Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Pháp luật lao động Việt Nam về thuyền viên làm việc trên các tàu vân tải biển nước ngoài, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 107 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Tống Văn Băng



Pháp luật lao động việt nam về thuyền viên
làm việc trên các tàu vận tảI biển nước ngoài,
thực trạng và giảI pháp

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60



Tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học



Hà nội - 2009
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Như Mai





Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2009.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật



Tống Văn Băng



Pháp luật lao động việt nam về thuyền viên
làm việc trên các tàu vận tảI biển nước ngoài,

thực trạng và giảI pháp

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60



Tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học



Hà nội - 2009
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Như Mai




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2009.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT LAO
ĐỘNG ĐỐI VỚI THUYỀN VIÊN VIỆT NAM LÀM
VIỆC TRÊN TÀU BIỂN NƯỚC NGOÀI
10
1.1.
Khái niệm chung về pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động
là thuyền viên có yếu tố nước ngoài
10
1.1.1.
Quan hệ lao động trong tư pháp quốc tế Việt Nam
10
1.1.2.
Quan hệ lao động trong lĩnh vực hàng hải
14
1.1.3.
Quan hệ lao động của thuyền viên Việt Nam làm việc trên
tàu biển nước ngoài
16
1.2.
Pháp luật lao động Việt Nam đối với thuyền viên làm việc
trên các tàu biển nước ngoài
19
1.2.1.
Cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ lao động đối với thuyền
viên Việt Nam trên tàu biển nước ngoài
19
1.2.1.1.
Đối tượng điều chỉnh
19
1.2.1.2.

Phương pháp điều chỉnh
24
1.2.2.
Nguồn pháp luật điều chỉnh
26
1.2.2.1.
Các điều ước quốc tế
27
1.2.2.2.
Các tập quán lao động hàng hải
33
1.2.2.3.
Các văn bản pháp luật trong nước
34
1.2.2.4.
Quy định của Tổ chức Liên đoàn công nhân vận tải quốc tế
35
1.2.2.5.
Pháp luật lao động thuyền viên của một số quốc gia nước ngoài
36

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT
NAM VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀ THUYỀN VIÊN
VIỆT NAM LÀM VIỆC TRÊN TÀU BIỂN NƯỚC NGOÀI
43
2.1.
Tình hình pháp luật lao động về thuyền viên Việt Nam làm
việc trên tàu biển nước ngoài
43
2.1.1.

Đặc điểm chung
43
2.1.2.
Tính thống nhất trong pháp luật lao động Việt Nam về thuyền
viên làm việc trên tàu biển nước ngoài
45
2.2.
Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về thuyền viên
Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài
47
2.2.1.
Các quy định về đào tạo và huấn luyện thuyền viên
47
2.2.2.
Các quy định về hợp đồng lao động
54
2.2.3.
Các quy định về điều kiện làm việc
56
2.2.4.
Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất
61
2.2.5.
Bảo hiểm và các chế độ an sinh liên quan đến thuyền viên
65
2.2.6.
Công đoàn với việc bảo vệ quyền và lợi ích của thuyền viên
67
2.2.7.
Tranh chấp lao động thuyền viên và cơ chế giải quyết

70

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ THUYỀN
VIÊN LÀM VIỆC TRÊN TÀU BIỂN NƯỚC NGOÀI
76
3.1.
Cơ sở để đưa kiến nghị về việc hoàn thiện quy định pháp luật
về thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài
76
3.1.1.
Tình hình thị trường lao động thuyền viên quốc tế và khả
năng của Việt Nam
76
3.1.2.
Yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật
lao động về thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển
nước ngoài
78
3.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật lao động về thuyền viên
Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài
83
3.2.1
Hoàn thiện pháp luật về lao động về thuyền viên nhằm đáp
ứng tình hình phát triển chung của thị trường thế giới về lao
động trên biển
83
3.2.2.
Hoàn thiện pháp luật lao động về thuyền viên của Việt Nam

nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của thuyền viên
làm việc trên các tàu biển nước ngoài
84
3.3.
Một số nguyên tắc cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật
lao động về thuyền viên
85
3.3.1.
Bảo đảm sự phù hợp giữa các quy phạm pháp luật trong nước
với các quy định của luật hàng hải và tập quán quốc tế về
thuyền viên nói chung và thuyền viên Việt Nam làm việc
trên tàu biển nước ngoài nói riêng
85
3.3.2.
Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ về thuyền viên giữa hệ thống
quy phạm pháp luật lao động với hệ thống quy phạm pháp luật
chuyên ngành hàng hải về lao động thuyền viên; đồng thời bảo
đảm phù hợp với đặc thù của pháp luật về xuất khẩu thuyền viên
86
3.3.3.
Tích cực và chủ động tham gia các công ước quốc tế đa
phương và ký kết các điều ước quốc tế song phương về lao
động hàng hải
87
3.4.
Một số đề xuất cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy
định pháp luật lao động về thuyền viên Việt Nam làm việc
trên các tàu biển nước ngoài
88
3.4.1

Xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật lao động thực chất
trong nước để tạo cơ sở cho thuyền viên Việt Nam khi làm
việc trên tàu biển nước ngoài
88
3.4.2.
Quy định cụ thể cách thức giải quyết vấn đề xung đột pháp
luật để điều chỉnh quan hệ lao động thuyền viên có yếu tố
nước ngoài
91
3.4.3.
Bổ sung phần quy định về quan hệ lao động thuyền viên có
yếu tố nước ngoài
93

KẾT LUẬN
96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BIMCO (The Batic and International
Maritime Council)
Hội đồng Hàng hải Quốc tế và Ban-tích
FOCs (Flag of Convenience)
Cờ thuận tiện (tàu biển)
ILO (International Labour Organization)
Tổ chức Lao động thế giới
IMO (International Maritime Organization)
Tổ chức Hàng hải quốc tế

