ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
**********
NGUYỄN THỊ LAN ANH
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT
NƯỚC NGOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
**********
NGUYỄN THỊ LAN ANH
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT
NƯỚC NGOÀI
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học
: PGS.TS .Nguyễn Bá Diến
Hà Nội – 2012
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành
tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận
văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Lan Anh
Mục lục
Lời cam đoan
Mục lục
Các thuật ngữ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
7
1. Khái niệm nhãn hiệu 7
1.1 Khái niệm Nhãn hiệu theo quan niệm của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới.
8
1.2 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Mỹ.
10
1.3 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Cộng đồng Châu Âu (EU).
12
1.4 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật của Nhật Bản.
12
1.5 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Trung Quốc.
12
1.6 Theo quy định của Pháp luật Việt Nam.
13
2. Khái niệm pháp luật Nước ngoài 14
3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ nhãn hiệu 15
3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ Nhãn hiệu trên thế giới
15
3.2 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ Nhãn hiệu ở Việt Nam
21
4. Cơ sở pháp lý của việc bảo hộ nhãn hiệu. 25
4.1 Các dấu hiệu cấu thành Nhãn hiệu.
25
4.2 Các tiêu chí để được bảo hộ.
29
4.2.1 Điều kiện về tính phân biệt. 29
4.2.2 Các trường hợp không được bảo hộ do thiếu tính phân biệt. 34
4.2.3 Các trường hợp không được bảo hộ vì các lý do khác 43
5. Các loại nhãn hiệu 45
5.1 Nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) và nhãn hiệu dịch vụ (NHDV)
46
5.2 Nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận
47
5.2.1 Nhãn hiệu tập thể 47
5.2.2 Nhãn hiệu chứng nhận 50
5.3 Nhãn hiệu liên kết và nhãn hiệu nổi tiếng
53
5.3.1 Nhãn hiệu liên kết 53
5.3.2 Nhãn hiệu nổi tiếng 54
6. Những lợi ích của việc bảo hộ nhãn hiệu ra nước ngoài 58
CHƯƠNG 2: BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO
PHÁP LUẬT MỸ, ANH, TRUNG QUỐC VÀ NHẬT BẢN. 62
1. Căn cứ xét nhận đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu 62
1.1 Các nguyên tắc chấp nhận đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
1.2 Yêu cầu về việc sử dụng nhãn hiệu.
65
1.2.1 Hậu quả của việc không sử dụng 67
1.2.2 Sử dụng nhãn hiệu một cách phù hợp. 68
2. Xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 69
2.1 Nguồn luật điều chỉnh nhãn hiệu và cơ quan cho đăng ký nhãn hiệu
70
2.1.1 Nguồn luật điều chỉnh nhãn hiệu 70
2.1.2 Cơ quan cho đăng ký nhãn hiệu 71
2.2 Vai trò của cơ quan đăng ký nhãn hiệu.
71
2.3 Các loại hình đăng ký bảo hộ Nhãn hiệu
72
2.4 Yêu cầu đối với hình thức của đơn.
72
2.5 Yêu cầu các tài liệu phải nộp kèm theo đơn.
73
2.6 Trình tự thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu.
74
2.7 Hiệu lực và gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ.
78
2.8 Vấn đề khiếu nại.
79
3. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu. 84
3.1 Hình thức hủy bỏ hiệu lực một nhãn hiệu đã đăng ký.
84
3.2 Người có quyền nộp đơn đề nghị hủy bỏ một nhãn hiệu đã đăng ký
85
3.3 Thời hiệu khiếu nại yêu cầu hủy bỏ một nhãn hiệu đã đăng ký
86
3.4 Các trường hợp một nhãn hiệu đã đăng ký có thể bị hủy bỏ hiệu lực
86
a. Hủy bỏ vì không gia hạn 87
b.Hủy bỏ theo yêu cầu của chủ nhãn hiệu 87
c.Hủy bỏ do không sử dụng 87
d.Hủy bỏ do nhãn hiệu bị vô hiệu (việc cho phép đăng ký là không chính đáng) 88
e.Hủy bỏ nhãn hiệu do đã mất tính phân biệt 89
f.Các trường hợp hủy bỏ khác 89
3.5 Thẩm quyền hủy bỏ và quyền khiếu nại quyết định hủy bỏ 90
4. Nội dung cơ bản về quyền SHCN đối với nhãn hiệu 91
4.1 Quyền sử dụng nhãn hiệu.
91
4.2 Quyền cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình 92
5. Thực thi quyền đối với nhãn hiệu 93
5.1
Xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
93
5.2 Cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu
98
5.3
Các biện pháp cần thiết chống lại hành vi vi phạm
98
6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 102
CHƯƠNG 3: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM,
104
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ NHÃN HIỆU
104
1. Những quy định của pháp luật Việt Nam 104
1.1 Căn cứ xét nhận đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu.
104
a. Các nguyên tắc chấp nhận đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu 104
b. Yêu cầu về việc sử dụng nhãn hiệu. 105
1.2 Xác lập quyền SHCN đối với nhãn hiệu
106
1.3 Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ nhãn hiệu
112
1.4 Nội dung cơ bản về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
115
1.5 Thực thi quyền đối với nhãn hiệu
116
2. Phương hướng hoàn thiện 120
3. Kiến nghị để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu 122
KẾT LUẬN
135
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
136
Các thuật ngữ viết tắt
BLDS 2005 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam năm 2005.
