Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Một số vấn đề cơ bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.38 KB, 116 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN VĂN HẢI





MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ CỦA WTO




CHUYÊN NGÀNH : LUẬT QUỐC TẾ
MÃ SỐ : 60 38 60


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG


HÀ NỘI – NĂM 2007


3
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
1
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
6
MỞ ĐẦU
7
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
12
1.1. Bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế
12
1.1.1. Khái niệm
12
1.1.2. Bán phá giá – hành vi không lành mạnh trong thƣơng mại
quốc tế
14
1.2. Chống bán phá giá trong pháp luật thƣơng mại quốc tế
18
1.2.1. Khái quát về chống bán phá giá trong pháp luật thƣơng
mại quốc tế
18
1.2.2. Chống bán phá giá – công cụ bảo hộ mậu dịch hiện đại và

xu hƣớng phát triển
22
1.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng biện
pháp chống bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế
26
1.2.3.1. Các quy định của pháp luật về chống bán phá giá
còn phúc tạp
26
1.2.3.2. Tự do hóa thƣơng mại dẫn đến tình trạng lạm dụng
biện phá chống bán phá giá
28
1.2.3.3. Yếu tố chính trị trong các vụ kiện bán phá giá
29
1.3. Tác động của chống bán phá giá đối với thƣơng mại quốc tế và
các nƣớc đang phát triển
32
1.3.1. Tác động tới các hoạt động thƣơng mại
32
1.3.2. Ảnh hƣởng tới mở rộng thƣơng mại
34
1.3.3. Chệch hƣớng thƣơng mại
35
Chƣơng 2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA WTO VỀ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ VÀ MỨC ĐỘ TƢƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT
36

4
VIỆT NAM
2.1. Một số quy định cơ bản của WTO về chống bán phá giá
37

2.1.1. Xác định bán phá giá
37
2.1.1.1. Giá xuất khẩu
38
2.1.1.2. Giá trị thông thƣờng
39
2.1.1.3. Sản phẩm tƣơng tự
42
2.1.1.4. Điều kiện thƣơng mại thông thƣờng
43
2.1.1.5. Biên độ bán phá giá
44
2.1.2. Xác định thiệt hại
45
2.1.2.1. Các nội dung xác định thiệt hại
45
2.1.2.2. Các yếu tố cần xem xét khi xác định thiệt hại
47
2.1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và
thiệt hại
48
2.1.3. Thủ tục điều tra, áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá
50
2.1.3.1. Điều kiện để tiến hành cuộc điều tra
50
2.1.3.2. Các biện pháp tạm thời, điều kiện áp dụng các
biện pháp tạm thời
54
2.1.3.3. Cam kết giá

55
2.1.3.4. Quyết định áp thuế chống bán phá giá
59
2.1.4. Rà soát
60
2.1.5. Khiếu kiện và giả quyết tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên
62
2.2. Vấn đề về nền kinh tế phi thị trƣờng (NME) trong pháp luật
chống bán phá giá
65
2.3. Mức độ tƣơng thích của pháp luật Việt Nam so với các quy
định của WTO về chống bán phá giá
75
Chƣơng 3. THỰC TIỄN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁI CỦA MỘT SỐ
MƢỚC, NHỮNG ĐỀ XUẤT CHO VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CÁC VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
CỦA VIỆT NAM
79
3.1. Thực tiễn chống bán phá giá của một số nƣớc
79

5
3.1.1. Trung Quốc
79
3.1.2. Các nƣớc khối ASEAN
85
3.1.3. Vụ điều tra bán phá giá của Trung Quốc
88
3.1.4. Vụ kiện giữa EC và Ấn Độ

95
3.2. Một số đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
chống bán phá giá và đối phó với các vụ kiện chống bán phá
giá
102
3.2.1. Một số đề xuất cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về chống bán phá giá
102
3.2.2. Một số đề xuất cho việc đối phó với các vụ kiện chống
bán phá giá hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
105
KẾT LUẬN
115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
116














6

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ADA
Hiệp định về Chống bán phá giá của
WTO (Anti-dumping Agreement)
BPG
Bán phá giá
CBPG
Chống bán phá giá
DSB
Cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO (Dispute Settlement Body)
DOC
Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ
GATT 1947
Hiệp định chung về thuế quan và
thƣơng mại 1947
GATT 1994
Hiệp định chung về thuế quan và
thƣơng mại 1994
Giá XK
Giá xuất khẩu
Giá TTT
Giá trị thông thƣờng
BĐPG
Biên độ phá giá
SPTT
Sản phẩm tƣơng tự
NME
Nền kinh tế phi thị trƣờng
ME