ISF (International Ship-owners Federation)
Hiệp hội chủ tàu thế giới
ITF (International Transport Worker’s
Federation)
Liên đoàn Công nhân vận tải quốc tế
LNG (Liquefied Natural gas)
Khí tự nhiên hóa lỏng
MARPOL (International Convention for
the Prevention of Pollution from Ships
Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm
từ tàu
SOLAS (International Convention for
the Safety of Life at Sea
Công ước quốc tế về an toàn sinh
mạng trên biển
STCW (International Convention on
Standards of Training, Certification and
Watchkeeping for Seafarers
Công ước quốc tế về tiêu chuẩn huấn
luyện, cấp chứng chỉ và trực ca đối
với thuyền viên
UN (United Nation)
Liên hợp quốc
WTO (World Trade Organization)
Tổ chức Thương mại thế giới


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một trong những quốc gia có diện tích biển so với lãnh
thổ đất liền khá lớn trên thế giới, là quốc gia cửa ngõ cho các hoạt động trung
chuyển vận tải biển quốc tế từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương. Hội
nghị Trung ương 4 khóa X của Đảng đã có Nghị quyết số 09/2007 về chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Chính phủ đã quyết định phê duyệt đề
án "hợp tác quốc tế về biển đến 2020" trong đó nhấn mạnh: cần đẩy mạnh hợp
tác quốc tế trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu thuyền viên, sĩ quan hàng
hải trên cơ sở nghiên cứu thị trường bài bản, dài hạn; xây dựng chương trình
đào tạo và xuất khẩu lao động hàng hải, đồng thời tranh thủ hợp tác với các tổ
chức hàng hải quốc tế để tận dụng sự trợ giúp đào tạo nhân lực cho ngành
hàng hải Việt Nam nói chung.
Việt Nam hiện nay là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), Tổ chức Hàng hải Thế giới
(IMO) cũng như là thành viên của nhiều tổ chức liên chính phủ và phi chính
phủ quan trọng khác. Chính vì vậy, trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, những
yếu tố đó là những điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước
nói chung và ngành hàng hải quốc gia nói riêng. Việt Nam cũng được biết đến
với nguồn nhân lực khá dồi dào để đi lao động ở nước ngoài, mặc dù hiện tại
chủ yếu là xuất khẩu lao động giản đơn, chưa có nhiều tính cạnh tranh nên giá
trị hợp đồng cho từng cá nhân là không cao.
Xuất khẩu thuyền viên là một trong những loại hình xuất khẩu lao
động đã và đang mang lại nguồn ngoại tệ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
trong thời gian qua và trong tương lai, là một trong những lĩnh vực có nhiều
tiềm năng phát triển. Thuyền viên của Việt Nam cơ bản có trình độ chuyên
môn tốt, thông minh, dễ hòa đồng trong những thuyền bộ đa quốc tịch, không
có những trở ngại về tôn giáo, do đó có thể cạnh tranh được về tiền lương với

2
các quốc gia có cùng trình độ như Philippin, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ.
Thuyền viên nói chung là loại lao động có trình độ chuyên môn nên nguồn

ngoại tệ thu được từ tiền lương mang về nhiều hơn các loại hình xuất khẩu lao
động thông thường. Đặc biệt, lực lượng lao động này sau khi về nước với kiến
thức cập nhật được trong quá trình làm việc trên các tàu nước ngoài khá hiện
đại nên có thể phục vụ tốt cho sự phát triển của ngành hàng hải, cũng như góp
phần xây dựng nền kinh tế biển đầy tiềm năng của Việt Nam.
Thực tế hiện nay cho thấy, khi làm việc trên tàu biển nước ngoài, do
thuyền viên phải làm việc trong điều kiện, môi trường khác so với chế độ làm
việc trên tàu biển Việt Nam nên việc quản lý, giám sát, hỗ trợ, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan chức năng của Việt Nam đối với
thuyền viên gặp nhiều khó khăn. Nhìn từ góc độ pháp luật, thuyền viên Việt
Nam làm việc trên tàu biển của nhiều quốc gia khác, do đó có nhiều hệ thống
pháp luật cùng điều chỉnh nên xung đột pháp luật trong quan hệ pháp luật là
lao động thuyền viên là điều không tránh khỏi. Thuyền viên có thể cùng một
lúc phải chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật như: hệ thống pháp
luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, và pháp luật của nước mà
tàu mang cờ, pháp luật của nước mà thuyền viên mang quốc tịch, pháp luật
của nước có cảng mà tàu đến hoạt động. Bên cạnh đó, thuyền viên làm việc
trên tàu biển còn phải chịu sự điều chỉnh của các điều ước quốc tế về chế độ
làm việc đảm bảo an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường biển; các quy định
của chủ tàu hay các công ty thuê tàu về điều kiện làm việc, nội quy làm việc
nhằm khai thác con tàu có hiệu quả kinh tế. Chính vì vậy, thuyền viên phải
đối mặt với nhiều nguy cơ như bị lạm dụng sức lao động, bị các tai nạn lao
động do các điều kiện làm việc không đảm bảo tiêu chuẩn chung, bị người sử
dụng lao động đối xử về chế độ tiền lương và các điều kiện sinh hoạt không
bảo đảm theo các yêu cầu của luật pháp quốc tế, cũng như các khó khăn khi
hệ thống pháp luật của quốc gia mà thuyền viên mang quốc tịch chưa đủ
mạnh để bảo vệ họ trước khi ký hợp đồng lao động.

