Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Các công ước quốc tế về lao động trẻ em và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 112 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG




CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC















Hà Nội – 2009



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN HOÀNG PHƢƠNG






CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN HỒNG BẮC


Hà nội - 2009



3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Hoàng Phƣơng











4
Danh mục các từ viết tắt
1) Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em: BVCSGDTE
2) Bảo vệ quyền trẻ em: BVQTE
3) Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em: IPEC
4) Lao động trẻ em: LĐTE
5) Người chưa thành niên: NCTN
6) Ngân hàng thế giới :WB
7) Quỹ Dân số của Liên hợp quốc: UNFPA
8) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc: UNICEF
9) Quyền trẻ em: QTE
10) Tổ chức Lao động quốc tế: ILO

11) Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá: UNESCO
12) Thu nhập quốc dân tính trên đầu người trong một năm : GDP
13) Trách nhiệm hữu hạn : TNHH













5
MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ
CÁC CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM
5
1.1.

Khái niệm trẻ em, LĐTE và pháp luật về trẻ em
5
1.1.1.
Trẻ em
5
1.1.2.
Lao động trẻ em
8
1.1.3.
Pháp luật về trẻ em
10
1.2.
Những vấn đề chung về LĐTE
12
1.2.1.
Các hình thức của lao động trẻ em
12
1.2.2.
Nguyên nhân của tình trạng LĐTE
16
1.2.3.
Hậu quả của tình trạng trẻ em phải lao động sớm
19
1.3.
Các công ƣớc quốc tế về lao động trẻ em
22
1.3.1.
Vai trò và hoạt động của tổ chức lao động quốc tế (ILO) trong việc xây
dựng các công ước quốc tế về LĐTE
22

1.3.2.
Sự cần thiết nghiên cứu các công ước của tổ chức lao động quốc tế về
LĐTE
24
1.3.3.
Các công ước quốc tế về LĐTE
26

Kết luận chƣơng 1
40

Chương 2 - THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THỰC THI CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ
LAO ĐỘNG TRẺ EM
41
2.1.
Thực trạng lao động trẻ em
41
2.1.1.
Tình hình lao động trẻ em một số nước trên thế giới
41
2.1.2.
Thực trạng lao động trẻ em ở Việt Nam
45
2.2.
Thực trạng chính sách, pháp luật về LĐTE
53
2.2.1.
Thực trạng chính sách của Việt Nam về LĐTE
53


6
2.2.2.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về LĐTE
57
2.3.
Đánh giá thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE khi Việt Nam thực thi
các công ƣớc quốc tế về LĐTE
73
2.3.1
Những kết quả đạt được
73
2.3.2.
Những khó khăn, tồn tại
78

Kết luận chƣơng 2
82

Chƣơng 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ LĐTE TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ
83
3.1.
Mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn
đề LĐTE
83
3.2.
Một số giải pháp nhằm hạn chế và chấm dứt tình trạng trẻ em phải làm
việc nặng nhọc trong môi trường độc hại, nguy hiểm ở Việt Nam
88

3.2.1.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về LĐTE
88
3.2.2.
Đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật và tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề
LĐTE
92
3.2.3.
Giải pháp về chính sách xã hội
93
3.2.4.
Cần xóa bỏ các hình thức lạm dụng LĐTE thông qua các giải pháp “phi
luật pháp”
96
3.3.
Một số biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện giải pháp
97
3.3.1
Đối với các địa phƣơng có ngành nghề truyền thống
97
3.3.2
Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc về lao động, trẻ em cấp quận,
huyện; cấp tỉnh, thành phố
97
3.3.3.
Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
98
3.3.4
Đối với Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội

98

Kết luận chương 3
100

KẾT LUẬN CHUNG
101

TÀI LIỆU THAM KHẢO
103

7

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Hoàng Phƣơng














8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ và chăm sóc trẻ em là nội dung hoạt động cơ bản trong chiến lược
phát triển của mỗi quốc gia. Ở nước nào cũng vậy, trẻ em sinh ra và lớn lên trong
những điều kiện hoàn cảnh gia đình, cộng đồng đa dạng và không giống nhau. Mỗi
em một vẻ, mỗi em một hoàn cảnh và mỗi em mang theo mình một tâm sự buồn vui
khác nhau. Nhưng các em đều có chung một nhu cầu khẩn thiết, nhu cầu được sự
giúp đỡ, cưu mang của xã hội.
Tiến trình toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển không
ngừng của khoa học công nghệ đã góp phần làm thay đổi nhanh chóng đối với các
lĩnh vực của đời sống xã hội; đời sống vật chất - tinh thần của đông đảo các tầng lớp
xã hội không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu xã hội
không thể phủ nhận thì còn tồn tại một thực tiễn không mong muốn đó là tình trạng
trẻ em bị bóc lột, bị lao động cực nhọc trong các công trường, hầm mỏ; trẻ em vẫn
phải xả súng vào chính đồng loại của mình; trẻ em lang thang trên đường phố, bị sử
dụng vào các mục đích vô nhân đạo Đó đang là những thách thức đối với nhân
loại tiến bộ trong công cuộc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, bảo vệ thế hệ tương lai của

