
chức có nghĩa vụ tôn trọng và tuyệt đối tuân thủ, nó chỉ bị xem xét lại theo
một trình tự tố tụng đặc biệt bằng bản án khác cũng nhân danh Nhà nƣớc.
Luật tố tụng của một số nƣớc có quy định về thẩm phán điều tra và
thẩm phán xét xử, các thẩm phán làm Chánh án, Phó Chánh án đảm nhiệm
thêm công việc quản lý mang tính chất hành chính, nhƣng chức năng chủ yếu
của thẩm phán vẫn là xét xử. Cả bộ máy Toà án cho dù đồ sộ đến mấy cũng
nhằm đến phục vụ cho hoạt động xét xử của thẩm phán. Trong Toà án có
nhiều chức danh với những quyền hạn và trách nhiệm khác nhau, bao gồm
thẩm phán, thƣ ký toà án, thẩm tra viên, cán bộ văn phòng, nhân viên phục
vụ… Nhƣng chỉ có thẩm phán mới có thẩm quyền phán quyết đối với vụ án.

Thẩm phán là ngƣời quyết định sự tồn tại của Toà án, không có thẩm
phán thì không có Toà án. Khi giải quyết một vụ án thì bao giờ thẩm phán
cũng là ngƣời quyết định cuối cùng. Trong một Hội đồng xét xử, mặc dù thẩm


18
phán là thiểu số nhƣng lại giữ quyền điều hành phiên toà và thƣờng có ý kiến
mang tính quyết định đến đƣờng lối xét xử của vụ án.
Tuỳ theo từng loại hình tố tụng và pháp luật mỗi quốc gia mà thẩm
phán tham gia xét xử các vụ án hình sự sớm hay muộn. Có thể phân chia
thành hai giai đoạn chính là tiền xét xử và xét xử.
Tiền xét xử là giai đoạn trƣớc khi hồ sơ đƣợc chuyển đến Toà án với
bản cáo trạng của Viện công tố.
Theo hệ thống luật châu Âu lục địa, trong giai đoạn tiền xét xử, thẩm
phán phải tham gia vào những hoạt động nhằm bảo vệ quyền tự do nhân thân
của bị can khi cần phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhƣ khám xét chỗ ở,
tạm giam, bắt giữ (cảnh sát phải xin lệnh của Toà án). Sau khi bắt, ngƣời bị
tạm giữ đƣợc chuyển cho thẩm phán để tiến hành điều tra sơ bộ, thẩm phán sẽ
đƣa ra quyết định là cho áp dụng hay bãi bỏ biện pháp ngăn chặn [41, tr. 44].
Cộng hoà Pháp quy định Dự thẩm (cũng là một thẩm phán) tiến hành điều tra
trƣớc khi xét xử là bắt buộc đối với trọng tội. Liên bang Nga quy định ở giai
đoạn trƣớc khi xét xử chỉ có Toà án mới có thẩm quyền ra các quyết định áp
dụng biện pháp tạm giam và hạn chế các quyền tự do khác của công dân. Luật
pháp của một số nƣớc khác cũng quy định thẩm phán có quyền hạn đối với
một số hoạt động điều tra. Luật tố tụng của Cộng hoà liên bang Đức quy định:
“Đối với mỗi một quyền hạn chế tự do, nhƣng không dựa trên lệnh của thẩm
phán thì phải xin quyết định của thẩm phán ngay lập tức [28, tr. 3].
Theo hệ thống thông luật (tố tụng tranh tụng), trong giai đoạn tiền xét
xử thẩm phán có vai trò khá lớn. Thẩm phán là ngƣời nhận tin báo tội phạm
và xử lý tin báo, bằng cách thẩm vấn trực tiếp ngƣời báo tin để xác định sự

thật. Thẩm phán không đƣợc từ chối ra lệnh bắt hoặc viết giấy triệu tập bị can,
phải tiến hành điều tra sơ bộ đối với vụ án. Thẩm phán có quyền ra lệnh khám
xét chỗ ở hoặc địa điểm để phát hiện và thu thập chứng cứ, ra lệnh bắt và trả
tự do cho bị can. Bộ luật Tố tụng hình sự Canada quy định thẩm phán là