LSHTT 2005 Luật Sở hữu Trí tuệ Việt Nam năm 2005.
NHHH Nhãn hiệu hàng hóa.
NHDV Nhãn hiệu dịch vụ.
NHTT Nhãn hiệu tập thể
NHCN Nhãn hiệu chứng nhận.
NHNT Nhãn hiệu nổi tiếng.
NHLK Nhãn hiệu liên kết.
SHCN Sở hữu công nghiệp.
SHTT Sở hữu trí tuệ.
ĐƯQT Điều ước Quốc tế.
TRIPS Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ đã được Tổ chức Thương mại thế giới ký ngày
15/04/1994 và có hiệu lực ngày 01/01/1995.
WTO Tổ chức thương mại thế giới.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường đang được áp dụng tại hầu hết các quốc gia cho phép
chủ thể tham gia nền kinh tế tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nền kinh
tế với quyền tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được coi là mô hình tốt nhất
thỏa mãn các quan hệ cung cầu của nền kinh tế đồng thời đáp ứng một cách tốt nhất
lợi ích của người tiêu dùng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cùng với
tự do cạnh tranh những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể khác cũng thường xuyên diễn ra. Những hành vi vi phạm có thể diễn ra dưới
nhiều hình thức, từ những hành vi trái luật nhưng vô hạn tới những hành vi gian lận
hiểm độc cố ý làm hại những đối thủ cạnh tranh hay những hành vi xâm phạm
quyền SHCN. Những hiện tượng nói trên có thể thấy rõ tại mọi quốc gia vào mọi
thời điểm cho dù với một hệ thống chính trị - xã hội như thế nào.
Trong các đối tượng sở hữu công nghiệp thì nhãn hiệu là đối tượng gắn chặt
nhất với lưu thông hàng hóa. Bằng nhãn hiệu nhà sản xuất có thể đánh dấu hàng hóa
của mình sản xuất khi đưa ra thị trường, có thể quảng cáo nhãn hiệu của mình thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác thông qua nhãn hiệu người tiêu
dùng có thể dễ dàng lựa chọn hàng hóa theo nhãn hiệu phù hợp với nhu cầu, sở
thích, chất lượng mà mình mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập của các nền kinh tế trên thế giới thành một thể
thống nhất. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) bao gồm phần lớn các nước trên
thế giới và một loạt các nước thuộc các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc kém phát
triển cũng đang ráo riết đàm phán để gia nhập tổ chức này. Nền kinh tế toàn cầu
đang tiến đến một sân chơi kinh tế thống nhất với luật lệ hài hòa thống nhất. Các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong hoạt động xuất nhập khẩu đang dần bị
bãi bỏ, hoạt động thương mại quốc tế đang ngày càng thông thoáng. Trong bối cảnh
đó, ngược với giảm thiểu các hàng rào mậu dịch quốc tế, việc bảo hộ các đối tượng
sở hữu công nghiệp tại nước ngoài lại ngày càng được tăng cường cả về mặt pháp lý
lẫn thực thi quyền. Tầm quan trọng của bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài
2
càng được đề cao nhằm bảo đảm và tăng cường tính cạnh tranh của hàng hóa và
dịch vụ.
Việc bảo hộ nhãn hiệu không chỉ thực hiện tại nước xuất xứ mà chủ nhãn
hiệu cần thiết phải mở rộng sự bảo hộ nhãn hiệu đến những vùng lãnh thổ mà mình
sẽ xuất khẩu hàng hóa tới bằng các thủ tục xác lập quyền của mình kịp thời tại các
vùng lãnh thổ đó. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu không
những bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu đó mà
điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì thực trạng vi phạm nhãn
hiệu bảo hộ ngày càng phức tạp. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá,
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau với những đặc điểm là không có tính bí
mật và dễ bắt chước được. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã làm giả, làm nhái nhãn
hiệu đã có uy tín trên thị trường nhằm trục lợi cho mình và đã bị các cơ quan chức
năng phát hiện, xử lý. Bên cạnh đó một thực tế là khi nhãn hiệu đã có uy tín trên thị
trường trong nước doanh nghiệp muốn phát triển kinh doanh ở nước ngoài trong khi
đó lại không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài và bị các nhà sản xuất khác lợi
dụng đã đi đăng ký bảo hộ chính nhãn hiệu đó.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương Mại Thế
giới (WTO), đây có thể coi là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc giao lưu thương mại với các nước khác trên thế giới. Cơ hội để Việt Nam
giới thiệu, xúc tiến và hoạt động thương mại với các doanh nghiệp trên thế giới sẽ
tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập và khẳng định vị thế của mình tại
các thị trường mới này đặc biệt là các thị trường khắt khe như Mỹ, Nhật, Anh,
Trung Quốc. Cùng với các cơ hội nêu trên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ
phải đối mặt với những thách thức, khó khăn không nhỏ. Chúng ta dễ dàng nhận
thấy các doanh nghiệp tại các nước tư bản chủ nghĩa nhận thức rất sớm và đúng đắn
về tài sản trí tuệ do nền kinh tế thị trường tại các quốc gia này đã hình thành và phát
triển từ rất sớm. Họ đã sớm nhận thức được ý nghĩa cũng như những giá trị kinh tế
hết sức to lớn mà các tài sản trí tuệ sẽ mang lại cho các hoạt động sản xuất kinh
3
doanh của mình. Tuy nhiên, giá trị của các tài sản trí tuệ không phải được hình
thành một cách tự nhiên mà nó phải trải qua cả một quá trình tích luỹ lâu dài bởi các
hoạt động đầu tư tài chính của các doanh nghiệp là chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ
đó. Để loại trừ nguy cơ bị chủ thể khác sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ của mình,
các chủ đầu tư đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo hộ các tài sản trí tuệ đó trên
phạm vi lãnh thổ của tất cả các quốc gia được coi là thị trường tiêu thụ các sản
phẩm, dịch vụ của mình.