nhân loại.
Trong xu hướng toàn cầu hóa, quyền con người nói chung và quyền của trẻ em
nói riêng không còn là vấn đề quan tâm của từng quốc gia đơn lẻ, mà nó đã và luôn
được cả cộng đồng quốc tế quan tâm. Trong Tuyên ngôn về quyền của trẻ em được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1959 đã ghi nhận “Loài người có trách
nhiệm trao cho trẻ em những điều tốt đẹp nhất”; Công ước quốc tế về quyền chính
trị - dân sự năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) chỉ ra rằng: "Mọi trẻ em…
đều có quyền được hưởng sự bảo hộ của gia đình, xã hội và của nhà nước" (Điều
24); Công ước quốc tế về quyền kinh tế - xã hội và văn hoá năm 1966 (Việt Nam
gia nhập năm 1982) khẳng định: "Thanh thiếu niên cần được bảo vệ và không bị
bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc lột lao động trẻ em" (Điều 10). Năm 1989, với
sự nỗ lực của một số quốc gia, Công ước quốc tế về quyền trẻ em (Việt Nam là

9
quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước) được thông qua. Công ước đã ghi nhận khá đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ
em, đồng thời xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành viên và chỉ rõ vai trò,
trách nhiệm của gia đình, của cộng đồng và của toàn xã hội trong việc đảm bảo thực
thi quyền của trẻ em.
Một xã hội văn minh, tiến bộ cần phải có chính sách và kế hoạch cụ thể, tập
hợp mọi nguồn lực, tìm mọi phương thức đa dạng để bảo vệ và chăm sóc trẻ em
một cách hiệu quả, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việt Nam là nước
nông nghiệp lạc hậu phải trải qua những năm tháng dài của chiến tranh nên đời sống
của nhân dân còn chưa cao, còn có nhiều hộ gia đình nghèo khổ, gia đình đơn thân,
gia đình li tán nên số trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ lao động sớm chiếm tỷ
lệ ngày càng cao. Vì vậy việc bảo vệ trẻ em đã trở thành công việc hết sức cần thiết
và từ lâu đã được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Cho đến nay,
Việt Nam đã có hệ thống chính sách, pháp luật về vấn đề bảo vệ trẻ em nhằm xã hội
hóa công tác này. Tuy nhiên, luật pháp về bảo vệ trẻ em nhất là những quy định
pháp luật về lĩnh vực lao động trẻ em (LĐTE) còn nhiều bất cập, việc thực thi pháp

luật còn yếu, việc tổ chức kiểm tra, giám sát, xử lý các vi phạm vẫn chưa được tiến
hành một cách thường xuyên, nghiêm túc. Vì vậy, việc nghiên cứu chính sách pháp
luật về vấn đề bảo vệ trẻ em nói chung, lĩnh vực LĐTE nói riêng để điều chỉnh, sửa
đổi chính sách nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn đất nước và nhu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp bảo vệ trẻ em ngày càng trở nên cần thiết.
LĐTE là một vấn đề rất phức tạp, do đó đây là vấn đề được quan tâm của các
quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, việc nghiên cứu chính sách bảo vệ trẻ em mới
được đặt ra nên chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề LĐTE mà
chỉ có ở một số đề tài khoa học nghiên cứu về quyền trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn… Vì thế, trước yêu cầu cấp thiết của công tác hoạch định chính
sách, xây dựng pháp luật về vấn đề LĐTE, tôi chọn đề tài “Các công ước quốc tế về
LĐTE và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” - một vấn đề có ý nghĩa quan trọng
trong chính sách bảo vệ trẻ em của nước ta để nghiên cứu với mong muốn góp phần

10
làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn chính sách bảo vệ trẻ em nói chung, chính sách
đối với LĐTE nói riêng làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học.
2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu với mục đích làm sáng tỏ:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về trẻ em và LĐTE.
- Làm sáng tỏ nội dung cơ bản của các công ước quốc tế về LĐTE, đồng thời
phân tích những thuận lợi, khó khăn đối với Việt Nam khi thực thi các công ước
quốc tế này.
- Đánh giá thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE ở Việt Nam từ khi phê chuẩn
công ước quốc tế về LĐTE từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về LĐTE trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Đây là một đề tài tương đối rộng nên không thể nghiên cứu được tất cả các
vấn đề liên quan đến LĐTE. Do vậy, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về hai công

ước quốc tế về LĐTE đó là: Công ước số 138 của tổ chức lao động quốc tế về tuổi
tối thiểu làm việc và Công ước số 182 của tổ chức lao động quốc tế về nghiêm cấm
và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức LĐTE tồi tệ nhất. Khi đánh giá thực
trạng LĐTE, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tình hình LĐTE từ năm 2000 đến
nay ở một số thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh … là
những địa phương thu hút nhiều LĐTE. Đồng thời, khi phân tích về LĐTE, luận
văn chỉ phân tích về LĐTE mà không đề cập đến vấn đề trẻ em tham gia làm việc.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây, đã có một số công trình nghiên cứu của Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội, Uỷ ban Dân số - Gia đình và Trẻ em (nay là Cục Bảo vệ, chăm sóc
trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học về LĐTE như, công trình nghiên cứu của Thanh tra Bộ Lao động -