Nền kinh tế thị trƣờng
WTO
Tổ chức Thƣơng mại Thế giới

7
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa là sự vận động chủ đạo của nền
kinh tế thế giới. Biểu hiện của nó là các quốc gia trên thế giới ngày càng xích
lại gần nhau hơn trong một không gian chung bằng việc thành lập các tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu. Tổ chức Thƣơng mại thế giới - WTO bao gồm
150 thành viên (tính đến ngày Việt Nam trở thành thành viên chính thức 11-1-
2007) và còn hàng chục quốc gia, vùng lãnh thổ khác đang nỗ lực trong đàm
phán để gia nhập là minh chứng cho xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế [11, tr
315].
Sau nhiều năm đàm phán, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới - WTO, tổ chức thƣơng mại lớn
nhất toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra cho chúng ta, đặc biệt là các doanh
nghiệp Việt Nam cơ hội lớn để xâm nhập vào nhiều thị trƣờng mới, rộng lớn
và hấp dẫn hơn trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế nhƣng đồng thời cũng tiềm
ẩn không ít những thách thức, trong đó có thuế chống bán phá giá đã và đang
đƣợc các nƣớc sử dụng ngày càng nhiều hơn trong các vụ kiện chống bán phá
giá.
Mặc dù WTO đƣợc xây dựng trên nguyên tắc không phân biệt đối xử
giữa các thành viên nhƣng trong thực tiễn thƣơng mại thì chƣa hẳn nhƣ vậy,
chẳng hạn để có đƣợc sự thừa nhận là “một nền kinh tế thị trƣờng”, có lẽ Việt
Nam còn phải chờ đến năm 2019 (không muộn hơn 31-12-2018). Nhƣ một cái
giá để gia nhập WTO là việc chúng ta buộc phải chấp nhận vẫn bị coi là nƣớc
nằm trong danh sách tạm gọi là “nền kinh tế phi thị trƣờng” (NME) nhƣ một

vài thành viên khác. Điều đó càng khiến cho Việt Nam (đặc biệt là các doanh

8
nghiệp Việt Nam) khó tự bảo vệ mình trƣớc những cáo buộc bán phá giá của
các nƣớc khác khi tham gia vào quan hệ thƣơng mại quốc tế.
Đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, thuế chống bán phá giá không
chỉ còn là nguy cơ mà đã trở thành sự thật hiện hữu nhƣ: tỏi, giầy da, bật lửa
ga, gạo…của Việt Nam đã phải đối mặt với những vụ điều tra chống bán phá
giá. Hoa Kỳ cũng đã áp đặt thuế chống bán phá giá đối với cá Basa và cá Tra
- philê đông lạnh, tôm nhập khẩu từ Việt Nam. Đó là những bài học đắt giá
mà các doanh nghiệp của chúng ta đã và đang phải trả khi tham gia vào các
mối quan hệ thƣơng mại quốc tế mà không có sự chuẩn bị kỹ, thiếu những
hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về pháp luật chống bán phá giá của các nƣớc khác.
Nhƣ vậy, Việt Nam với tƣ cách là thành viên chính thức của Tổ chức
Thƣơng mại thế giới - WTO, bên cạnh những ràng buộc về nghĩa vụ cắt giảm
thuế quan, mở cửa thị trƣờng là những cơ hội cho xuất khẩu hàng hóa của
mình ra thị trƣờng thế giới ngày càng nhiều hơn, đồng thời nguy cơ trở thành
bị đơn trong các vụ kiện chống bán phá giá đang có xu hƣớng gia tăng, ảnh
hƣởng trực tiếp tới quyền, lợi ích của các doanh nghiệp. Do đó, đã đến lúc
chúng ta phải nhìn nhận một cách sâu sắc rằng chống bán phá giá là một thách
thức, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đƣợc trang bị đầy đủ
những kiến thức về lĩnh vực này để có thể chủ động xây dựng chiến lƣợc sản
xuất - kinh doanh phù hợp nhất. Đồng thời đấu tranh một cách có hiệu quả
nhất mỗi khi bị cáo buộc bán phá giá vào thị trƣờng nƣớc khác trong hoạt
động thƣơng mại quốc tế cũng nhƣ bảo vệ ngành sản xuất của mình trƣớc
nguy cơ bị bán phá giá hàng hóa nhập khẩu từ nƣớc ngoài vào thị trƣờng Việt
Nam.
Với mong muốn góp thêm sức mình vào việc tìm hiểu các quy định
pháp luật về chống bán phá giá của WTO, phân tích, đánh giá những nội dung