3
Trong những năm qua, số lượng thuyền viên Việt Nam được các chủ

tàu nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia Bắc Âu như
Pháp, Hà Lan, Na Uy thuê để làm việc trên các tàu biển của họ ngày càng
nhiều, đã mở ra lĩnh vực xuất khẩu lao động đặc thù mang lại nguồn thu ngoại
tệ lớn cho đất nước; trình độ chuyên môn và ý thức lao động của thuyền viên
Việt Nam trong lĩnh vực này ngày càng được khẳng định trên thị trường lao
động thuyền viên thế giới. Số lượng thuyền viên Việt Nam đi làm việc trên
các tàu biển nói chung ngày càng nhiều. Trong khoảng 10 năm gần đây, Việt
Nam đã đưa được 1,6 triệu lượt sĩ quan, thuyền viên tàu vận tải và thủy thủ
đánh cá đi làm việc trên các tàu biển nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam có
khoảng 30.000 thuyền viên đang làm việc trên các tàu vận tải biển và đánh cá
của Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Đài Loan và tàu của một số quốc gia khác.
Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển là rất
lớn mà số lượng thuyền viên xuất khẩu hiện nay của Việt Nam chưa có khả
năng đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, mà một trong những nguyên nhân
cơ bản là chúng ta chưa có các chính sách, chiến lược cụ thể nhằm khuyến
khích xuất khẩu thuyền viên cũng như hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phù
hợp để định hướng và điều chỉnh quan hệ lao động phát sinh trong lĩnh vực
hàng hải này [26. tr. 70].
2. Hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến đề tài
Hệ thống pháp luật lao động thuyền viên Việt Nam làm việc trên các
tàu biển nước ngoài được quy định trong pháp luật lao động, pháp luật chuyên
ngành và các điều ước quốc tế hàng hải mà Việt Nam là thành viên. Pháp luật
lao động gồm: Bộ luật Lao động năm 2007 và các văn bản dưới luật hướng
dẫn thi hành, Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
năm 2006; pháp luật Hàng hải chuyên ngành gồm có: Bộ luật Hàng hải năm
2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Quyết định số 47/2005/BGTVT
ngày 23/9/2005 của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải quy định điều kiện
thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài và thuyền viên nước

4

ngoài làm việc trên các tàu biển Việt Nam; các điều ước quốc tế của IMO,
ILO mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có
một văn bản pháp luật nào được xây dựng riêng cho công tác xuất khẩu
thuyền viên để tạo hành lang pháp lý cho việc đưa thuyền viên Việt Nam nói
chung đi làm việc trên tàu biển nước ngoài, cũng như bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của họ phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là
các thuyền viên làm việc trên các tàu biển nước ngoài treo cờ thuận tiện,
thuyền viên làm việc với điều kiện và mức lương thấp hơn so với các tiêu
chuẩn đã được Liên đoàn Công nhân vận tải quốc tế khuyến nghị.
Với thực trạng đó, khi nghiên cứu "pháp luật lao động Việt Nam về
thuyền viên làm việc trên các tàu biển nước ngoài", luận văn sẽ tập trung đánh
giá tổng quát pháp luật về lao động của Việt Nam về thuyền viên làm việc trên
tàu biển nước ngoài, trong đó tập trung phân tích các mặt đã đạt được và những
mặt còn hạn chế về hệ thống quy phạm pháp luật lao động về thuyền viên, trên
cơ sở đó đề xuất hoàn thiện chính sách cũng như pháp luật của Nhà nước về chế
độ lao động, quyền và nghĩa vụ của thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển
nước ngoài như điều kiện về đào tạo huấn luyện, về tuyển dụng, các điều kiện
làm việc, tiền lương, bảo hiểm, bảo vệ sức khỏe, chăm sóc y tế, đảm bảo về tinh
thần cũng như bảo vệ an ninh xã hội đối với thuyền viên nói chung và thuyền
viên làm việc trên các tàu vận tải biển nước ngoài nói riêng nhằm khuyến
khích và tăng cường xuất khẩu thuyền viên Việt Nam trong thời gian tới
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Pháp luật lao động là một trong những lĩnh vực pháp luật có phạm vi
điều chỉnh rộng, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật quốc gia và các
quy phạm pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên, điều chỉnh quan hệ
lao động và các quan hệ liên quan đến lao động giữa người lao động với
người sử dụng lao động.

5

Đối với quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài (người lao động làm
việc ở địa điểm ở nước ngoài) thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế
Việt Nam, chính vì vậy, thuyền viên Việt Nam khi làm việc trên các tàu biển
mang quốc tịch nước ngoài cũng là đối tượng điều chỉnh của ngành luật này.
Tàu biển, theo quy định chung bao gồm tàu vận tải thương mại, tàu
công vụ mang quốc tịch Việt Nam hoặc cờ quốc tịch nước ngoài, tổ chức
quốc tế (liên Chính phủ). Thuyền viên là những người làm việc trên tàu biển
bao gồm thuyền trưởng, sĩ quan và những người phục vụ khác. Tuy nhiên, với
mục tiêu nghiên cứu chuyên ngành nhỏ, nên đề tài chưa thể đề cập tới đối
tượng thuyền viên Việt Nam làm việc tàu công vụ nước ngoài, tàu nghiên cứu
khoa học nước ngoài và thuyền viên nước ngoài làm việc trên tàu biển Việt
Nam mà đề tài chỉ đề cập tới các quy định của pháp luật lao động Việt Nam
về thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu vận tải biển (sau đây gọi là tàu
biển) mang cờ quốc tịch nước ngoài.
Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thuyền
viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam, luận văn còn tiến hành phân tích những ưu điểm và hạn chế
của pháp luật Việt Nam hiện hành về lao động thuyền viên. Thông qua đó,
hướng tới việc đề xuất một số ý kiến đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn cho
việc hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với những mục tiêu đó, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật lao động Việt
Nam về thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu vận tải biển nước ngoài.
- Nghiên cứu và so sánh các quy định trong pháp luật Việt Nam với
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia khác về
thuyền viên làm việc trên các tàu biển nước ngoài.