11
Thương binh và Xã hội về “Các hình thức LĐTE tồi tệ nhất”, công trình nghiên cứu
của tác giả Vũ Ngọc Bình về “Vấn đề LĐTE”, công trình nghiên cứu của tác giả Đỗ
Thị Loan về “Thực trạng LĐTE trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, công trình
nghiên cứu của tác giả Trần Văn Thắng về “Quyền trẻ em” Tuy nhiên, đây chỉ là
những nghiên cứu mang tính chất chuyên đề, hoặc chỉ dừng lại ở phạm vi một địa
phương, hoặc nghiên cứu ở tầm vi mô, chưa nghiên cứu một cách có hệ thống toàn
bộ thực trạng LĐTE, pháp luật LĐTE, chưa đưa ra các giải pháp mang tính khả thi,
phù hợp nhằm ngăn chặn việc sử dụng LĐTE… Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về vấn đề LĐTE từ đó đề xuất những kiến nghị để bảo vệ
quyền trẻ em nói chung, quyền trẻ em tham gia lao động nói riêng là rất cần thiết.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện
chứng, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh nhằm làm sáng tỏ
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về LĐTE, có
đối chiếu, so sánh với quy định của pháp luật Việt nam để tìm ra điểm tương đồng
và điềm khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật của một số quốc gia

trong lĩnh vực này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chƣơng 1 - Một số vấn đề chung về LĐTE và các công ước quốc tế về
LĐTE.
Chƣơng 2 - Thực trạng vấn đề LĐTE ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam khi tham gia các công ước quốc tế về LĐTE trong điều kiện hội nhập
quốc tế.
Chƣơng 3 - Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về LĐTE trong
điều kiện hội nhập quốc tế.



12
Chƣơng 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM VÀ CÁC
CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. Khái niệm trẻ em, LĐTE và pháp luật về trẻ em
1.1.1. Trẻ em
Trong khoa học, trẻ em được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo
góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em được xem xét
trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội. Con người sáng tạo ra lịch
sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Trong mọi thời đại, tương lai của
một quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Trong xã hội học, xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với
người lớn. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ em được xã hội quan tâm tạo điều kiện sinh
thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển thành người lớn. Trẻ em là người
chưa đạt tới sự trưởng thành về thể chất cũng như về tinh thần để được coi là người
lớn.
Trong tâm lý học, khái niệm "Trẻ em" được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự
phát triển tâm lý - nhân cách con người. Các nhà tâm lý học rất quan tâm nghiên

cứu sự phát triển tâm lý của trẻ em trong độ tuổi từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì.
Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo “độ
tuổi”. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ
thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Độ tuổi trẻ em được xác
định tùy theo mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa - xã hội cụ thể. Các tổ chức của Liên
hợp quốc, như Quỹ dân số (UNFPA), tổ chức lao động quốc tế (ILO), tổ chức giáo
dục, khoa học và văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi. Điều 1,
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 xác định “ Trong phạm vi của Công
ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều 2 Công ước số 182 của Tổ
chức lao động quốc tế ban hành năm 1999 (Việt Nam gia nhập ngày 19/12/2000)

13
cũng quy định “Trong Công ước này, thuật ngữ „trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả
những người dưới 18 tuổi”.

Trong khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa nào về
trẻ em cũng như về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em mà chỉ có một số ngành
luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên (NCTN) và các quy định
này không thống nhất giữa tất cả các ngành luật. Theo quy định tại Điều l, Luật Bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 2004): “Trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Còn Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác
định tuổi nuôi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống (Điều 34). Trong khi đó, Bộ luật
hình sự năm 1999 lại quy định người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi. Và Bộ luật lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002,
2006, 2007) lại quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi (Điều 119) còn khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (Điều
120). Bên cạnh đó, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2008 lại quy định
tuổi chịu trách nhiệm hành chính “là người từ đủ 14 tuổi trở lên có thể bị xử phạt vi
phạm hành chính”. Từ đó, có thể hiểu khái niệm trẻ em bao gồm cả NCTN hay

cũng có thể hiểu rằng NCTN cũng bao gồm cả trẻ em và đều 1à những người ở độ
tuổi dưới thành niên (dưới 18 tuổi).
Như vậy, trẻ em trước hết là một con người được hưởng mọi quyền và mọi
tự do đã được nêu ra trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà không bị
bất cứ một sự phân biệt đối xử nào vì chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn
giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng
dõi hoặc mối tương quan khác. Nhưng trẻ em lại là người chưa trưởng thành nên có
quyền được chăm sóc sự sống, tồn tại, phát triển, được bảo vệ và được bày tỏ ý
kiến.
1.1.2. Lao động trẻ em
Theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khi tỡm hiểu khỏi niệm
lao động trẻ em ngoài việc xem xột ở góc độ độ tuổi, còn phải được tiếp cận từ góc
độ tính chất công việc mà chủ thể phải làm:

14
- Về độ tuổi: trẻ em là nguời dưới 18 tuổi;
- Về tính chất công việc, lao động trẻ em bao gồm những công việc có ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Với cách lập luận như trên, ILO cho rằng “Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ
tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá
nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập
và vui chơi”, [33, 40].
Ở nước ta, tính đến thời điểm này chưa có khái niệm thống nhất về LĐTE. Bộ luật
lao động của Việt Nam quy định người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên và
lao động dưới 18 tuổi là lao động chưa thành niên mà không chỉ rõ như thế nào là
LĐTE. Hơn nữa khái niệm người chưa thành niên được sử dụng khá nhiều trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như: Bộ luật Dân sự (Điều 20), Bộ luật
Hình sự (Điều 68) đều quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Điều