9
về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đƣợc ghi nhận trong các quy định này,
thực tiễn áp dụng các quy định này, đối chiếu với thực tiễn của Việt Nam để
đƣa ra những kiến nghị kịp thời cho việc hoàn thiện pháp luật, bảo đảm sự
tƣơng thích giữa pháp luật Việt Nam với các quy định của WTO và cung cấp
thêm thông tin cho các doanh nghiệp Việt Nam, giúp các doanh nghiệp Việt
Nam có thể chủ động bảo vệ quyền lợi của mình, loại bỏ những rủi ro khi
tham gia vào các quan hệ thƣơng mại quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “ Một số
vấn đề cơ bản về Pháp luật chống bán phá giá của WTO” để làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ.
II. Tình hình nghiên cứu:
Có lẽ do đây là lĩnh vực tƣơng đối mới tại Việt Nam nên các công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài này còn rất ít. Hiện tại, ngoài các quy định
của WTO về lĩnh vực này và các văn bản pháp luật của Việt Nam, tác giả chỉ
mới tìm thấy một số công trình nghiên cứu mang tính tổng quát về chống bán
phá giá nói chung nhƣ: Sách chuyên khảo “Chủ động ứng phó với các vụ kiện
chống bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế” của Tiến sĩ Định Thị Mỹ Loan,
Nhà xuất bản Lao Động - Xã hội, 2006; Sách tham khảo “Pháp luật về chống
bán phá giá - những điều cần biết” của Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp
Việt Nam, 2006; Đề tài khoa học cấp bộ, “Cơ sở khoa học áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế” của Thạc sĩ Nguyễn Thanh Hƣng, Vụ Chính sách đa
biên, Bộ Thƣơng Mại, năm 2002 (nay là Bộ Công Thƣơng).
Ngoài ra còn có một số bài báo, một số tài liệu khác liên quan đến vấn
đề này mang tính sự vụ cụ thể về chống bán phá giá. Tác giả vẫn chƣa tìm

10
thấy đề tài luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nào nghiên cứu chuyên về Pháp luật chống
bán phá giá của WTO.

III. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn:
Phân tích, tìm hiểu những quy định cơ bản trong Pháp luật về chống
bán phá giá của WTO, thực tiễn và kinh nghiệm của một số quốc gia thành
viên WTO trong việc áp dụng các quy định pháp luật chống bán phá giá, so
sánh với các quy định của pháp luật và thực tiễn Việt Nam. Trên cơ sở đó,
đƣa ra một số đề xuất cho việc xây dựng và thực thi pháp luật về chống bán
phá giá của Việt Nam nhằm bảo đảm sự tƣơng thích với những quy định của
WTO. Đồng thời, đƣa ra một số khuyến cáo cho các doanh nghiệp trong việc
phòng tránh và hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại từ các vụ kiện chống bán
phá giá khi tham gia các quan hệ thƣơng mại quốc tế.
IV. Phạm vi nghiên cứu:
Pháp luật về chống bán phá giá của WTO là lĩnh vực lớn và hết sức
phức tạp. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả không đặt mục tiêu đi
xem xét chi tiết, cụ thể tất cả các vấn đề về chống bán phá giá mà chỉ tập
trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Những nội dung cơ bản của Hiệp định chống bán phá giá của WTO
trong việc xác định bán phá giá, xác định thiệt hại, điều tra và áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá.
- Kinh nghiệm và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật chống bán
phá giá của một số nƣớc thành viên WTO.
- Các quy định pháp luật về chống bán phá giá của Việt Nam, thực tiễn
ứng phó trƣớc các vụ kiện bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt
Nam.