Hơn nữa, một thực tế tại Việt Nam hiện nay là vấn đề bảo hộ quyền SHTT
tại nước ngoài chưa được sự quan tâm và đánh giá đúng mức của các doanh nghiệp
Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của
mình tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm và sau khi nhãn hiệu của mình bị chủ
thể khác sử dụng họ mới tiến hành các biện pháp để giành lại các nhãn hiệu này.
Trong trường hợp đó, chi phí và thời gian cho việc khiếu nại là rất lớn điển hình
trường hợp vụ tranh chấp nhãn hiệu Trung Nguyên tại Mỹ, vụ tranh chấp nhãn hiệu
VINATABA tại Trung Quốc, Inđonexia,.vv là những ví dụ điển hình.
Với các luận điểm trên cho thấy tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ngoài trong thời đại kinh tế "thông
thoáng" hiện nay. Đó là lý do chính tôi chọn đề tài "Bảo hộ Quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Nước ngoài" làm đề tài luận văn tốt nghiệp
của mình, với mong muốn nghiên cứu quy định của pháp luật nước ngoài đặc biệt là
pháp luật của các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật
Bản để từ đó đưa ra những đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo
hộ nhãn hiệu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các đối tượng SHCN, nhãn hiệu là một trong các đối tượng SHCN
hiện nay được đăng ký bảo hộ nhiều nhất ở các nước phát triển cũng như đang phát
triển. Nhiều triệu nhãn hiệu đã được đăng ký và đang được bảo hộ hiện nay trên
toàn thế giới. Các nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ cho tất cả các sản phẩm hàng hóa
được sản xuất trên toàn thế giới (bao gồm 34 nhóm hàng hóa khác nhau) và toàn bộ
4
các loại dịch vụ hiện có (gồm 11 nhóm dịch vụ khác nhau, theo bảng phân loại quốc
tế Nice lần thứ 10).
Bảo hộ quyền SHCN đối với Nhãn hiệu đã thu hút được sự quan tâm nghiên
cứu của nhiều cơ quan, các nhà khoa học, các chuyên gia cũng như các cơ sở đào
tạo Luật. Bên cạnh đó cũng có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức liên quan đến vấn
đề này như Hội thảo khu vực ASEAN của WIPO về bảo hộ quốc tế Nhãn hiệu năm
2001 tại Hà Nội, Hội thảo trong khuôn khổ Cơ chế hợp tác vùng JICA-ASEAN
(JARCOM) về Thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Hà Nội tháng 03/2009 Đồng thời
đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả về sở hữu trí tuệ như bài viết "Thực thi quyền
sở hữu trí tuệ theo hiệp định TRIPS/ WTO trong mối tương quan so sánh với pháp
luật Việt Nam " -ThS. Vũ Thị Hồng Yến, "Bảo vệ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam"- TS.Trần Lê Hồng", "Bảo hộ quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam"- TS. Nguyễn Văn Luật. Những công trình nghiên
cứu này chỉ đề cập tới các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ nói chung, chủ yếu
vào vấn đề bảo hộ Nhãn hiệu theo các quy định của pháp luật Việt Nam mà chưa đi
sâu nghiên cứu bảo hộ Nhãn hiệu theo pháp luật các nước có nền kinh tế phát triển.
Cho đến nay ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn điện, có
hệ thống về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài. Do vậy, đề tài "Bảo
hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài" mà
trọng tâm nghiên cứu những quy định trong pháp luật của Mỹ, Anh, Trung Quốc,
Nhật Bản là một đề tài mới, không trùng lặp. Tuy nhiên tác giả luôn mong muốn
học hỏi, tham khảo những kết quả mà các công trình khoa học cũng như các kinh
nghiệm thực tiễn có liên quan tới đề tài.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu các quy định pháp luật nước ngoài về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu. Trong phạm vi nghiên cứu các quy
định pháp luật nước ngoài về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu
mà trọng tâm nghiên cứu pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ,
5
Anh, Trung Quốc và Nhật Bản để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm giúp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
Bên cạnh ý nghĩa lý luận đề tài nghiên cứu này còn có ý nghĩa thực tiễn.
Trong các đối tượng Sở hữu công nghiệp hiện nay thì Nhãn hiệu được đăng ký bảo
hộ nhiều nhất và cũng là đối tượng bị vi phạm nhiều nhất. Việc bảo hộ nhãn hiệu
mang tính chất lãnh thổ thường giới hạn trong một quốc gia, một nhóm nước hoặc
một khu vực chấp nhận sự bảo hộ đó. Nhãn hiệu không chỉ được bảo hộ tại nước
xuất xứ, mà chủ nhãn hiệu cần thiết phải mở rộng sự bảo hộ nhãn hiệu tại nước
ngoài khi mà mình sẽ xuất khẩu hàng hóa tới bằng các thủ tục xác lập quyền. Khi
nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì thực tiễn bảo hộ và thực thi quyền
bảo hộ nhãn hiệu ở các nước ngày càng đa dạng. Việc nghiên cứu bảo hộ nhãn hiệu
theo Pháp luật nước ngoài sẽ nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam phù
hợp với pháp luật của các nước tiên tiến trên thế giới, đồng thời góp phần ngăn chặn
chủ nhãn hiệu lợi dụng quyền bảo hộ của mình để thực hiện hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, xâm hại lợi ích của các nhà kinh doanh khác.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, lôgíc, thống kê, hệ thống
hóa cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến bảo hộ
quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật nước ngoài.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý,
cơ chế thực thi của việc bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và
Nhật Bản và trên cơ sở đó đưa ra hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam
hiện nay về Bảo hộ nhãn hiệu.