19
ngƣời thực hiện các hành vi tố tụng, có quyền ra lệnh tạm giam nhân chứng
đến 8 ngày nếu ngƣời này không chịu khai báo.
Theo pháp luật tố tụng của Việt Nam, giai đoạn xét xử đƣợc bắt đầu từ
thời điểm Toà án có thẩm quyền nhận đƣợc hồ sơ vụ án hình sự kèm theo bản
cáo trạng của Viện kiểm sát. Trƣớc khi nhận hồ sơ thì thẩm phán và Toà án
chƣa có thẩm quyền gì đối với vụ án, kể cả việc bắt giam, khám xét, thu giữ
đồ vật nhƣ luật tố tụng của các quốc gia nêu trên. Trong quá trình điều tra vụ
án, chỉ có Viện kiểm sát mới có thẩm quyền giám sát các hoạt động tố tụng,
trực tiếp phê chuẩn hầu hết các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra.
Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, có một số trƣờng hợp Toà án đƣợc
mời tham gia “đánh giá chứng cứ”, hoặc xác định án trọng điểm. Những hoạt
động này chỉ mang tính phối hợp công tác chứ hoàn toàn không có ràng buộc
gì về mặt tố tụng. Khi hồ sơ vụ án đƣợc Toà án chuyển trả lại để điều tra, truy
tố thêm hành vi hay ngƣời phạm tội thì Toà án cũng không có thẩm quyền can
thiệp hoặc tham gia vào việc điều tra bổ sung. Thậm chí Toà án còn không
quan tâm xem vụ án có đƣợc truy tố trở lại hay không, vì luật tố tụng không
ràng buộc điều đó.
Giai đoạn xét xử đƣợc tính từ khi Toà án nhận bản cáo trạng cùng các
tài liệu liên quan đến vụ án thu thập trƣớc đó. Kể từ đây một thẩm phán đƣợc
phân công trách nhiệm giải quyết vụ án và sẽ ngồi chủ toạ phiên toà. Thẩm
phán thực hiện các hành vi tố tụng trƣớc và trong phiên toà xét xử. Ví dụ Bộ
luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, Điều 227 quy định sau khi nhận đƣợc hồ
sơ vụ án hình sự thẩm phán phải ra một trong các quyết định: Chuyển vụ án

theo thẩm quyền xét xử; tiến hành thẩm tra sơ bộ; đƣa vụ án ra xét xử. Các
quyết định này phải ra trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ khi nhận đƣợc
hồ sơ vụ án. Phiên toà sơ thẩm ở Liên bang Nga có thể do hội đồng xét xử
hoặc do một thẩm phán tiến hành. Hội đồng xét xử có thể là 3 thẩm phán hoặc
một thẩm phán với Đoàn bồi thẩm gồm 12 thành viên. Việc tiến hành điều tra


20
tại phiên toà do bên buộc tội và bên gỡ tội thực hiện, thẩm phán chỉ đóng vai
trò trọng tài, thấy cần có thể hỏi thêm để làm rõ các tình tiết liên quan. Kết
thúc phiên toà Chủ toạ sẽ ra một trong các quyết định: Đình chỉ vụ án, ra bản
án vô tội, ra bản án kết tội và quyết định hình phạt, quyết định giải tán Bồi
thẩm đoàn và chuyển vụ án để xét xử lại. Các quyết định của Thẩm phán chủ
toạ phiên toà có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Hoặc Bộ luật Tố tụng hình sự của Cộng hoà Pháp, có sự phân chia toà sơ
thẩm thành ba loại: Toà Vi cảnh, Toà Tiểu hình, Toà Đại hình. Khi xét xử các
hành vi phạm tội vi cảnh, Toà án tiến hành theo thủ tục rút gọn chỉ gồm một
thẩm phán. Thành phần xét xử của Toà Tiểu hình gồm một thẩm phán chủ toạ
và hai thẩm phán khác làm thành viên Hội đồng xét xử; thành phần của Toà
Đại hình gồm các thẩm phán xét xử chuyên nghiệp và bồi thẩm đoàn gồm 9
thành viên. Khi xét xử, thẩm phán chủ toạ giữ gìn trật tự phiên toà, điều khiển
việc xét hỏi và tranh luận, xử lý những ngƣời vi phạm trật tự phiên toà, có
quyền bác bỏ tất cả những gì xâm hại đến sự trang nghiêm của phiên toà hoặc
kéo dài việc xét xử mà không đem lại kết quả gì chắc chắn hơn.
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam quy định Toà án sau khi nhận hồ sơ
vụ án từ Viện kiểm sát phải tiến hành thụ lý và giao cho một thẩm phán thực
hiện các hoạt động tố tụng cần thiết, nhƣ việc xác định thẩm quyền xét xử, đề
xuất việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; trong một thời
hạn nhất định thẩm phán phải ra một trong các quyết định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đƣa vụ án ra xét xử.