6, Bộ luật Lao động quy định “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả
năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động”. Điều 119, Bộ luật Lao động quy
định “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Điều 120,
Bộ luật Lao động quy định “Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một
số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định”.
Như vậy, nếu căn cứ vào các quy định của Bộ luật lao động và Luật Bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ em thì có thể hiểu rằng, lao động trẻ em là những người dưới
16 tuổi phải tham gia hoạt động để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần nhằm
thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của mình.
Theo đó, khái niệm lao động trẻ em ở Việt Nam là thuật ngữ chỉ tình trạng
trẻ em (những người dưới 16 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những
công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về
thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều

15
hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui
chơi.
Trong phạm vi luận văn, tác giả sử dụng khái niệm lao động trẻ em với nội
hàm và ngoại diên nêu trên.
Khi nghiờn cứu về LĐTE cần phõn biệt giữa LĐTE với trẻ em tham gia làm
việc. Đây là khái niệm đề cập đến những trẻ em làm các công việc có thể chấp nhận
được, bao gồm các hoạt động không làm hại tới và có thể góp phần vào sự phát
triển lành mạnh của trẻ, những công việc này mở ra những cơ hội trong cuộc sống
và tạo cho trẻ những kinh nghiệm mới mẻ.
Thực tế cho thấy, hoạt động lao động (không mang tính bóc lột) đóng vai trò
quan trọng đối với chính sự phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách của trẻ. Giáo
dục học, tâm lý học và các khoa học có liên quan đều chỉ ra rằng lao động được tổ
chức một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi là con đường, là cơ chế
và là nhân tố phát triển thể chất, năng lực tư duy và đời sống tình cảm của trẻ em.
Chủ tịch Hồ chí Minh đã từng nhắn nhủ “tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của

mình”.
Trẻ em tham gia làm việc có sự khác biệt so với lao động trẻ em như sau:
Trẻ em tham gia làm việc (child work)
Lao động trẻ em (child labour)
Công việc phù hợp với độ tuổi, khả năng,
thể chất và trí tuệ của trẻ em.
Công việc quá sức, quá nặng nhọc đối với tuổi
và khả năng của trẻ.
Được người lớn chăm sóc và chịu trách
nhiệm giám sát.
Trẻ em lao động dưới sự giám sát của những
người lớn lạm dụng.
Thời gian làm việc hạn chế, không cản trở
trẻ em đến trường, vui chơi và nghỉ ngơi.
Làm việc nhiều giờ, trẻ em bị hạn chế hoặc
không có thời gian đi học, vui chơi và nghỉ
ngơi.
Nơi làm việc an toàn và có môi trường bạn
bè thân thiết, không độc hại tới sức khoẻ va
Nơi làm việc độc hại đến sức khoẻ và cuộc
sống của trẻ em.

16
cuộc sống của trẻ em.
Môi trường làm việc góp phần nuôi dưỡng
và phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ và
tinh thần của trẻ em.
Trẻ em dễ bị lạm dụng về tinh thần, thể chất và
tình dục.
Trẻ em làm việc tự nguyện để tham gia

trách nhiệm trong việc duy trì công việc và
phát triển sản xuất của gia đình, tăng thu
nhập gia đình.
Hoàn cảnh bắt buộc.
Trẻ em được bù đắp về tinh thần và thể
chất.
Trẻ em bị hạn chế hoặc không được khuyến
khích về tinh thần và vật chất.
Công việc của trẻ là một phương tiện rèn
luyện sức khoẻ, phẩm chất đạo đức cho trẻ.
Công việc của trẻ có ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sức khoẻ và sự phát triển của trẻ.

Như vậy, so với trẻ em tham gia làm việc và LĐTE thì một trong những
điểm khác biệt nhất của hai hình thức lao động này là LĐTE phải làm những công
việc nặng nhọc, điều kiện độc hại, nguy hiểm.
Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông thì “nặng nhọc là vất vả, phải bỏ nhiều
công sức”, “độc hại là dễ gây hại cho sức khỏe và tinh thần”; “nguy hiểm là có thể
gây tai nạn lớn, khó lòng vượt qua hay khắc phục hậu quả” [35].
Từ đó, có thể hiểu:
Lao động nặng nhọc: Là việc người lao động phải thực hiện các công việc
vất vả, phải bỏ nhiều công sức.
Lao động trong điều kiện nguy hiểm: Là việc người lao động phải thực hiện
những công việc dễ gây ra tai nạn, bệnh nghề nghiệp cho bản thân hoặc cho những
người xung quanh.

17
Lao động trong điều kiện độc hại: Là việc người lao động phải tiếp xúc với
các chất, yếu tố dễ gây hại cho sức khỏe hoặc tinh thần trong quá trình thực hiện
công việc của mình.