Với mục đích trên trong luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật của các
nước tiên tiến trên thế giới về bảo hộ Nhãn hiệu để từ đó thấy được những điểm
6
tương đồng cũng như chưa phù hợp để đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
Đây là đề tài khoa học đầu tiên đi chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện
và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng bảo hộ nhãn hiệu
theo pháp luật nước ngoài cụ thể là pháp luật của những nước tiên tiến. Trong phạm
vi nghiên cứu những nội dung cơ bản, kinh nghiệm thực tiễn và những ưu điểm của
pháp luật các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với nhãn hiệu. Qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành ba Chương với những nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận chung về bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với
Nhãn hiệu theo Pháp luật Nước ngoài.
Chương 2: Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu theo pháp luật Mỹ,
Anh, Trung Quốc và Nhật Bản.
Chương 3: Những quy định của Pháp luật Việt Nam, phương hướng và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm Nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự cung tự cấp
những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công.
Thời đó có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hóa ra bên ngoài vùng sinh
sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng đất rất xa. Cách đây 3000 năm,
những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc những chữ ký của mình trên
những tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng hóa tới Iran. Các nhà sản xuất Trung
Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm
trước và cùng thời gian đó hàng nghàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được
sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao
chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung Cổ mà việc sử dụng các
dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát
triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế.
Các nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công
nghiệp hóa và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của
thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát triển của
hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh
đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa cùng chủng loại.
Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ
thường khác nhau về giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được
hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn riêng cho
mình trong số hàng hóa cạnh tranh. Do đó, hàng hóa phải được đặt tên. Phương tiện
để đặt tên hàng hóa trên thị trường chính là nhãn hiệu.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất, thương mại mang tính
toàn cầu, nhiều chủng loại hàng hóa, dịch vụ cùng với những chiến lược quảng cáo
8
tiếp thị của các nhà sản xuất kinh doanh, thì việc sử dụng đúng đắn chức năng của
nhãn hiệu theo đúng pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường,
phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực
tế của cuộc sống mọi việc không diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Do ham lợi,
muốn đạt được lợi nhuận nhanh chóng và bằng cách rẻ nhất, người ta đã làm giả,
bắt chước hoặc nhái theo các nhãn hiệu được công chúng ưa chuộng, mặc dù các
loại hàng này thường có chất lượng thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không
có chức năng sử dụng. Điều này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao
đổi hàng hóa trên trái đất và cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tệ nạn đó
ngày càng phát triển cả về quy mô và độ tinh vi, nhất là trong thời đại bùng nổ nền
kinh tế hàng hóa như ngày nay. Rõ ràng việc làm giả bắt chước nhãn hiệu như trên
sẽ triệt tiêu sức sản xuất trong xã hội, làm người sản xuất không muốn đầu tư để
phát triển hàng hóa mang nhãn hiệu của mình, còn người tiêu dùng từ chối mua
hàng hóa vì mất niềm tin.
Như vậy, thông qua việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa
những hàng hóa đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu còn khuyến khích
chủ sở hữu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó,
để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng. Do vậy, nhãn hiệu "thưởng công" cho
những người sản xuất hàng hóa chất lượng cao một cách ổn định và kết cục là nhãn
hiệu kích thích sự phát triển kinh tế.
Khái niệm Nhãn hiệu đã được các chuyên gia, các nhà lập pháp, các nhà
quản lý hay các nhà sản xuất kinh doanh đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau
về Nhãn hiệu. Để làm rõ khái niệm Nhãn hiệu, trong phạm vi nghiên cứu của mình
tác giả xin được giới thiệu các khía cạnh nghiên cứu sau.
1.1 Khái niệm Nhãn hiệu theo quan niệm của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số các tổ chức chuyên
môn của hệ thống các tổ chức của Liên Hợp quốc (UN). Công ước thành lập WIPO
được ký kết tại Stockholm năm 1967 và có hiệu lực năm 1970. WIPO có trụ sở tại
Genever Thụy Sỹ với sứ mệnh là thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc sáng tạo, phổ
9
biến, sử dụng và bảo vệ những sản phẩm trí tuệ của con người nhằm góp phần cân
đối giữa khuyến khích sáng tạo trên toàn thế giới, một mặt bằng cách bảo hộ thích
đáng các lợi ích vật chất và tinh thần của người sáng tạo, mặt khác là đem lại cơ hội
dự thưởng những lợi ích văn hóa và kinh tế xã hội của các sáng tạo đó trên toàn thế
giới; khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ; giúp cho việc
hiện đại hóa pháp luật quốc gia giữa các nước thành viên, quản lý các điều ước quốc
tế về Sở hữu trí tuệ.
Theo định nghĩa của WIPO nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng
hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một
nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số,
hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự
trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp
của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được
cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc
nhãn hiệu hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một
nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm.