11
V. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài đƣợc dựa trên cơ sở những quan điểm của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối đổi mới của Đảng cộng
sản Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đồng thời tác giả cũng vận dụng tổng hợp các phƣơng pháp duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử và các phƣơng pháp cụ thể nhƣ phân tích, tổng
hợp, giải thích, so sánh, tổng kết thực tiễn để lý giải những vấn đề đặt ra.
VI. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Danh mục từ viết tắt, Mục lục, Luận văn đƣợc chia làm 03 chƣơng, cụ thể:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về Pháp luật chống bán phá giá
trong thƣơng mại quốc tế
Chƣơng 2. Một số quy định cơ bản của WTO về chống bán phá giá và
mức độ tƣơng thích của pháp luật Việt Nam
Chƣơng 3. Thực tiễn chống bán phá giá của một số nƣớc, những đề
xuất cho việc hoàn thiện pháp luật và đối phó với với các vụ
kiện chống bán phá giá của Việt Nam








12

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. Bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế
1.1.1.Khái niệm
Bán phá giá đƣợc xem là hiện tƣợng xuất hiện khá sớm trong thực tiễn
thƣơng mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp
luật các nƣớc đều coi đây là một trong những hành vi thƣơng mại không lành

mạnh.
Trong ngôn ngữ thông thƣờng, bán phá giá đƣợc hiểu là: “ tổng hợp
những biện pháp bán hạ giá một số mặt hàng xuất khẩu nào đó để cạnh tranh
nhưng có hiệu quả với bạn hàng khác trên thị trường thế giới. Mục tiêu là
đánh bại đối thủ, chiếm lĩnh thị trường ngoài nước hoặc kiếm ngoại tệ khẩn
cấp, có khi cả mục tiêu chính trị. Những hình thực cổ điển là chiếm độc quyền
sản xuất, buôn bán và lũng đoạn giá cả. Để BPG, các tổ chức độc quyền có
thể dựa vào chính sách nhà nước: hỗ trợ xuất khẩu bằng trợ giá, miễn, giảm
thuế, hạ thấp tiền lương của công nhân. Đặc trưng của hình thức BPG là bán
theo giá rẻ, thậm chí thấp hơn cả giá thành. Sau khi đối thủ bị đánh bại, các
tổ chức độc quyền chiếm thị trường và nâng giá lên (giá độc quyền) để thu lợi
nhuận cao. BPG dẫn đến những hậu quả: sản xuất của các nước nhập hàng
BPG bị đình đốn vì không cạnh tranh nổi với hàng nhập; nước bán phá giá
chịu gánh nặng về trợ giá xuất khẩu; gây không khí chiến tranh thương mại,
làm rối loạn thị trường thế giới;…”, [12]

13
Trong các văn bản pháp luật, theo khoản 3, Điều 4, Pháp lệnh Giá năm
2002 thì “ bán phá giá là hành vi bán hàng hóa, dịch vụ với giá quá thấp so
với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường, hạn
chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và lợi ích của nhà nước” [7, Đ4], tuy
nhiên định nghĩa bán phá giá này chỉ đề cập đến hàng hóa, dịch vụ đƣợc sản
xuất trong nƣớc và việc bán phá giá tại thị trƣờng trong nƣớc (còn gọi là bán
phá giá trong thƣơng mại nội địa).
Khi Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
đƣợc Quốc hội thông qua ngày 29/4/2004, theo Điều 2, khoản 2 thì “Biên độ
phá giá là khoảng cách chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường
của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào
Việt Nam”, ở đây điều luật không định nghĩa một cách trực tiếp khái niệm

bán phá giá, nhƣng việc xác định biên độ phá giá thông qua sự so sánh giữa
giá thông thƣờng (giá bán sản phẩm tƣơng tự tại thị trƣờng nƣớc nhập khẩu là
chủ yếu) với giá xuất khẩu sản phẩm đó vào Việt Nam cho chúng ta thấy rằng
bán phá giá là hiện tƣợng khi giá xuất khẩu một hàng hóa từ nƣớc ngoài vào
Việt Nam thấp hơn giá thông thƣờng của hàng hóa đó.
Trong Điều ƣớc Quốc tế, hiện nay theo quy định tại Điều 2.1 của Hiệp
định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại 1994
còn gọi là Hiệp định về Chống bán phá giá của Tổ chức Thƣơng mại thế giới,
viết tắt là ADA, nhƣ sau:
“ Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá
(tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị
giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm
được xuất khẩu từ nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so