Tại Chương IX, An toàn lao động, vệ sinh lao động (Điều 100, 101, 104) và
tại các Điều 113, 121, 127 của Bộ luật Lao động có đề cập đến công việc nặng
nhọc, điều kiện độc hại, nguy hiểm. Tuy nhiên, trong Bộ luật Lao động cũng như
trong các văn bản hướng dẫn thi hành do Chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn thi hành chưa đưa ra khái niệm như thế nào là công việc nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm mà chỉ có các quy định mang tính chất liệt kê các công
việc được coi là nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm: Quyết định số 1453/LĐTBXH-QĐ
ngày 13/10/1995 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban
hành tạm thời danh mục nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Quyết định số 915/LĐTBXH-QĐ ngày 30/7/1996,
Quyết định số 1629/LĐTBXH-QĐ ngày 26/12/1996 , Quyết định số 190/1999/QĐ-
BLĐTBXH ngày 03/3/1999, Quyết định số 1580/2000/QĐ-BLĐTBXH ngày
26/12/2000, Quyết định số 1152/2003/QĐ-BLĐTBXH ngày 18/9/2003 của Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành tạm thời danh mục
nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm.
1.1.3. Pháp luật về trẻ em
Những quy định của pháp luật về trẻ em được ghi nhận trong pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế. Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật chưa có khái
niệm thống nhất về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em. Xét về một cách phổ
quát nhất, sự điều chỉnh pháp luật về trẻ em là một bộ phận của sự điều chỉnh pháp
luật nói chung, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và
đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến trẻ em.
Sự điều chỉnh pháp luật xác định địa vị pháp lý của trẻ em. Địa vị pháp lý
này được hiểu là tổng thể những quyền và nghĩa vụ pháp lý của trẻ em cùng với
những đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ này.

18
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, có đối tượng điều
chỉnh là các nhóm quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trẻ em với tính

cách là một chủ thể pháp luật, các quan hệ xã hội về trẻ em cũng là một trong những
đối tượng điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta.
Pháp luật về trẻ em có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm
quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ thống
pháp luật Việt Nam: Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật Hình
sự, Luật Tố tụng Hình sự, Luật Dân sự, Luật Tố tụng Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng của ngành luật mình. Bất cứ
một ngành luật nào cũng coi trẻ em là một chủ thể đặc biệt và có những quy định
riêng điều chỉnh về LĐTE. Điều này xuất phát trước tiên từ những đặc điểm riêng
về độ tuổi cũng như sự phát triển chưa đầy đủ về tâm sinh lý. Sau nữa, xuất phát từ
những quan niệm, tư tưởng nhân đạo, dân chủ, thấm nhuần nét tinh hoa của văn
hóa, đạo lý truyền thống của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tất cả các quy định
pháp luật đều hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, đảm bảo cho
trẻ em phát triển bình thường trong sự đầy đủ về tình cảm và vật chất, trong một
môi trường trong sạch, lành mạnh.
Trên bình diện quốc tế, quyền trẻ em được quy định trong các điều ước quốc
tế, đặc biệt là trong các công ước quốc tế về LĐTE. Công ước quốc tế là “văn bản
pháp lý quốc tế, do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây
dựng nên, nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa họ với
nhau, thông qua các quy phạm gọi là quy phạm điều ước” [32, 27].
Theo đó, có thể hiểu, công ước quốc tế về LĐTE là văn bản pháp lý quốc tế,
do các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên, nhằm
thỏa thuận về việc thực hiện các chính sách đối với vấn đề LĐTE, đảm bảo các
quyền của trẻ em tại nơi làm việc và các chuẩn mực có liên quan.
Các công ước quốc tế quy định về lĩnh vực LĐTE, ngoài công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em, văn bản quan trọng khác trực tiếp điều chỉnh quan hệ
LĐTE là các Công ước của Tổ chức lao động quốc tế như: Công ước số 138 về

19
Tuổi tối thiểu làm công và Công ước số 182 về Cấm và hành động ngay lập tức để

hạn chế và xóa bỏ hình thức LĐTE tồi tệ nhất.
1.2. Những vấn đề chung về LĐTE
1.2.1. Các hình thức của LĐTE
Trong thực tế, có thể chia LĐTE thành bảy hình thức chính, không hình thức
nào trong số đó là duy nhất cho bất cứ khu vực nào trên thế giới. Đó là việc đi ở, lao
động cưỡng bức và lao động cầm cố, bóc lột tình dục vì mục đích thương mại, lao
động trong công nghiệp đồn điền, lao động trên đường phố, làm việc nhà, và công
việc của trẻ em gái.
* Việc đi ở
Trẻ đi ở là những trẻ em dễ bị lãng quên nhất thế giới. Cảnh ngộ khốn khó
của các em đáng được xem xét trước tiên so với các nhóm trẻ em lao động khác. Trẻ
em đi ở có thể là những trẻ em dễ bị tổn thương nhất và dễ bị bóc lột nhiều nhất,
cũng khó bảo vệ nhất. Các em thường được trả công rất thấp hay hoàn toàn không
được trả công; thời hạn đi ở và điều kiện làm việc hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn
của chủ sử dụng lao động; các quyền hợp pháp của các em không hề được quan
tâm; các em bị tước bỏ sự học hành, vui chơi và hoạt động xã hội, sự hỗ trợ về mặt
tình cảm của gia đình và bạn bè; đặc biệt, các em dễ dàng bị lạm dụng về thể chất
và tình dục khi còn quá nhỏ.
Trẻ em đi ở có thể phải chịu đựng tổn hại nặng nề về mặt phát triển thể chất
và xã hội. Các em thường bị tách khỏi xã hội, bị cấm nghỉ ngơi và vui chơi. Tuổi
thơ của những trẻ em này đã bị tước đoạt, không được như trẻ em khác.
* Lao động cưỡng bức và lao động cầm cố
Nhiều hình thức LĐTE trên thế giới là “cưỡng bức” theo nghĩa trẻ em được
dạy phải chấp nhận những hoàn cảnh của cuộc sống mà không được chống lại.
Nhưng tình trạng của một số trẻ em vượt quá xa việc chấp nhận các hoàn cảnh khốn
khó, chúng rơi vào tình trạng nô lệ thực sự. Ở Nam Á, “cầm cố” LĐTE gần như là

20
quen thuộc. Ở đây trẻ em thường chỉ tám hay chín tuổi, bị cha mẹ cầm cố cho chủ
nhà máy hay các đại lý của họ thay cho những món nợ rất nhỏ.