6
- Rút ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng pháp luật lao động

Việt Nam về thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển nước ngoài.
- Đề xuất các kiến nghị và giải pháp hướng tới việc hoàn thiện pháp
luật lao động về thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển nước ngoài
nhằm khuyến khích và tăng cường xuất khẩu thuyền viên, góp phần phát triển
nền kinh tế biển của nước ta trong thời gian tới.
Nói tóm lại, đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật lao
động Việt Nam điều chỉnh quan hệ lao động là thuyền viên làm việc trên tàu
biển nước ngoài, so sánh với quy định của pháp luật quốc tế và một số nước
như Anh, Nhật Bản, Philippin, đồng thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị
nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho thuyền viên Việt Nam lao động trên tàu biển nước ngoài, góp
phần thúc đẩy công tác xuất khẩu thuyền viên Việt Nam trong thời gian tới.
4. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam và ý nghĩa lý luận của đề tài
4.1. Tình hình nghiên cứu nội dung này ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam, qua khảo sát các nguồn tài liệu hiện có, cũng
như ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực quản lý thuyền viên, một số
sĩ quan thuyền viên thì cho tới nay, số lượng các tài liệu hay công trình nghiên
cứu khoa học cũng như các bài viết về pháp luật lao động Việt Nam về thuyền
viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển nước ngoài còn rất hạn chế và chủ
yếu đề cập tới khía cạnh kinh tế mà chưa đề cập nhiều ở khía cạnh pháp lý,
hoặc đã có một số đề tài luận văn thạc sĩ và tiến sĩ nghiên cứu về lao động nói
chung hay lao động trong tư pháp quốc tế nhưng đề cập chủ yếu tới quan hệ
pháp luật về người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nói chung như Luận án
tiến sĩ Luật học của Nguyễn Hữu Chí năm 2002, Hợp đồng lao động trong cơ
chế thị trường ở Việt Nam; Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn Công Khanh
năm 2003, Cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh một số quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài ở nước ta hiện nay; Luận văn thạc sĩ chuyên ngành

7
An toàn hàng hải của Nguyễn Mạnh Cường năm 1999, Biện pháp nâng cao

hiệu quả công tác xuất khẩu thuyền viên Việt Nam; Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành An toàn hàng hải của Phạm Viết Cường năm 2003, Giải pháp nâng cao
hiệu quả của xuất khẩu thuyền viên Việt Nam đến năm 2010. Đã có một số
nghiên cứu riêng lẻ về lao động thuyền viên như cơ chế, chính sách về xuất
khẩu thuyền viên, công tác quản lý, công tác đào tạo huấn luyện và dừng lại ở
các ý kiến trong hội thảo, trong các bài viết ở các báo, tạp chí chuyên ngành
hàng hải như: Mai Văn Khang, Phát huy nguồn lực lao động thuyền viên của
ngành hàng hải Việt Nam đăng trên Tạp chí Hàng hải, tháng 7 năm 2007;
Hoàng Minh Bình, Xuất khẩu thuyền viên - cơ hội và thách thức đăng trên Tạp
chí Hàng hải, số tháng 3 năm 2008; Ngô Lực Tải, Tăng cường công tác xuất
khẩu thuyền viên đăng trên Tạp chí Biển và Bờ, tháng 4 năm 2008; Hội thảo
phát triển bền vững nguồn nhân lực hàng hải năm 2008 do Hiệp hội chủ tàu,
Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam và Trường Đại học Hàng hải phối hợp tổ chức.
4.2. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu trên, có thể khẳng định cho tới nay,
gần như chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống và
đầy đủ về pháp luật lao động Việt Nam về thuyền viên Việt Nam làm việc trên
các tàu biển nước ngoài. Trên cơ sở đó, đề tài đi sâu vào nghiên cứu một cách có
hệ thống, đầy đủ và toàn diện về pháp luật lao động Việt Nam điều chỉnh quan
hệ lao động giữa thuyền viên Việt Nam với chủ tàu nước ngoài khi làm việc
trên các tàu biển mang quốc tịch nước ngoài, từ đó đưa ra một số kiến nghị
cho việc góp phần hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về vấn đề lao động
trong tư pháp quốc tế Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển hướng ra
biển của Đảng và Nhà nước định hướng đến năm 2020 và các năm tiếp theo.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với tính chất là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, luận văn
dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

8
Hồ Chí Minh. Đó là: các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh,

điều tra xã hội học. Cụ thể là xem xét và nghiên cứu phạm vi và đối tượng của
đề tài trên cơ sở thực tiễn kinh tế, chính trị và luật pháp của Việt Nam liên
quan đến lao động là thuyền viên, đồng thời so sánh với các quy định của
pháp luật quốc tế và một số quốc gia tiêu biểu trong khu vực và trên thế giới
về thuyền viên; đánh giá các chế định pháp luật lao động chung với đặc điểm
đặc thù của thuyền viên lao động trên các tàu biển nước ngoài, đồng thời xác
định tính phù hợp trong các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này nhằm
hướng tới việc hoàn thiện các quy định pháp luật lao động Việt Nam về
thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển nước ngoài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, những đóng góp mới của luận văn
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế trong đó, sự phát triển của thương
mại quốc tế nói chung và vận tải biển quốc tế nói riêng sẽ tiếp tục tạo điều
kiện cho công tác xuất khẩu thuyền viên của Việt Nam ngày càng mở rộng và
cũng là một trong những động lực thúc đẩy lĩnh vực kinh tế biển của Việt
Nam phát triển. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng một hệ thống
pháp luật đầy đủ, thống nhất và phù hợp về người lao động là thuyền viên làm
việc trên tàu biển nước ngoài, đồng thời là cơ sở cho việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của thuyền viên theo quy định của pháp luật Việt Nam và quốc tế.
Luận văn có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Luận văn đi sâu nghiên cứu và phân tích những vấn đề lý luận
và thực tiễn về pháp luật lao động của Việt Nam điều chỉnh quan hệ lao động
giữa thuyền viên Việt Nam với người sử dụng lao động nước ngoài; giữa thuyền
viên Việt Nam với tổ chức cung ứng lao động Việt Nam cho chủ tàu nước ngoài
(trên cơ sở hợp đồng cung ứng lao động với chủ tàu nước ngoài); quan hệ giữa
thuyền viên Việt Nam với chủ tàu Việt Nam khi tàu biển được mang quốc tịch
nước ngoài, từ đó nêu lên những hạn chế và bất cập trong những quy định pháp
luật về vấn đề này trong tư pháp quốc tế Việt Nam về lao động.