Định nghĩa Nhãn hiệu của WIPO đã xác định các yếu tố và bản chất của nhãn
hiệu. Định nghĩa này chính là sự kế thừa những quy định tại Khoản 1 Điều 15 của
Hiêp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp
định TRIPS): "Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng
phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ
của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là
các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu
sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký
là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng
hoá hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được
đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành
viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu
hiệu nhìn thấy được".
10
Theo định nghĩa nhãn hiệu của Hiệp định TRIPS/WTO thì nhãn hiệu bao gồm
các yếu tố sau:
- Một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá
hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh
nghiệp khác;
- Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các
yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu
đó ;
- Các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu.
Việc xác định một đối tượng nào đó có phải là nhãn hiệu hay không thường
được xem xét dựa trên mục đích sử dụng của nó. Để người tiêu dùng có thể dùng để
phân biệt một sản phẩm, nhãn hiệu phải chỉ ra được nguồn gốc của hàng hóa. Chỉ
khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm bán dưới nhãn
hiệu đó với những hàng hóa của doanh nghiệp khác bán trên thị trường. Điều này
cho thấy không thể tách biệt giữa chức năng phân biệt và chức năng chỉ dẫn nguồn
gốc của nhãn hiệu.
Như vậy, khái niệm nhãn hiệu theo quy định của Hiệp định TRIPS/WTO
thường khái quát chung chung ở tầm vĩ mô và mang tính quy chuẩn cao.
Điều này
thể hiện nhận thức đúng đắn của các nhà làm luật về tính phong phú, đa dạng của sự
phát triển tư duy con người trong phát triển kinh tế nói chung và trong việc xây
dựng nhãn hiệu nói riêng. Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đi
theo xu hướng chung đó khi đưa ra khái niệm về nhãn hiệu. Tuy nhiên, mỗi nước có
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau nên cách định nghĩa về nhãn hiệu
cũng có những điểm khác nhau.
1.2 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Mỹ.
Khái niệm nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Mỹ đều dựa trên cở sở khái
niệm nhãn hiệu của Công ước Paris về bảo hộ quyền SHCN năm 1883 của WIPO
và của Hiệp định TRIPS//WTO.
11
Các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu của Mỹ được điều chỉnh bởi Đạo luật
Nhãn hiệu (Lanham Act) ban hành năm 1946 và được sửa đổi nhiều lần trong quá
trình áp dụng. Theo luật này quy định "Nhãn hiệu bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu
tượng hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng được sử dụng bởi một người hoặc
được một người đó có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và xin
đăng ký theo quy định tại luật này- để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó,
bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với những hàng hóa cùng loại được sản xuất
hoặc được bán bởi những người khác và để chỉ rõ nguồn gốc của hàng hóa thậm
chí mà không xác định được nguồn gốc đó " và "không có nhãn hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với những hàng hóa của người khác
lại bị từ chối đăng ký vào sổ đăng ký ".
Theo quy định này, bất kỳ dấu hiệu nào thỏa mãn phân biệt được hàng
hóa/dịch vụ của một người với các hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác
thì được coi là nhãn hiệu. Khái niệm này có tính mở khi cho phép các loại dấu hiệu
mới có thể được cấp bảo hộ nhãn như âm thanh, mùi. Tuy nhiên, trên thực tế do nhu
cầu phát triển của nền kinh tế Mỹ đã cho đăng ký nhãn hiệu chứa đựng các yếu tố
mới này.
Theo những quy định của Mỹ thì chỉ những dấu hiệu truyền thống bao gồm
từ, tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố đó mới được công
nhận là nhãn hiệu. Nhưng dựa vào việc giải thích quy định mở tại Điều 2 Luật nhãn
hiệu nên các dấu hiệu khác có khả năng phân biệt hàng hóa /dịch vụ cùng loại của
các chủ thể kinh doanh khác nhau như âm thanh hay mùi cũng được thừa nhận là
nhãn hiệu và đăng ký. Mỹ là nước đi tiên phong trong việc công nhận trong việc
công nhận các dấu hiệu mới như âm thanh, mùi là nhãn hiệu khi chúng đáp ứng yêu
cầu tính phân biệt. Theo tinh thần của điều khoản này, trên thực tế có rất nhiều
trường hợp đã được bảo hộ ở Mỹ như: mùi hoa cỏ tươi gợi hương hoa Plimeria đã
được cấp đăng ký cho mặt hàng chỉ may và sợi thêu năm 1990; âm thanh Prelude
cũng được đăng ký dành cho nhóm mặt hàng thiết bị chăm sóc sức khỏe, âm thanh,
truyền thông, máy ghi âm,ghi hình, máy bán hàng tự động, máy đếm tiền, thiết bị
12
xử lý thông tin kể cả máy tính, dịch vụ truyền thông, thể thao, giải trí, văn hóa, giáo
dục và đào tạo.
1.3 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Cộng đồng Châu Âu (EU).
Theo Điều 4 bản Quy định số 40/1994 ngày 20/12/1993 của Hội Đồng Châu
Âu thì khái niệm Nhãn hiệu được định nghĩa: "được công nhận là nhãn hiệu cộng
đồng bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên
riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các chữ số, hình dáng của hàng hóa hoặc của
bao gói của hàng hóa mà các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của chủ thể kinh doanh với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác".