Dạng nô lệ trẻ em thực tế này thường chỉ gắn liền với Ấn Độ, Nêpan và
Pakistan. Nhưng nó cũng tồn tại ở cả những nơi khác trên thế giới. Để xóa bỏ
LĐTE cưỡng bức, xóa bỏ tình trạng những người trục lợi một cách vô đạo đức từ
thực tế này, các Chính phủ cần tăng những nỗ lực trong các biện pháp hành chính
của mình.
* Bóc lột tình dục vì mục đích thương mại
Có nhiều mối liên hệ trực tiếp giữa việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích
thương mại và các hình thức lao động mang tính bóc lột khác. Những người cho
vay nặng lãi ở nông thôn thường hoạt động như những kẻ dắt trẻ em gái cho các nhà
thổ ở thành thị, khi các gia đình vay tiền để cho con gái họ phải làm việc để trả nợ.
Dù xảy ra như thế nào, hầu như tất cả những trẻ em như vậy đều bị những người
mình tin cậy phản bội và kết cục có thể bị bán đi xa và qua biên giới. Việc cứu trợ
và hồi phục tỏ ra phức tạp cho trẻ em. Các em thường bị buộc tội bởi chính hệ
thống pháp luật đáng lẽ phải bảo vệ mình. Ngay cả khi được trả về nhà, thường là ở
dạng bị trục xuất như những kẻ nhập cư bất hợp pháp, các em có thể gặp phải sự
lảng tránh và chối bỏ của gia đình và cộng đồng và thường ít có khả năng chọn lựa
ngoài việc trở lại nhà chứa hay ra đường phố.
* Công việc trong công nghiệp và đồn điền
Ở khắp mọi nơi trên thế giới đều có tình trạng trẻ em phải lao động trong
điều kiện nguy hiểm. Các ngành công nghiệp có trẻ em tham gia lao động rất đa
dạng, từ ngành công nghiệp chế biến da ở khu vực Naples của Ý đến ngành công
nghiệp sản xuất gạch ở Côlômbia và Pêru, ở đó người ta có thể thâu nạp cả trẻ em
chỉ mới 8 tuổi.
Đôi khi trẻ em được thuê mướn trong những công việc khai thác mỏ có thể
được coi như nguy hiểm cho người lớn ở thế giới công nghiệp - ví dụ trong các mỏ
khai thác kim cương và vàng ở Bờ biển Ngà và Nam Phi, và trong các mỏ than ở

21
Côlômbia. Ở đó trẻ em phải làm việc với trang thiết bị an toàn ở mức tối thiểu nhất
và thường xuyên phải hít thở bụi than.

Số lượng trẻ em bị bóc lột trong các đồn điền nông nghiệp trên toàn thế giới
có thể tương đương với số trẻ tham gia vào ngành công nghiệp - và những mối nguy
hiểm liên quan với công việc của chúng cũng không kém phần khủng khiếp.
* Công việc trên đường phố
Tương phản với trẻ em đi ở, một số trẻ em làm việc ở những chỗ có thể dễ
thấy nhất trên đường phố của các nước đang phát triển. Trẻ em có mặt ở khắp mọi
nơi: chào hàng trong chợ, đi qua đi lại trong làn giao thông dày đặc, rao hàng trên
xe bus và trong nhà ga, trước cửa khách sạn và các trung tâm thương mại. Các em
có mặt trên đường phố với hàng triệu người lớn, nhiều người coi chúng là những kẻ
quấy rầy nếu không phải là kẻ phạm tội hình sự nguy hiểm có tầm vóc nhỏ bé.
Nhưng cũng nhiều trẻ em phải vật lộn với những công việc hợp pháp trên
đường phố vì sự sống của bản thân và của gia đình. Trẻ em làm việc trên đường phố
thường xuất thân từ các khu dân cư ổ chuột và những ngôi nhà chiếm dụng, nơi sự
nghèo nàn và hoàn cảnh gia đình không ổn định, nơi trường học quá chật chội và
thiếu thốn, và nơi không hề tồn tại những chỗ chơi an toàn.
Một điều không tránh khỏi là những trẻ em này trở nên có xu hướng thiên về
tham gia vào các công việc phi pháp như ăn cắp vặt. Nhiều em bị lôi kéo vào thế
giới bất chính và nguy hiểm của các băng đảng tội phạm bảo kê cho việc móc túi,
ăn trộm, buôn lậu, ma tuý và mại dâm.
* Làm việc tại nhà
Trong số tất cả những công việc mà trẻ em làm, phổ biến nhất là lao động
nông nghiệp hay làm việc nhà trong khuôn khổ của bản thân gia đình của trẻ. Đa số
gia đình ở mọi nơi trên thế giới hy vọng con cái họ làm giúp việc nhà, hoặc là nấu
ăn, lấy nước hay đi mua bán lặt vặt, chăm gia súc, chăm sóc em nhỏ hay làm những
việc nặng hơn ngoài đồng. Hình thức công việc này có thể mang lại lợi ích cho trẻ
em. Trẻ em học tập được từ mức độ tham gia hợp lý vào việc nhà, vào các hoạt

22
động phát triển lương thực cho sinh kế và tạo thu nhập. Chúng có thể cảm nhận
được giá trị của mình qua những việc làm trong khuôn khổ gia đình.