9
Thứ hai: Luận văn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp trong việc

hoàn thiện pháp luật về lao động đối với thuyền viên Việt Nam làm việc trên
tàu biển nước ngoài nhằm đáp ứng đòi hỏi thực tế về điều chỉnh của pháp luật
lao động Việt Nam đối với hoạt động này trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật lao động đối với thuyền
viên Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài.
Chương 2: Các quy định của pháp luật lao động Việt Nam về người
lao động là thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển nước ngoài.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật lao
động Việt Nam về thuyền viên làm việc trên tàu biển nước ngoài.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
ĐỐI VỚI THUYỀN VIÊN VIỆT NAM LÀM VIỆC
TRÊN TÀU BIỂN NƢỚC NGOÀI

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LAO
ĐỘNG LÀ THUYỀN VIÊN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Quan hệ lao động trong tƣ pháp quốc tế Việt Nam
Pháp luật lao động chung ra đời nhằm mục đích chủ yếu là bảo vệ
người lao động, bởi vì người lao động là người yếu thế và luôn ở trong tình
thế bị lợi dụng, bị bóc lột hay đối xử không công bằng. Các chế định pháp
luật lao động được đặt ra để điều chỉnh quan hệ lao động giữa người sử dụng
lao động với người lao động như quy định về đào tạo và huấn luyện, an toàn
lao động, tiền lương tiền thưởng, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, trách
nhiệm vật chất… Quan hệ lao động nói chung được hình thành tất yếu trong

đời sống xã hội, là quan hệ được hình thành giữa con người với con người
trong lao động nhằm tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ chính bản
thân và xã hội, chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu [23, tr. 8]. Xu thế toàn cầu
hóa hiện nay đã tạo ra cho các chủ thể cơ hội phát triển, nhưng bên cạnh đó
cũng đan xen những vấn đề phức tạp và đa dạng, kể cả quan hệ lao động. Việc
đảm bảo cho các quan hệ đó thực sự bình đẳng và tự do cạnh tranh lành mạnh
đòi hỏi các quốc gia cần thiết phải điều chỉnh pháp luật của quốc gia mình
theo hướng thống nhất với các quy tắc quốc tế để đạt được những chuẩn mực
nhất định phù hợp với các quyền tự do, bình đẳng của con người nói chung,
thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
Trong tư pháp quốc tế của các quốc gia trên thế giới, vấn đề lao động
có yếu tố nước ngoài được quy định một cách cụ thể hoặc quy định có tính

11
chất nguyên tắc nhằm xác định quyền và nghĩa vụ lao động của người nước
ngoài tại nước sở tại (bao gồm lao động có trình độ chuyên môn, lao động
phổ thông và được gọi chung là lao động trên bờ), theo đó quyền và nghĩa vụ
của người lao động nước ngoài thông thường chịu sự chi phối bởi luật nơi
người lao động làm việc (Lex Loci Laboris), hoặc luật lựa chọn (luật điều
chỉnh quan hệ lao động do các bên thỏa thuận khi xác lập hợp đồng lao động -
Lex Voluntatis) [23, tr. 294].
Tư pháp quốc tế Việt Nam điều chỉnh quan hệ lao động có yếu tố
nước ngoài bao gồm: người nước ngoài lao động ở Việt Nam; người Việt
Nam lao động ở nước ngoài và người Việt Nam làm việc cho tổ chức quốc tế
ở Việt Nam. Các quan hệ lao động này chịu sự điều chỉnh của các điều ước
quốc tế song phương và đa phương, các tập quán quốc tế về lao động, hàng
hải và pháp luật của quốc gia nơi thực hiện hợp đồng lao động và/hoặc luật
theo quốc tịch của người lao động.
Đối với lao động đặc thù, trong đó có lao động trên biển có yếu tố nước
ngoài, thì luật lao động nói chung và tư pháp quốc tế Việt Nam nói riêng phải có

những quy định nhằm đáp ứng được các yêu cầu riêng biệt như tính quốc tế hóa
về tiêu chuẩn an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường biển, tính chất lao động
nguy hiểm, nặng nhọc… như quy định thuyền viên trước khi làm việc trên tàu
phải được đào tạo cơ bản theo chuẩn quốc tế; phải có sức khỏe và tinh thần chịu
đựng được môi trường làm việc trên biển chứa đựng nhiều khó khăn (như do
thời tiết, do các hiểm họa của biển); có hiểu biết về các hệ thống pháp luật liên
quan đến lao động thuyền viên (như khi tàu ở trong cảng nước ngoài, thuyền
viên có thể chịu sự điều chỉnh của luật quốc tịch, luật quốc gia mà tàu mang cờ,
luật của quốc gia có cảng, luật quốc tế về lao động và thuyền viên); các quy
định tiêu chuẩn về an toàn hàng hải của các công ước quốc tế liên quan.
Để điều chỉnh quan hệ lao động là thuyền viên Việt Nam làm việc trên
các tàu biển nước ngoài, xuất phát từ tính đa dạng trong quan hệ này là nhiều
pháp luật có thể được áp dụng như luật nhân thân của người lao động, luật nơi

12
thực hiện hành vi lao động, luật mà phương tiện vận tải mang quốc tịch, nên
tư pháp quốc tế Việt Nam đưa ra hướng chọn luật áp dụng khi có hai hay
nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ lao động này như sau:
- Xác định luật áp dụng theo luật của quốc gia mà tàu mang cờ
(nguyên tắc Lex Loci Laboris): Theo quy định của Bộ luật Hàng hải, (khoản 1
Điều 3) khi có có xung đột pháp luật liên quan đến hợp đồng thuê thuyền
viên… thì áp dụng pháp luật của quốc gia mà tàu mang cờ. Về mặt lý luận và
thực tiễn, hầu hết các nước trên thế giới áp dụng luật của nước mà phương
tiện vận tải mang cờ. Theo đó, quyền và nghĩa vụ của thuyền viên Việt Nam
sẽ được pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang cờ điều chỉnh. Như vậy,
có thể hiểu hợp đồng lao động ở đây được tuân thủ về hình thức và nội dung
pháp luật của quốc gia mà tàu mang cờ.
- Xác định luật áp dụng là luật lựa chọn (Lex Voluntais): Quyền và
nghĩa vụ của thuyền viên làm việc trên tàu biển nước ngoài có thể được áp
dụng là luật lựa chọn của các bên và được thể hiện trong hợp đồng nếu pháp