Nhãn hiệu theo pháp luật EU có thể là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng hiện
hữu dưới dạng đồ họa, các chữ cái, tên riêng, các phác họa hình ảnh, từ ngữ, các
chữ số, hình dáng của hàng hóa và các dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng
hóa, dịch vụ của chủ thể kinh doanh khác nhau. Nhìn chung khái niệm nhãn hiệu
theo pháp luật EU phù hợp với những quy định của WIPO và Hiệp định
TRIPS/WTO. Bên cạnh liệt kê những yếu tố truyền thống như các dấu hiệu địa lý,
tên gọi, hình vẽ, chữ cái thì pháp luật cũng đã dự liệu trước các nhân tố mới như
mùi hay âm thanh.
1.4 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật của Nhật Bản.
Theo quy định pháp luật Nhật Bản thì Nhãn hiệu có thể là chữ cái, chữ số,
dấu hiệu, hình không gian ba chiều, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng, hoặc sự
kết hợp của chúng với mầu sắc, được sử dụng cho hàng hóa và dịch vụ, thỏa mãn
một trong hai điều kiện: thứ nhất đối với nhãn hiệu gắn lên hàng hóa nó phải được
sử dụng đối với hàng hóa mà một người sản xuất, xác nhận, hay đem vào lưu thông;
hoặc thứ hai đối với nhãn hiệu dịch vụ nó được sử dụng đối với dịch vụ mà một
người cung cấp hay xác nhận trong quá trình thương mại và cho đến thời điểm này
pháp luật Nhật Bản vẫn chưa công nhận cho đăng kỹ Nhãn hiệu âm thanh và mùi
(Điều 2 Luật nhãn hiệu).
1.5 Khái niệm Nhãn hiệu theo Pháp luật Trung Quốc.
13
Khái niệm nhãn hiệu theo Luật nhãn hiệu Trung Quốc là dấu hiệu đặc trưng
và có khả năng phân biệt. Nhãn hiệu có thể là những từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết
hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc (Điều 8 Luật
nhãn hiệu).
1.6 Theo quy định của Pháp luật Việt Nam.
Khái niệm nhãn hiệu được quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự Việt Nam
năm 1995 quy định: "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn
hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể
hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc".
Theo quy định này thì đặc điểm trước tiên của một nhãn hiệu là nhãn hiệu đó
phải có những dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các
cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự
kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Khái niệm nhãn hiệu tại Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995 cũng thể hiện
tính mở vì ngay trong ngôn ngữ của điều luật bao gồm cụm từ "có thể là", tức là
ngoài từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó thì nhãn hiệu còn có thể là
những yếu tố khác. Tuy nhiên, cách quy định như vậy chưa thể hiện tính khái quát
cao, nhất là trong bối cảnh công việc giải thích pháp luật ở Việt Nam nhìn chung
chưa được thực hiện tốt, Toà án không có thẩm quyền giải thích pháp luật thì tính
mở của khái niệm nhãn hiệu đã bị giới hạn đáng kể. Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu ở
Việt Nam cho thấy nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền
thống là hình ảnh, từ ngữ và sự kết hợp giữa chúng. Các loại dấu hiệu khác dù thoả
mãn điều kiện có tính phân biệt các hàng hóa/dịch vụ cùng loại như âm thanh, mùi,
dấu hiệu được nhận biết qua xúc giác hoặc sự kết hợp giữa các dấu hiệu đó, thậm
chí cả màu sắc cũng chưa được thừa nhận và bảo hộ tại Việt Nam.
So sánh với quy định tại Khoản 1 Điều 6 Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ thì nhãn hiệu được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ
của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với
14
hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình, chữ cái,
chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của hàng hóa hoặc hình
dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập
thể và nhãn hiệu chứng nhận. Các dấu hiệu khác như âm thanh, mùi cũng không
được quy định trong hiệp định này.
Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có tính chất
khái quát hơn và phù hợp với chuẩn mực quốc tế theo quy định của WTO về nhãn
hiệu. Đó là một khái niệm về nhãn hiệu tương đối rộng, đầy đủ hơn so với quy định
trong Bộ luật dân sự Việt Nam 1995.
Để khắc phục những hạn chế của Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995 thì tại
khoản 16 Điều 4 Luật SHTT năm 2005 đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu mang tính
khái quát, bao trùm hơn. Theo đó, "Nhãn hiệu là các dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau". Rõ ràng, có thể nói cách
tiếp cận trong việc đưa ra khái niệm nhãn hiệu của pháp luật Việt Nam nhìn chung
đã tiếp thu những kinh nghiệm của các nước. Điều này cho thấy chúng ta đã nhận
thức rõ ràng yêu cầu khách quan của việc tương thích hoá, hài hòa hoá pháp luật
của mình phục vụ cho công cuộc hội nhập với thế giới.
Điểm chung của các cách tiếp cận này là sự thể hiện tính mở của quy định,
theo đó bất kỳ dấu hiệu nào thoả mãn điều kiện phân biệt được hàng hóa/dịch vụ
của một người với hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác đều được coi là
nhãn hiệu. Tính mở của khái niệm cho phép các loại dấu hiệu mới có thể được cấp
bảo hộ. Xu hướng khái quát hoá như vậy hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển
của nhãn hiệu.