Nhưng không phải việc này luôn mang lại lợi ích. Ngược lại, việc nhà có thể
đòi hỏi ở trẻ em quá nhiều, buộc các em phải làm việc quá nhiều giờ làm cho chúng
không đi học được và có thể phải trả giá quá lớn cho sự phát triển của cơ thể.
Những công việc như vậy có thể ngăn cản không cho trẻ em thực hiện các quyền
của mình và phát triển đến mức tối đa.
* Công việc của trẻ em gái
Đa số những nguy hiểm mà trẻ em lao động gặp phải thì trẻ em gái cũng gặp
phải. Tuy nhiên trẻ em gái còn gặp phải những vấn đề của riêng chúng nữa: từ áp
lực tình dục của các ông chủ đến việc không được đi học. Khoảng cách về giới tính
trở thành một cái vòng luẩn quẩn cho các cô gái ở mọi nơi trong thế giới đang phát
triển. Không có khả năng đi học vì địa vị xã hội thấp hay vì trách nhiệm đối với gia
đình, không có được sức mạnh bổ sung và những chân trời rộng lớn hơn mà giáo
dục có thể mang lại. Nếu họ đi tìm việc làm ở ngoài nhà, cơ hội của họ bị hạn chế
vào những công việc đơn giản nhất. Địa vị thấp kém của họ được củng cố và
chuyển tiếp cho thế hệ tiếp theo. Điều này thấy được rõ ràng là các cô gái càng
được học lên cao, họ càng có ít con. Gia đình nghèo càng có nhiều con, sẽ càng có
nhiều trẻ em lao động.
1.2.2. Nguyên nhân của tình trạng LĐTE
Vấn đề LĐTE hiện nay đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến,
thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức và cá nhân các nhà khoa học. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu nhằm ngăn chặn tiến tới xoá bỏ hiện tượng tiêu cực này.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra hiện tượng LĐTE thường phát sinh từ những
yếu tố chủ yếu sau:
 Thứ nhất, xuất phát từ các yếu tố về kinh tế
* Yếu tố kinh tế gắn với các gia đình của trẻ em

23
Trẻ em phải lao động sớm là một hiện thực phổ biến nếu gia đình rơi vào
hoàn cảnh đói nghèo. Vì hoàn cảnh đói nghèo buộc các gia đình phải ưu tiên cho
việc kiếm sống, dẫn tới mọi thành viên trong gia đình, gồm cả trẻ em, đều bị huy

động phải làm việc, phải lao động.
* Yếu tố kinh tế gắn với lợi ích của người sử dụng lao động
Xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận, ở một số quốc gia trên thế giới, người sử
dụng lao động đã triệt để tận dụng những lợi ích kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp từ
việc sử dụng LĐTE. Lợi ích kinh tế trực tiếp thể hiện ở việc họ có thể trả cho trẻ em
những khoản tiền công rẻ mạt, mặc dù công việc các em phải làm có thể ngang
bằng với công việc của người lớn. Mặt khác, thông thường, LĐTE dễ "điều khiển"
hơn lao động đã thành niên, nên việc bắt các em phải làm thêm giờ mà không trả
thêm tiền công cũng thường được các “chủ doanh nghiệp” này áp dụng. Lợi ích
kinh tế gián tiếp thể hiện ở việc trẻ em thường không nhận biết và hiểu rõ các quyền
và lợi ích của mình nên các chủ sử dụng LĐTE thường không phải lo đối phó với
những yêu cầu đòi tăng lương hoặc cải thiện điều kiện làm việc.
* Yếu tố kinh tế xã hội
Tình trạng kém phát triển về kinh tế xã hội của một quốc gia thường đi liền
với đói nghèo, dẫn đến số đông người dân trong quốc gia đó có mức sống thấp kém,
trong khi các chính sách an sinh xã hội của quốc gia không đủ khả năng đáp ứng
nhằm cải thiện đời sống của người dân, và hệ quả tất yếu là LĐTE phát sinh. Theo
một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), ở các quốc gia có thu nhập quốc dân
tính trên đầu người trong một năm (GDP) dưới 500 USD thì tỷ lệ LĐTE chiếm từ
30 đến 60% tổng số trẻ em trong xã hội; ở các quốc gia có GDP từ 501 đến 1.000
USD thì tỷ lệ đó là từ 10 đến 30% [33, 8]. Mặt khác, sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở
một số quốc gia thường dẫn đến việc giảm mức trợ cấp của nhà nước với các dịch
vụ xã hội, từ đó buộc trẻ em phải tham gia các hoạt động kinh tế để đáp ứng các nhu
cầu của bản thân và của gia đình, dẫn đến tỷ lệ LĐTE gia tăng.