luật của một hai bên đều cho phép. Trong trường hợp này, các bên có thể thoả
thuận luật của bất cứ nước nào để đem áp dụng trong quan hệ hợp đồng lao
động. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận áp dụng khi xác lập hợp đồng
thì luật nơi thực hiện hợp đồng (luật mà tàu mang quốc tịch) sẽ được ưu tiên
áp dụng. Khoản 2 Điều 4 Bộ luật Hàng hải năm 2005 quy định:
Các bên tham gia hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng
hải mà trong đó có ít nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài thì có quyền thỏa thuận áp dụng luật nước ngoài hoặc tập
quán hàng hải quốc tế trong quan hệ hợp đồng và chọn Trọng tài,
Tòa án ở một trong hai nước hoặc ở một nước thứ ba để giải quyết
tranh chấp [16].
Như vậy, pháp luật về lao động đối với thuyền viên Việt Nam làm
việc trên tàu biển nước ngoài trước hết được xác định theo nguyên tắc luật nơi

13
diễn ra hoạt động lao động (tàu biển được coi là lãnh thổ nổi của quốc gia mà
tàu mang quốc tịch), hoặc được các bên lựa chọn với sự cho phép của luật
pháp của các bên liên quan và phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
Để giải quyết vấn đề xung đột pháp luật trong lao động thuyền viên,
Việt Nam và quốc gia liên quan có thể tham gia các điều ước quốc tế được
thừa nhận chung hoặc ký kết các hiệp định song phương về hàng hải, lao
động. Các quy phạm nằm trong các điều ước quốc tế về lao động được áp
dụng cho các thuyền viên mang quốc tịch Việt Nam khi làm việc trên các tàu
biển mang cờ quốc tịch của các quốc gia thành viên khác. Về nguyên tắc, các
điều ước quốc tế song phương và đa phương đều áp dụng chế độ đãi ngộ đối
với công dân của các quốc gia là như nhau. Đối với thuyền viên Việt Nam khi
làm việc trên các tàu biển mang cờ quốc tịch quốc gia thành viên khác nhưng
có những vấn đề nảy sinh mà điều ước quốc tế không đề cập đến thì nguyên
tắc luật nơi người lao động làm việc sẽ được áp dụng giải quyết.
Quy phạm xung đột của Việt Nam quy định pháp luật lao động của

quốc gia mà tàu mang cờ quốc tịch được áp dụng đối với thuyền viên làm
việc trên tàu biển của quốc gia đó, nhưng vấn đề đặt ra là chủ thể nào, người
sử dụng lao động hay người lao động, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thụ
lý tranh chấp có nghĩa vụ tìm hiểu nội dung pháp luật của nước đó? Cũng có
thể, khi Việt Nam quy định luật lao động áp dụng đối với thuyền viên Việt
Nam là quốc gia mà tàu mang cờ quốc tịch, nhưng pháp luật nước ngoài có
thể không phải là pháp luật thực sự giải quyết vấn đề này, bởi vì có thể pháp
luật nước ngoài này từ chối thẩm quyền giải quyết và dẫn chiếu ngược trở lại
pháp luật Việt Nam (luật nhân thân của thuyền viên), hoặc dẫn chiếu đến
pháp luật của nước thứ ba khác, hoặc việc áp dụng pháp luật nước ngoài có
thể trái với những nguyên tắc cơ bản hay vi phạm trật tự công cộng theo quy
định của pháp luật Việt Nam [24, tr. 124].
Vấn đề lẩn tránh pháp luật (fraus legi facta) cũng được tư pháp quốc tế
Việt Nam đề cập đến, coi đó là hành vi vi phạm và bị nghiêm cấm. Hành vi

14
lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự dùng thủ đoạn, biện pháp nhất
định để thoát khỏi hệ thống pháp luật lẽ ra phải được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ của họ, như đã dùng các biện pháp và thủ đoạn di chuyển trụ sở, thay
đổi quốc tịch… để sang quốc gia khác có lợi hơn cho mình [24, tr. 68]. Trong
lĩnh vực hàng hải hiện nay, để thuận tiện cho giao thông hàng hải, nhiều chủ
tàu ở các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hà Lan đã đăng ký
tàu biển mang quốc tịch của một số quốc gia có phí quản lý thấp, công tác
đăng kiểm trang thiết bị kỹ thuật theo tiêu chuẩn tối thiểu, chế độ lao động,
điều kiện làm việc và tiền lương thấp hơn mức tối thiểu… (tàu biển mang
quốc tịch của các quốc gia như Panama, Nigeria, Liberia, Mông Cổ… thường
được gọi là tàu biển mang cờ thuận tiện - Flag of Convenience, FOCs). Tư
pháp quốc tế Việt Nam quy định chủ yếu quan hệ lao động là thuyền viên làm
việc trên các tàu biển nước ngoài được xác định theo luật của quốc gia mà tàu
mang cờ, tuy nhiên tư pháp quốc tế Việt Nam cũng quy định các bên tham gia

hợp đồng lao động có thể lựa chọn luật lao động theo luật của quốc gia mà
chủ tàu mang quốc tịch, luật nơi cư trú của thuyền viên hoặc luật của quốc gia
thứ ba khác phù hợp với quyền và lợi ích của các bên.
1.1.2. Quan hệ lao động trong lĩnh vực hàng hải
Pháp luật chuyên ngành hàng hải điều chỉnh rất nhiều quan hệ phát
sinh trong quá trình vận tải biển như các hoạt động liên quan đến khai thác tàu
biển, hàng hải thương mại, thuyền viên, cảng biển, dịch vụ hàng hải, an toàn
và an ninh hàng hải, bảo vệ môi trường biển… [27, tr. 14]. Do tính quốc tế
cao trong lĩnh vực hàng hải nên bên cạnh việc phải thực hiện các quy định của
luật quốc gia, các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này cũng chịu sự điều
chỉnh của các điều ước quốc tế, tập quán hàng hải quốc tế (kể cả là thành viên
hay không là thành viên của điều ước quốc tế hay tập quán hàng hải đó), pháp
luật của quốc gia có cảng, pháp luật quốc gia mà tàu mang cờ.
Lao động thuyền viên trên tàu biển là một trong những đối tượng quan
trọng và liên quan đến hầu hết đến các hoạt động trong lĩnh vực hàng hải, liên