14
sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các
điều kiện thương mại thông thường…”.
Quy định trên đây đã thể hiện một cách chính xác và rõ ràng rằng việc
bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế có yếu tố cơ bản đó là sự so sánh về giá
ở hai thị trƣờng khác nhau: thị trƣờng nƣớc nhập khẩu và thị trƣờng nƣớc
xuất khẩu, cho dù giá bán ở thị trƣờng tiêu thụ (nƣớc nhập khẩu), có thể
không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trƣờng hợp giá bán của sản phẩm
nhập khẩu còn cao hơn giá của sản phẩm tƣơng tự hiện đang đƣợc bán tại thị
trƣờng nƣớc nhập khẩu. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện
tƣợng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hóa xuất khẩu đƣợc bán sang một nƣớc
khác (nƣớc nhập khẩu) với giá thấp hơn giá bán tại thị trƣờng nội địa (của
nƣớc xuất khẩu).
Nhƣ vậy, một cách khái quát nhất thì bán phá giá trong thƣơng mại
quốc tế, là việc một sản phẩm đƣợc xuất khẩu từ một nƣớc này sang một nƣớc
khác thấp hơn mức giá có thể so sánh đƣợc của sản phẩm tƣơng tự đƣợc bán

tại nƣớc xuất khẩu theo điều kiện thƣơng mại thông thƣờng.
1.1.2. Bán phá giá - hành vi không lành mạnh trong thƣơng mại
quốc tế
Trong thƣơng mại quốc tế, một sản phẩm đƣợc coi là bán phá giá khi
giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá thông thƣờng của sản phẩm
tƣơng tự bán trong nƣớc. Về bản chất, bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế
là hành vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tƣơng
tự, nhƣng giá xuất khẩu sang nƣớc khác (nƣớc nhập khẩu) lại thấp hơn giá
tiêu thụ nội địa của nƣớc xuất khẩu. Thông thƣờng, bán phá giá luôn bị coi là
một trong những hành vi thƣơng mại không công bằng, bóp méo hoạt động

15
thƣơng mại bình thƣờng, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại tới ngành
công nghiệp của nƣớc nhập khẩu.
Chẳng hạn với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường: Một hãng nƣớc ngoài,
với mục tiêu thiết lập vị thế độc quyền ở thị trƣờng nội địa, thực hiện chính
sách bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn chi phí lề cho đến khi loại bỏ
hết các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trƣờng mặt hàng đó. Sau khi chiếm
đƣợc thị trƣờng, hãng đó lại nâng giá để khai thác lợi thế độc quyền của mình.
Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong nƣớc bị phá sản, hành động
này còn gây thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng, làm giảm lợi ích của toàn xã hội
nhƣ trong trƣờng hợp độc quyền khác, và do vậy cần đƣợc áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá nhằm loại trừ hoặc hạn chế thiệt hại cho ngành sản
xuất của nƣớc nhập khẩu.
Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, dƣới góc độ kinh tế, việc bán
phá giá cũng đã đem lại những lợi ích nhất định: dƣới góc độ của nƣớc xuất
khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất đẩy mạnh quá trình tiêu thụ
sản phẩm, phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm
nhập thị trƣờng mới; dƣới góc độ của nƣớc nhập khẩu, ngƣời tiêu dùng có
điều kiện hƣởng lợi về giá cả, đƣợc hƣởng lợi từ việc mua đƣợc hàng hóa

tƣơng tự với giá rẻ. Có lẽ đây chính là một trong những lý do mà không phải
bất cứ hành vi bán phá giá nào cũng đều bị lên án, bị áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá, theo quy định của WTO cũng nhƣ của pháp luật các nƣớc
hiện nay.
Vì trong quan niệm của các quốc gia, việc "bán phá giá" thƣờng đƣợc
coi là có tác động tiêu cực, do bị coi là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận của
những ngƣời bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một
mặt hàng của nƣớc nhập khẩu, cho nên ngƣời ta thƣờng tìm biện pháp để