24
 Thứ hai, là các yếu tố về xã hội - văn hoá
* Quan niệm lạc hậu về vấn đề LĐTE
Từ trước đến nay, đã và đang tồn tại quan niệm cho rằng, trẻ em cần phải

tham gia làm việc để phát triển về mọi mặt, hoặc để kế tục nghề gia truyền. Vì vậy,
nhiều gia đình hoặc khuyến khích hoặc bắt buộc trẻ em phải tham gia lao động,
thậm chí phải làm cả những công việc nặng nhọc, độc hại mà do nhận thức hạn chế,
họ không biết được điều đó.
* Định kiến giới
Ở một số quốc gia, dân tộc còn tư tưởng phân biệt đối xử về giới như trọng
nam, khinh nữ; đề cao địa vị của người đàn ông, dẫn đến hàng triệu trẻ em gái trên
thế giới phải tham gia lao động từ sớm, với gánh nặng công việc khiến các em
không còn thời gian học tập, vui chơi, giải trí. Ở một số quốc gia, tình trạng thất học
và gánh nặng kinh tế trong gia đình đã khiến các trẻ em gái làm các công việc nặng
nhọc, độc hại với mức tiền lương rẻ mạt trong các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng;
hoặc tồi tệ hơn, bị buộc phải tham gia "nền công nghiệp tình dục".
* Yếu tố việc làm
Yếu tố xã hội này gắn liền với yếu tố kinh tế và tác động đến vấn đề LĐTE.
Một là: tình trạng thiếu việc làm dẫn đến nạn thất nghiệp, khi người cha, người mẹ
hoặc những thành viên lớn tuổi trong gia đình bị thất nghiệp thì lẽ tất nhiên là
nguồn thu nhập trong gia đình bị giảm sút, thậm chí mất hẳn, từ đó buộc trẻ em phải
tham gia vào các hoạt động kinh tế để tự kiếm sống, hoặc nhiều trẻ em còn phải
gánh trách nhiệm trụ cột về kinh tế thay cho bố mẹ mình. Hai là: khi một nền kinh
tế phát triển quá "nóng" (thừa việc làm), có thể dẫn tới tình trạng thiếu lao động đã
thành niên, dẫn đến người sử dụng lao động tuyển mộ cả LĐTE, hoặc khi thiếu lao
động, buộc ngươì sử dụng lao động phải trả tiền lương ở mức cao (điều này họ
không mong muốn) cho những lao động đã thành niên để giữ, thu hút lao động, dẫn
đễn ngươì sử dụng lao động tìm cách thuê/nhập lậu nhân công nước ngoài hoặc thuê
mướn LĐTE để giảm mức chi trả tiền lương hoặc các chi phí khác kèm theo.

25
* Sự yếu kém của nền giáo dục
Một nền giáo dục yếu kém tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến vấn đề
LĐTE. Khi chi phí cho học tập trở thành gánh nặng cho gia đình thì trẻ em có thể bị

buộc phải bỏ học để tham gia các hoạt động kinh tế, hoặc phải kết hợp giữa việc
học tập với các hoạt động kinh tế. Tình trạng bi đát về cơ sở vật chất của ngành giáo
dục (trường lớp thiếu, dột nát hoặc quá xa khu dân sinh ) cũng là một nguyên
nhân dẫn đến việc trẻ em thất học hay bỏ học sớm để làm việc. Theo nhiều nghiên
cứu, việc trẻ em thất học hay bỏ học sớm vì bất kỳ lý do nào cũng thường dẫn tới
tình trạng các em phải tham gia lao động sớm.
* Tác động của hệ thống an sinh xã hội
Ở các quốc gia có hệ thống bảo trợ xã hội rộng khắp và hiệu quả là cơ sở góp
phần ổn định cuộc sống cho nhiều gia đình, từ đó bảo đảm cho con cái họ được học
tập, không phải tham gia các hoạt động kinh tế quá sớm. Ngược lại, ở các quốc gia
có hệ thống bảo trợ xã hội kém hiệu quả thì khi các gia đình gặp khó khăn về kinh
tế sẽ buộc họ phải để con cái lao động sớm, tự kiếm sống hoặc giúp đỡ gia đình.
Tương tự, việc có một chế độ cứu trợ xã hội tốt sẽ giúp nhiều gia đình khắc phục
những tai hoạ, rủi ro đột xuất mà họ gặp phải, từ đó hạn chế việc trẻ em trong các
gia đình đó phải bỏ học để tham gia những hoạt động kinh tế, điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong trường hợp xảy ra chiến tranh, thiên tai, bệnh dịch …
 Thứ ba, là các yếu tố chính trị - pháp lý
Việc không có hoặc cơ chế chính sách liên quan đến vấn đề LĐTE không
hoàn chỉnh, không phù hợp sẽ ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ tới tình trạng LĐTE.
Ví dụ, ở một số quốc gia, do chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao
động trong khu vực không chính thức thì hậu quả của nó là dẫn tới tình trạng LĐTE
ở khu vực này trở thành một vấn đề xã hội bức xúc, bởi các cơ quan chấp pháp chưa
có biện pháp can thiệp. Mặt khác, tuy đã có một hệ thống chính sách pháp luật đầy
đủ, phù hợp nhưng lại không được tổ chức thực hiện hay tổ chức thực hiện kém
hiệu quả thì tình trạng LĐTE gia tăng vẫn có thể xảy ra.

×