Khi vụ án đƣợc đƣa ra xét xử thì thẩm phán lập danh sách và báo gọi những
ngƣời tham gia tố tụng đến phiên toà, giải quyết những trở ngại cho việc tiến
hành phiên toà. Những ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc ấn định trong quyết định
đƣa vụ án ra xét xử. Chủ toạ phải đảm bảo số lƣợng và thành phần của Hội
đồng xét xử hợp lệ khi xét xử bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, khi áp dụng
khung hình phạt có mức án tử hình, chỉ định ngƣời bào chữa cho bị cáo trong


21
một số trƣờng hợp nhất định. Tại phiên toà, thẩm phán chủ toạ là ngƣời điều
hành cao nhất, quyết định toàn bộ các hoạt động tố tụng, có quyền tiến hành
xét xử vắng mặt đối với một số ngƣời tham gia tố tụng, quyết định dừng phiên
toà đến một ngày khác, xử lý những ngƣời vi phạm trật tự phiên toà. Trong
quá trình xét xử, thẩm phán chủ toạ có vai trò quan trọng trong việc xác định
sự thật của vụ án, điều hành các trình tự tố tụng, chuẩn bị bản án và tuyên án
theo quyết định của Hội đồng xét xử. Sau phiên toà, thẩm phán chủ toạ phải
cùng thƣ ký hoàn tất và ký vào biên bản phiên toà, quyết định việc cho những
ngƣời tham gia tố tụng xem biên bản phiên toà, sửa chữa và ban hành bản án
trong thời hạn luật định, theo dõi việc kháng cáo, kháng nghị đối với bản án.
Về nguyên tắc, sau khi tuyên án xong thẩm phán không còn quyền hạn đối
với vụ án, nhƣng có trách nhiệm theo dõi đến khi bản án phát sinh hiệu lực
pháp luật. Về quan hệ hành chính, thẩm phán còn phải báo cáo giải trình về
vụ án trong nhiều năm tiếp theo, đặc biệt khi có khiếu nại, tố cáo hoặc khi hết
nhiệm kỳ thẩm phán cần làm thủ tục bổ nhiệm lại.
Qua các phân tích trên đây, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
1) Tại các nƣớc theo hệ thống luật châu Âu lục địa, Toà án và thẩm
phán tham gia vào ngay từ bƣớc đầu tiên của hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Giai đoạn điều tra chính thức phụ thuộc vào thẩm phán hay công tố viên, họ
tiến hành điều tra và lập hồ sơ bằng cách lấy lời khai tất cả các nhân chứng có
thể, kể cả những ngƣời do đối tƣợng bị tình nghi khai ra và thu thập tất cả các

chứng cứ liên quan. Đối tƣợng bị tình nghi đƣợc lấy khẩu cung ngay và trong
phần lớn trƣờng hợp luật sƣ bào chữa phải có mặt khi lấy khẩu cung bị can,
còn bị can thì có quyền không khai. Điều này đƣợc quy định rõ trong luật và
ngƣời tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích trƣớc khi tiến hành điều tra.
Trên thực tế bị can ít sử dụng quyền này, vì nhƣ vậy họ sẽ bỏ lỡ cơ hội trình
bày những sự kiện làm giảm nhẹ tội của mình.