2. Khái niệm pháp luật Nước ngoài
Pháp luật Nước ngoài là pháp luật của Quốc gia khác - Foreign law is the law
of another country. (Theo Black’s Law Dictionary)
Pháp luật bao gồm luật nội dung và luật hình thức (luật tố tụng). Về nguyên
tắc pháp luật của nước nào chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ nước đó, đặc biệt
luật tố tụng, như luật tố tụng Việt Nam chỉ áp dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt
15
Nam. Tuy nhiên, để tạo điều kiện và thúc đẩy cho giao lưu các quan hệ dân sự, kinh
tế, thương mại, hôn nhân gia đình giữa công dân nước này với công dân nước khác,
tổ chức quốc gia nước này với tổ chức quốc gia khác thì pháp luật các nước cho
phép áp dụng pháp luật nước ngoài (luật nội dung). Theo Khoản 3 Điều 759 Bộ luật
Dân sự Việt Nam quy định: “trong trường hợp Bộ luật dân sự, các văn bản pháp
luật khác của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu
đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật của nước đó được áp dụng,
nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam".
3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ Nhãn hiệu.
Pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu trải qua lịch sử phát triển với các giai đoạn khác nhau
3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật bảo hộ Nhãn hiệu trên thế
giới
Nhãn hiệu có lịch sử từ rất lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Nhãn hiệu có mối quan hệ chặt chẽ với sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng
hóa trên thị trường. Trình độ phát triển của hàng hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự
phát triển của nhãn hiệu.
Từ thời xa xưa cách đây hàng ngàn năm con người đã biết sử dụng các dấu
hiệu để đánh dấu các sản phẩm do mình tạo ra. Ban đầu người nguyên thuỷ sử dụng
các dấu hiệu để chỉ rõ quyền sở hữu đối với vật nuôi. Sau đó các dấu hiệu nhận biết
được sử dụng để chỉ rõ người sản xuất hàng hóa và nghĩa vụ của họ đối với chất
lượng hàng hóa. Việc sử dụng này đạt tới đỉnh cao dưới thời La mã cổ đại.
Tuy nhiên các nhãn hiệu thời kỳ này mới chỉ là vết khắc của các hình vẽ nhỏ
hoặc các dạng hình học. Mặc dù các dấu hiệu còn đơn giản nhưng các dấu hiệu đó
được coi là "tổ tiên" của nhãn hiệu sau này. Các dấu hiệu được sử dụng nhiều
trường hợp là các chữ ký của các chủ sở hữu trên các sản phẩm, là các dấu hiệu có
chức năng xác định xưởng sản xuất ra loại gốm đó. Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ
trong suốt thời kỳ cổ đại nhãn hiệu dưới hình thức tồn tại đơn giản thực hiện chức
16
năng chủ yếu là chỉ rõ nguồn gốc của sản phẩm và cho phép xác định rõ chủ sở hữu
hay người sản xuất ra sản phẩm đó.
Ở Châu Âu trong thời Trung cổ do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
tác động đến sự phát triển của của các hình thức sản xuất. Bên cạnh các nhãn hiệu
cá nhân của các thợ thủ công đã xuất hiện nhãn hiệu của các nghiệp đoàn. Ngay từ
thế kỷ thứ XIII luật pháp của các vương quốc đã xác lập các hình thức phạt nghiêm
khắc đối với hành vi chiếm đoạt các nhãn hiệu.
Đến giữ thế kỷ thứ XIX cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ đã
được con người áp dụng vào sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu của
con người đã thúc đẩy sự trao đổi hàng hóa, kích thích sự phát triển của thị trường
và thương mại. Chính vì vậy việc bảo hộ nhãn hiệu trở thành mối quan tâm của các
nhà sản xuất kinh doanh khi đưa sản phẩm của mình vào lưu thông. Nhãn hiệu cá
nhân của các nhà công nghiệp, các thương nhân có những cơ hội mới để phát triển.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ vào nửa đầu thế ký XIX ở Tây Âu đã bùng nổ các
nhãn hiệu hàng hóa và thương mại trong rất nhiều ngành nghề như ngành dệt, chế
biến thuốc dán có nhựa thơm, chế biến bánh mứt kẹo
Ngoài tên gọi truyền thống của các nhà công nghiệp và các thương nhân,
nhãn hiệu thời kỳ này đã mang những đặc trưng mới như sự kết hợp giữa hình ảnh
và màu sắc. Cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện các nhãn hiệu hiện đại hơn có sự kết hợp
các yếu tố hình họa và từ ngữ. Nhãn hiệu đã được các quốc gia bảo hộ. Trong thế kỷ
XIX rất nhiều quốc gia đã ban hành các đạo luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của cách mạng công nghiệp, người ta bắt đầu sử
dụng các hình thức đóng gói cá nhân cho các sản phẩm cùng loại. Điều đó tạo ra
khả năng sử dụng nhãn hiệu vừa với tính chất là phương tiện phân biệt sản phẩm,
dịch vụ vừa là phương tiện để quảng cáo. Ví dụ, điển hình về việc sử dụng nhãn
hiệu trong giai đoạn này đó là việc công ty sản xuất xà bông và đèn cầy Procter &
Gamble (Hoa Kỳ), cho đến trước năm 1880 xà phòng được sản xuất trong điều kiện
gia đình và được bán theo trọng lượng, Procter & Gamble đã nghiên cứu và tìm ra
17
công nghệ ưu việt hơn đảm bảo được chất lượng thường xuyên của xà phòng.