15
quan đến nhiều quyền lợi (như chủ tàu, chủ hàng, người bảo hiểm, quốc gia
có cảng), mặt khác họ phải làm việc trong môi trường chứa đựng nhiều rủi ro
ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và tính mạng nên được Tổ chức Lao động
thế giới, Tổ chức hàng hải thế giới, các quốc gia mà thuyền viên mang quốc
tịch và các chủ tàu quan tâm đến điều kiện làm việc, chế độ tiền lương và chế
độ an sinh, nhất là đối với các thuyền viên làm việc trên các tàu biển nước
ngoài. Bằng hệ thống các quy phạm pháp luật, các chủ thể quản lý thuyền
viên thường quy định chế độ tối thiểu về điều kiện làm việc, lương, bảo
hiểm… nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho thuyền viên.
Thuyền viên Việt Nam khi làm việc trên tàu biển nước ngoài, thông thường
tuân thủ theo hợp đồng lao động được ký kết giữa thuyền viên với người sử
dụng lao động nước ngoài hoặc khi tàu biển mang quốc tịch nước ngoài. Trong
quan hệ này, thuyền viên Việt Nam khi làm việc trên tàu biển nước ngoài theo

hợp đồng được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ theo quy định của
hợp đồng lao động đã ký với người sử dụng lao động nước ngoài hoặc quy định
của quốc gia có tàu biển mà người lao động làm việc và các điều ước quốc tế
mà quốc gia này là thành viên hoặc quy định của pháp luật Việt Nam, trong đó
người lao động được quyền thỏa thuận một số điều khoản như các chế độ về
tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, phí môi giới… nhưng không được quyền thỏa
thuận về mức tiền lương dưới mức tối thiểu hay về an toàn lao động, vệ sinh
lao động, chế độ bảo hiểm theo quy định của luật quốc tế, tập quán hàng hải và
pháp luật của Việt Nam. Trong xu thế hội nhập và phát triển toàn diện của các
quốc gia trên thế giới, vấn đề lao động có yếu tố nước ngoài nói chung được
hình thành và phát triển do nhu cầu tự nhiên của các loại hình lao động với
những lợi thế so sánh về trình độ chuyên môn, điều kiện làm việc, tiền lương và
các chế độ phúc lợi xã hội khác, nên dẫn tới quan hệ lao động được hình thành
giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau, hoặc nơi làm việc khác với quốc gia
mà người lao động mang quốc tịch. Do đó đã hình thành nên sự giao thoa, đan
xen trong việc điều chỉnh quan hệ pháp luật lao động có yếu tố nước ngoài.

16
1.1.3. Quan hệ lao động của thuyền viên Việt Nam làm việc trên
tàu biển nƣớc ngoài
Thuyền viên là những người làm việc trên tàu biển bao gồm thuyền
trưởng, các sĩ quan và các chức danh khác (Điều 45, Bộ luật Hàng hải năm
2005) [16]. Thuyền viên làm việc trên tàu biển phải có đủ tiêu chuẩn về độ
tuổi tối thiểu, sức khỏe, chứng chỉ chuyên môn hàng hải theo quy định của
pháp luật.
Quan hệ lao động giữa thuyền viên Việt Nam với người sử dụng lao
động (chủ tàu nước ngoài, chủ tàu Việt Nam) để làm việc trên tàu biển nước
ngoài có thể gồm một trong các yếu tố sau:
- Yếu tố chủ thể quan hệ lao động: Một bên trong quan hệ lao động là
người nước ngoài. Đây là đặc điểm mang tính phổ biến và dễ nhận biết hơn cả.

Người sử dụng lao động là người nước ngoài (chủ tàu hoặc người khai
thác tàu) thuê thuyền viên Việt Nam làm việc trên các tàu biển mang quốc
tịch nước ngoài thông qua hợp đồng trực tiếp với thuyền viên Việt Nam hoặc
thông qua tổ chức cung ứng thuyền viên của Việt Nam.
Trong trường hợp chủ tàu nước ngoài thuê thuyền viên Việt Nam
thông qua tổ chức cung ứng thuyền viên của Việt Nam thì trước đó hai bên đã
ký kết những hợp đồng xác định các nguyên tắc về việc cung ứng thuyền viên
(có thể là một số chức danh trên tàu biển, có thể là cả thuyền bộ, có thể là
nhiều thuyền bộ), sau đó khi thuyền viên lên tàu biển chính thức mới ký với
chủ tàu nước ngoài một hợp đồng thuyền viên. Về cơ bản hợp đồng này chủ
yếu cụ thể hóa nội dung công việc phải làm, tiền lương và một số quyền và
nghĩa vụ cụ thể của thuyền viên đó. Các điều khoản khác như về tranh chấp
được được giao cho bên cung ứng lao động thuyền viên Việt Nam thực hiện.
Một vấn đề đặt ra là trong trường hợp người sử dụng lao động là
người nước ngoài thuê thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển mang
quốc tịch Việt Nam (tàu biển đó được đăng ký tại Việt Nam hoặc do người sử