22
2) Những hoạt động tố tụng ảnh hƣởng đến quyền nhân thân và quyền
tài sản của công dân, nhƣ việc bắt giam, giữ ngƣời, thu giữ thƣ tín bƣu phẩm,
kê biên tài sản đều đƣợc thực hiện một cách thận trọng và đa số trƣờng hợp
phải có lệnh của Toà án. Những quyết định này đƣợc Toà án giao thẩm quyền
ban hành cho thẩm phán chứ không cần ngƣời có chức vụ quản lý của Toà án.
3) Pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nƣớc đều quy định có giai
đoạn điều tra sơ bộ, do công tố viên hay thẩm phán thực hiện. Khi kết thúc
điều tra, công tố viên hay thẩm phán phải xác định căn cứ đƣa ngƣời bị tình
nghi ra Toà xét xử. Nếu đủ chứng cứ thì thẩm phán điều tra làm bản cáo
trạng, còn công tố viên làm quyết định truy tố bị can. Luật sƣ của bị cáo có
quyền thanh tra toàn bộ hồ sơ. Trƣớc khi xét xử công tố viên, luật sƣ và các
thẩm phán chuyên nghiệp đã đƣợc nghiên cứu kỹ nội dung các tài liệu. Khi
xét xử chủ toạ phiên toà để trƣớc mặt bộ hồ sơ. Việc xét xử chủ yếu là kiểm
tra lại tính hợp pháp của các tài liệu đã đƣợc thu thập từ trƣớc. Điều này quyết
định đến việc gọi hệ thống tố tụng của châu Âu lục địa là “tố tụng thẩm tra”.
4) Thẩm phán xét xử vụ án phải đảm bảo thực sự vô tƣ khách quan,
những ngƣời đã tiến hành bất kể hoạt động tố tụng nào ở giai đoạn trƣớc thì
không đƣợc ngồi xét xử vụ án đó. Thẩm phán đồng thời là ngƣời tham gia tố
tụng hay là ngƣời thân thích của ngƣời tham gia tố tụng cũng không đƣợc tiến
hành tố tụng đối với vụ án. Trong quá trình xét xử thẩm phán không đƣợc
phép tỏ thái độ đồng tình hay phản ứng đối với bất kể lời khai của bên nào.

Thẩm phán cần từ chối xét xử khi có nghi ngờ về khả năng có thể tiến hành
phiên toà một cách vô tƣ, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện các chức năng xét
xử của mình và không đƣợc từ chối xét xử khi không có cơ sở. Thẩm phán
cần tránh sai sót và bộc lộ sai sót trong tất cả các hành động và luôn phải thể
hiện thái độ làm khích lệ sự tin cậy của công chúng vào sự liêm chính và vô
tƣ của cơ quan Toà án. Thẩm phán tránh giao tiếp với chỉ một bên đƣơng sự,
tránh tiếp xúc với những ngƣời tham dự phiên toà khi phiên toà đang diễn ra,


23
nhƣng cần có thái độ tôn trọng họ, ngăn chặn sự thành kiến và phân biệt đối
xử trong phòng xử án.
Về vị trí, vai trò của thẩm phán trong mỗi mô hình tố tụng, có thể thấy
đƣợc pháp luật quy định rất khác nhau. Theo Russell F.Canan, một thẩm phán
Toà án tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ [22, tr. 119], thẩm phán tại phiên toà
trong thủ tục tranh tụng cần có những tố chất sau đây:
- Thẩm phán đôi khi cần thiết phải can thiệp chủ động và tích cực hơn
để tìm ra sự thật vụ án khi thấy công tố viên hoặc luật sƣ bào chữa hoạt động
không hiệu quả.
- Thẩm phán xét xử không chỉ đơn thuần là vị trọng tài, không phải là
cái máy tự động hay là ngƣời bào chữa, không phải là công tố. Thẩm phán có
trách nhiệm nhƣ là ngƣời bảo vệ cho quyền lợi của bị cáo và của cộng đồng
trong khi thi hành công lý, không đƣợc phép từ chối nghĩa vụ thực hiện những
sáng kiến để góp phần giải quyết vụ án một cách công minh.
- Thẩm phán không can thiệp hoặc can thiệp quá mức vào giải quyết
vụ án dẫn đến nguy cơ quyền lợi công bị xâm hại hoặc bị cáo có thể bị kết
án không công bằng. Thẩm phán cần can thiệp đúng mức, tận dụng các cơ
hội để làm sáng tỏ những vấn đề còn khó hiểu nhằm tìm ra thông tin xác
thực của vụ án, phải đề phòng việc xét hỏi nhân chứng có thể dẫn đến hội
thẩm bị ảnh hƣởng.

5) Trong tố tụng thẩm vấn thẩm phán có vai trò rất lớn trong việc tìm ra
sự thật của vụ án. Thẩm phán xác định, đánh giá và quyết định sử dụng các sự
kiện làm chứng cứ giải quyết vụ án. Trong tố tụng tranh tụng vai trò của thẩm
phán chỉ nhƣ ngƣời trọng tài, có chức năng hoà giải, giải quyết các xung đột
chắc chắn sẽ xảy ra giữa hai bên buộc tội và gỡ tội.
6) Thẩm phán trong cả hai mô hình tố tụng có nhiều quyền hạn khi điều
khiển phiên toà, đảm bảo thực thi đúng đắn các thủ tục tố tụng, nhƣ việc xử lý
ngƣời vi phạm trật tự phiên toà, buộc bị cáo rời phòng xử án và xử vắng mặt

×