16
chống lại hành động này. Ở đây, chúng ta cần phải có sự phân tích thấu đáo
bản chất của mọi trƣờng hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động
bán phá giá đều có hại hay không từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Một cách chung nhất, có thể hình dung các trƣờng hợp bán phá giá sau
đây: thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trƣờng nội địa nƣớc xuất khẩu
nhƣng vẫn cao hơn chi phí sản xuất; thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí
sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trƣờng trong nƣớc. Trong trƣờng hợp
này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa
chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi phí "chi phí lề".
- Trƣờng hợp thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trƣờng nội địa
nhƣng cao hơn chi phí sản xuất.
Trƣờng hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền
hoặc gần nhƣ độc quyền ở thị trƣờng nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên
hoặc do đƣợc hƣởng lợi thế từ hàng rào thƣơng mại, nhƣng phải cạnh tranh ở
thị trƣờng nƣớc xuất khẩu. Trong trƣờng hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi
nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán
trong nƣớc cao hơn (cao hơn nhiều chi phí sản xuất), chừng nào thị trƣờng đó
còn chấp nhận đƣợc. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trƣờng nƣớc xuất
khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trƣờng đó. Nhƣ vậy đã
xảy ra việc bán phá giá nhƣ định nghĩa ở trên.

Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trƣờng nƣớc nhập khẩu
thay đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hƣởng đến lợi ích
của nƣớc nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lƣợng lớn và trong
thời gian dài, làm giảm giá ở thị trƣờng nƣớc nhập khẩu, sẽ gây tác động đến
lợi ích của nƣớc nhập khẩu. Ngƣời tiêu dùng sẽ đƣợc lợi từ giá thấp, nhƣng

17
ngƣợc lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị
thiệt hại vì lợi nhuận và lƣơng bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nƣớc nhập khẩu
phụ thuộc vào việc lợi ích của ngƣời tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của ngƣời
sản xuất và công nhân hay không. Ngay cả trong trƣờng hợp về tổng thể nƣớc
nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá
giá đối với hàng hóa của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có
thể lập luận rằng do điều kiện thị trƣờng của nƣớc nhập khẩu là cạnh tranh,
bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trƣờng đó và làm cho giá giảm
xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nƣớc nhập khẩu có thể áp dụng các
biện pháp đƣợc phép khác nhƣ tự vệ.
- Trƣờng hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất.
Trƣớc hết, để hiểu đƣợc ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn
chi phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông thƣờng, chi phí sản xuất đƣợc
phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân và chi phí lề. Chi phí bình quân đƣợc
tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lƣợng sản phẩm
sản xuất ra. Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản
phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lƣợng sản xuất, chỉ có
một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lƣợng sản xuất thay đổi. Chính
chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời
gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập một thị trƣờng
[14, tr 4-6].

Khi nhu cầu của thị trƣờng bị giảm, kéo theo giá thị trƣờng giảm, và
các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình
quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ
thuộc vào lƣợng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lƣợng hàng bán ra và

18
vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán
với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trƣờng sẽ phục hồi, hoặc chỉ để giảm
thiệt hại trƣớc khi rút lui khỏi thị trƣờng đó. Đây là sự phản ứng rất bình
thƣờng của các hãng đối với sự thay đổi của thị trƣờng, kể cả các hãng nƣớc
ngoài và hãng nội địa. Trong trƣờng hợp này, việc áp dụng một biện pháp
chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì nhƣ vậy sẽ đối xử không công bằng
giữa hãng nội địa và hãng nƣớc ngoài. Tuy nhiên, một nƣớc vẫn có thể áp
dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dƣới hình
thức các biện pháp tự vệ.
Tóm lại, có rất nhiều trƣờng hợp các hãng nƣớc ngoài có thể xuất khẩu
hàng của mình sang thị trƣờng nƣớc khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm
chí thấp hơn cả chi phí sản xuất vì nhiều mục đích khác nhau và theo nhƣ
định nghĩa tại Điều 2.1, ADA thì đó là hành vi bán phá giá trong thƣơng mại
quốc tế. Các quốc gia trên thế giới luôn nhìn nhận bán phá giá là hành vi tiêu
cực nên đã đƣa ra các biện pháp chống lại hành vi này. Tuy nhiên, không phải
tất cả mọi trƣờng hợp bán phá giá đều là tiêu cực và phải áp dụng các biện
pháp ngăn cản. Việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ đƣợc phép
tiến hành khi đã chứng minh đƣợc một cách rõ ràng có hành vi bán phá giá và
hành vi này đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất
trong nƣớc và quy trình xác định thiệt hại này phải tuân theo các nguyên tắc
đƣợc quy định trong ADA.
1.2. Chống bán phá giá trong pháp luật thƣơng mại quốc tế
1.2.1. Khái quát về chống bán phá giá trong pháp luật thƣơng mại
quốc tế