Những người chủ công ty này đã sử dụng tên gọi IVORY để làm nhãn hiệu cho sản
phẩm của mình. Tháng 12 năm 1881, công ty P & G (Procter & Gamble) đã đăng bài
quảng cáo đầu tiên về một sản phẩm xà bông thơm có tên là IVORY, "nổi trên mặt
nước, trắng như ngà, và 99,44 phần trăm tinh khiết". Cho đến ngày nay, nhãn hiệu
này không chỉ có chức năng phân biệt mà còn được sử dụng để quảng cáo cho biểu
tượng chất lượng của sản phẩm.
Trong quá trình cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, hiện
tượng bắt chước nhãn hiệu của nhau và gây thiệt hại cho chủ nhãn hiệu ngày càng
nhiều. Số vụ xử kiện tại các toà án ngày càng tăng. Trong các vụ xét xử, nguyên tắc
thường được các toà án áp dụng là: quyền thuộc về người đầu tiên sử dụng nhãn
hiệu. Lúc đầu các sổ nhãn hiệu chỉ dùng để theo dõi các nhãn hiệu bị tranh chấp,
sau đó ghi cả các nhãn hiệu khác chưa bị tranh chấp để đề phòng các tranh chấp sẽ
có trong tương lai. Sổ theo dõi nhãn hiệu dần dần trở thành sổ đăng bạ nhãn hiệu, từ
đó hình thành phương thức đăng ký nhãn hiệu tại toà án (thường gọi là trình toà).
Vấn đề bảo hộ nhãn hiệu được ghi nhận lần đầu tiên trong Luật về xí nghiệp, cơ sở
chế tạo và lò xưởng thủ công năm 1809 của Pháp. Ngày 23/6/1857, Pháp ban hành
Luật về ký hiệu, nhãn hiệu chế tạo. Tiếp lần lượt các nước Italia (ngày30/8/1868),
Bỉ (ngày 01/4/1879), Hoa Kỳ (ngày 03/03/1881), Anh (ngày 25/8/1883), Đức (ngày
12/3/1894), Nga (ngày 26/02/1896), Nhật Bản (1875), v.v… đã lần lượt ban hành
pháp luật về nhãn hiệu của mình. Các đạo luật trên đều quy định khá chi tiết về cơ
chế bảo hộ đối với nhãn hiệu: thủ tục xác lập quyền, sử dụng và bảo vệ nhãn hiệu;
phạm vi các dấu hiệu có thể được bảo hộ, tập trung hoá quá trình đăng ký nhãn
hiệu Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, hầu hết các nước đã thông qua những đạo
luật mới về bảo hộ nhãn hiệu, đáp ứng yêu cầu phát triển không ngừng của hoạt
động sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ trong thời đại mới.
Sự phát triển của sản xuất đã tạo ra nhu cầu to lớn cho sự hình thành và
phát triển của thương mại quốc tế. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với sự phát triển
của thương mại hàng hóa xuyên quốc gia, tình trạng làm hàng giả, hàng nhái nhãn
18
hiệu cũng gia tăng. Người ta bắt đầu nhận thấy tính chất quốc tế trong vấn đề bảo hộ
SHTT, trong đó có bảo hộ nhãn hiệu. Cũng từ đó nảy sinh nhu cầu bảo hộ nhãn hiệu
vượt ra khỏi phạm vi các quốc gia. Kết quả là vào cuối thế kỷ XIX, các điều ước quốc
tế liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu đã lần lượt ra đời. Phản ánh sự đấu tranh đồng thời
với sự hợp tác, dung hoà quyền lợi giữa các nhóm lợi ích khác biệt trên thế giới, các
điều ước này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo hộ quốc tế đối
với nhãn hiệu, thúc đẩy sự phát triển của thương mại trên phạm vi toàn cầu.
Văn bản đầu tiên là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký
kết ngày 20/3/1883 tại Paris, được xem xét lại và sửa đổi tại Roma năm 1886, tại
Mađrit năm 1890, tại Brussels năm 1897 và 1900, tại Washington năm 1911, tại La
Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm
1967 và được sửa đổi vào năm 1979. Tính đến ngày 15/01/2002, có 162 nước là
thành viên của Công ước này.
Việc bảo hộ nhãn hiệu theo Công ước Paris được thể hiện trên hai khía
cạnh: một là thiết lập những nguyên tắc bảo hộ chung cho tất cả các đối tượng
SHCN được quy định trong Công ước, trong đó có nhãn hiệu; hai là, đưa ra những
quy định riêng về chế độ bảo hộ đối với nhãn hiệu.
Tuy nhiên, dưới góc độ lập pháp quốc tế, Công ước chưa giải quyết được
một số vấn đề quan trọng như việc đăng ký nhãn hiệu vẫn phải được tiến hành tại
từng quốc gia nơi người nộp đơn yêu cầu bảo hộ. Công ước cũng chưa quy định
một cách cụ thể về nhãn hiệu dịch vụ, chưa thiết lập được một hệ thống đăng ký
quốc tế nhãn hiệu …
Để khắc phục những thiếu sót trong Công ước Paris, năm 1891, Thỏa ước
Mađrit đã được thông qua tại Tây Ban Nha. Tính đến ngày 18/01/2002, Thỏa ước
đã thu hút được 52 quốc gia thành viên. Những quy định của Thỏa ước mở ra cơ hội
cho việc thiết lập cơ chế đăng ký quốc gia và quốc tế cho cùng một nhãn hiệu, trong
đó mỗi nước thành viên Thỏa ước đều có nghĩa vụ công nhận đăng ký này. Thỏa
ước không thiết lập một chế độ bảo hộ duy nhất đối với nhãn hiệu ở tất cả các nước