17
dụng lao động thuê tàu trần của Việt Nam để khai thác). Pháp luật lao động
Việt Nam chỉ mới quy định: thuyền viên Việt Nam làm việc trên tàu biển Việt
Nam được áp dụng chế độ lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam
nhưng cụ thể trong trường hợp này còn có sự chi phối về chế độ lao động do
người sử dụng lao động đặt ra.
- Yếu tố địa điểm làm việc: Ở đây, địa điểm làm việc của thuyền viên
là trên tàu biển, do đó tàu biển hiểu theo quy định của pháp luật Việt Nam
(được ghi nhận cụ thể tại Điều 11 Bộ luật Hàng hải năm 2005), là tàu hoặc
cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng để hoạt động trên biển. Tàu buôn là
các tàu biển chuyên dùng để vận chuyển hàng hóa, hành khách và hành lý,
thăm dò- khai thác - chế biến tài nguyên biển, lai dắt, cứu hộ trên biển, trục
vớt tài sản chìm đắm và thực hiện các mục đích kinh tế khác. Tàu công vụ của

nhà nước là tàu biển chuyên dùng để thực hiện các hoạt động đảm bảo hàng
hải, khí tượng - thủy văn, thông tin - liên lạc, thanh tra, hải quan, phòng dịch,
chữa cháy, hoa tiêu, huấn luyện, bảo vệ môi trường hoặc tìm kiếm cứu nạn
trên biển [8, tr. 42].
Để đưa một con tàu vào khai thác theo mục đích của chủ tàu thì tàu đó
phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu về tình trạng kỹ thuật và thủ tục pháp lý
nhằm đảm bảo tàu biển luôn chịu sự điều chỉnh của một quốc gia nhất định về
an toàn hàng hải, lao động, bảo vệ môi trường biển và các lĩnh vực khác liên
quan. Tàu biển chỉ được hoạt động dưới cờ của một quốc gia hoặc treo cờ của
Liên hợp quốc kể từ thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của quốc
gia hoặc Liên hợp quốc và chấm dứt theo quy định. Mọi quốc gia đều thi hành
thực sự quyền tài phán và kiểm soát trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật
và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình (Điều 92, 93, 94) [16].
Về quốc tịch của tàu biển: Theo quy định chung, bất kỳ một con tàu
nào khi tham gia giao thông hàng hải quốc tế đều phải mang một quốc tịch
nhất định (có thể là quốc tịch của một quốc gia hoặc "quốc tịch" của một tổ

18
chức liên chính phủ) nhằm thể hiện rằng con tàu đó chịu sự điều chỉnh của
pháp luật một quốc gia cụ thể. Hoặc trong một số trường hợp nhất định, tàu
biển được quyền có nhiều quốc tịch nhưng trong cùng một chuyến đi tàu
không được mang hai cờ quốc tịch [12].
Tàu biển Việt Nam là tàu biển có quốc tịch Việt Nam thuộc sở hữu
của nhà nước Việt Nam, các tổ chức và cá nhân Việt Nam hoặc của tổ chức,
cá nhân nước ngoài nhưng được đăng ký mang quốc tịch Việt Nam, được
đăng ký trong "Sổ đăng ký tàu biển quốc gia" và được treo cờ Việt Nam. Tàu
biển nước ngoài là tàu biển mang quốc tịch nước ngoài thuộc sở hữu của nhà
nước, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài hoặc tàu biển thuộc sở hữu của tổ
chức, cá nhân Việt Nam được đăng ký quốc tịch nước ngoài (Điều 7, 12) [7].
Đối với trường hợp tàu biển mang "quốc tịch" của tổ chức quốc tế hay mang

từ hai quốc tịch trở lên thì vấn đề luật nơi lao động làm việc là luật quốc gia
nào chính là sự thỏa thuận lựa chọn áp dụng giữa các chủ thể.
Trong những trường hợp chủ tàu là người Việt Nam nhưng tàu biển
thuộc sở hữu của họ được đăng ký quốc tịch nước ngoài, hoặc trong trường
hợp chủ tàu Việt Nam thuê tàu trần của nước ngoài để khai thác (tàu biển đó
vẫn mang quốc tịch nước ngoài nhưng người sử dụng lao động là của Việt
Nam) thuê thuyền viên Việt Nam, hoặc trường hợp thuyền viên là người nước
ngoài làm việc trên các tàu biển Việt Nam do chủ tàu Việt Nam thuê. Tất cả
trường hợp trên đều đảm bảo yếu tố địa điểm làm việc là ở nước ngoài trong
tư pháp quốc tế và là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam mặc
dù hiện nay quy định về vấn đề này còn chưa cụ thể.
Như vậy, yếu tố địa điểm làm việc của thuyền viên trong tư pháp quốc
tế là tàu biển mang cờ quốc tịch nước ngoài (khác với quốc tịch của thuyền
viên) và thông thường quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động nước
ngoài với thuyền viên Việt Nam bao gồm cả hai yếu tố là chủ thể và địa điểm
làm việc trên tàu biển mang cờ quốc tịch nước ngoài.

19
1.2. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI THUYỀN VIÊN VIỆT NAM LÀM
VIỆC TRÊN TÀU BIỂN NƢỚC NGOÀI
1.2.1. Cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ lao động đối với thuyền
viên Việt Nam trên tàu biển nƣớc ngoài
1.2.1.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung, là những quan hệ phát
sinh trong xã hội mà pháp luật cần phải điều chỉnh để hướng các quan hệ xã
hội này theo một trật tự nhất định phù hợp với lợi ích của nhà nước và xã hội.
Trong tư pháp quốc tế, đối tượng điều chỉnh là các quan hệ dân sự
theo nghĩa rộng, bao gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế,
lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài, theo
Điều 758 Bộ luật Dân sự năm 2005 là:

Quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân,
tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài
sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [15, tr. 8].
Quan hệ lao động thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt
Nam là những quan hệ lao động phát sinh giữa người lao động với người sử
dụng lao động mà có ít nhất một bên là người nước ngoài, (pháp luật Việt
Nam quy định cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi làm việc tại Việt
Nam cũng là chủ thể nước ngoài) khi người lao động đến làm việc tại quốc
gia của người sử dụng lao động.
Quan hệ lao động là thuyền viên có yếu tố nước ngoài của Việt Nam
chủ yếu điều chỉnh những quan hệ lao động sau đây:
- Quan hệ lao động giữa cá nhân thuyền viên với người sử dụng lao
động, bao gồm quan hệ giữa thuyền viên Việt Nam với người sử dụng lao

×