Từ quan điểm cho rằng bán phá giá là hành vi không lành mạnh trong
thƣơng mại quốc tế cho nên một số nƣớc đã có những đạo luật về chống bán

19
phá giá trong thƣơng mại quốc tế từ rất sớm nhƣ: tại Canada, năm 1904 các
quy định về chống bán phá giá đã đƣợc thông qua, dựa trên việc sửa đổi Đạo
luật thuế hải quan năm 1897 của nƣớc này. Tiếp theo đó, vào năm 1905 và
1906, các quy định chống bán phá giá đã lần lƣợt đƣợc New Zealand và
Australia áp dụng. Năm 1916 Hoa kỳ ban hành Luật chống bán phá giá.
Trong pháp luật thƣơng mại quốc tế, chống bán phá giá đã đƣợc Hiệp
hội các quốc gia (League of Nations) để tâm nghiên cứu ngay từ năm 1922,
nhƣng phải đợi đến năm 1947, với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế
quan và thƣơng mại (GATT 1947), vấn đề này mới đƣợc đặt dƣới sự chi phối
của luật quốc tế, thông qua Điều VI của Hiệp định này. Lúc ấy chủ đề này
chƣa đƣợc tranh cãi nhiều và chỉ về sau, khi các dòng thƣơng mại phát triển
ngày càng nhanh, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn đồng thời
số lƣợng thành viên của GATT cũng tăng lên nhiều hơn thì mới trở thành một
mối quan tâm chính, ngày càng lớn qua các vòng đàm phán tiếp nối nhau.
Hiệp định chung về thƣơng mại và thuế quan (GATT) đƣợc ký kết từ
năm 1947 và ngay sau đó, năm 1948 hệ thống thƣơng mại đa biên đƣợc thiết
lập. Điều VI GATT 1947 đã có quy định liên quan đến trƣờng hợp một ngành
công nghiệp nội địa cho rằng việc bán phá giá đã gây thiệt hại cho ngành sản
xuất của họ. Điều khoản này cho phép nƣớc bị bán phá giá đƣợc áp đặt “thuế
chống bán phá giá” đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm loại bỏ tác động của
việc bán phá giá. Mức thuế có thể bằng nhƣng không lớn hơn biên độ bán phá
giá. Cùng với xu hƣớng giảm dần tỷ lệ thuế quan kể từ khi có Hiệp định
GATT 1947 thì việc sử dụng thuế chống bán phá giá cũng tăng lên và Điều
VI không còn tƣơng thích để quy định đầy đủ các vấn đề liên quan đến việc
áp đặt thuế chống bán phá giá. Ví dụ nhƣ, Điều VI yêu cầu việc xác định thiệt
hại đáng kể nhƣng đã không đƣa ra bất kỳ hƣớng dẫn cụ thể nào nhƣ là tiêu

chí cho việc xác định liệu có tồn tại thiệt hại hay không. Ngoài ra khi đƣa ra

20
phƣơng pháp xác định sự tồn tại bán phá giá, Điều VI cũng chỉ đƣa ra một
cách thức chung chung nhất, rất khó vận dụng cho những trƣờng hợp cụ thể.
Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự do của các
quốc gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tƣợng bán giá và áp
dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nƣớc
mình. Đây là nguyên nhân chủ yếu để nhiều nƣớc lợi dụng áp dụng pháp luật
chống bán phá giá nhƣ là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quán thị
trƣờng nội địa.
Do vậy, sau vòng đàm phán Kennedy, các bên trong Hiệp định GATT
đã ký kết một bản thỏa thuận chi tiết hơn liên quan đến chống bán phá giá.
Thỏa thuận này có tên là Hiệp định thực thi chống bán phá giá (Agreement on
Anti-Dumping Pratices), có hiệu lực năm 1967. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không
ký vào Hiệp định này, do vậy Hiệp định đã ít có giá trị thực tiễn. Kết thúc
vòng đàm phán Tokyo, các bên đã cho ra đời Hiệp định Tokyo (có hiệu lực từ
năm 1980). Hiệp định này đã cho thấy một sự tiến bộ thể hiện ở việc cung cấp
khá nhiều hƣớng dẫn cho việc xác định bán phá giá và thiệt hại. Hiệp định đã
đƣa ra quy trình, thủ tục tiến hành và các vấn đề đƣợc hoàn thiện trong giai
đoạn điều tra. Tuy nhiên, Hiệp định cũng vẫn chỉ là một khuôn khổ chung cho
các nƣớc tuân theo khi tiến hành điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá.
Nó còn nhiều điểm mơ hồ và do đó, khá hạn chế trong việc thực thi.
Sau vòng đàm phán Uruguay, cùng với sự ra đời của Tổ chức Thƣơng
mại thế giới (WTO), các bên đã ký Hiệp định về thực thi Điều VI, GATT
(The Agreement on Implememention of Article VI of GATT 1994), thƣờng
đƣợc gọi với tên “Hiệp định về chống bán phá giá của WTO” (Anti-dumping
Agreement-ADA).


21
Trong những lĩnh vực thuộc thẩm quyền của WTO, pháp luật quốc gia
của một nƣớc thành viên phải phù hợp với các Hiệp định và quy định của
WTO, những văn kiện này đƣợc coi nhƣ một bộ phận của hệ thống pháp lý
quốc gia. Do đó các đạo luật khung về chống bán phá giá của các nƣớc
thƣờng lặp lại tất cả các nguyên tắc của Hiệp định chống bán phá giá, thậm
chí lấy lại nguyên văn của Hiệp định trong trƣờng hợp nhiều nƣớc mới chỉ
ban hành luật này sau khi gia nhập WTO. Để áp dụng các nguyên tắc đó trong
thực tế, mỗi nƣớc có thể có thêm một số điều khoản chi tiết để thi hành, dựa
theo thể chế pháp luật riêng của mình. Nhƣ vậy, về các nguyên tắc chung thì
các luật quốc gia phải đồng nhất nhƣng về nguyên tắc áp dụng thực tiễn thì có
thể có những điểm khác nhau. Một điều đáng lƣu ý là tuy các nƣớc công
nghiệp phát triển đang tiếp tục sử dụng nhiều biện pháp chống bán phá gi thì
đến nay đến nay các nƣớc đang phát triển cũng nhanh chóng áp dụng các biện
pháp này.
Nhƣ một đòi hỏi khách quan, song song với việc hội nhập vào nền
thƣơng mại quốc tế, các nƣớc đang phát triển cũng áp dụng biện pháp chống
bán phá giá nhiều hơn để bảo vệ nền sản xuất còn yếu ớt của chính mình và
các biện pháp chống bán phá giá vừa là cách hữu hiệu nhất vừa phù hợp với
quy định của WTO. Hơn nữa, đối với các nƣớc này, các biện pháp chống bán
phá giá vừa là công cụ của các cƣờng quốc không cho họ thâm nhập thị
trƣờng và mở mang buôn bán, vừa là cái van an toàn cần thiết cho chính họ.
Do đó, sự tranh cãi giữa các nƣớc nghèo và giàu về đề tài chống bán phá giá
còn dai dẳng cho đến nay, các nƣớc nghèo không đặt lại vấn đề chống bán
phá giá về nguyên tắc mà chỉ đòi hỏi sửa đổi, củng cố các điều khoản để tránh
lạm dụng và yêu cầu xác lập một chế độ đặc biệt để giúp đỡ họ. Nói cách
khác, các nƣớc nghèo và các nƣớc đang phát triển không phủ nhận sự cần
thiết của khung pháp lý về chống bán phá giá mà chỉ phê phán cách áp dụng

22

thực tiễn trong các đạo luật và chính sách của từng quốc gia, đặc biệt là chỉ
trích nặng nề Hoa Kỳ.
Chƣơng trình nghị sự phát triển Doha đã chú ý tới việc áp dụng ngày
càng tăng các biện pháp chống bán phá giá vì mục đích bảo hộ. Có ý kiến cáo
buộc rằng các cuộc điều tra chống bán phá giá thƣờng bắt đầu khi chƣa có đầy
đủ bằng chứng xác đáng và thuế chống bán phá giá đƣợc áp dụng trong thời
hạn dài sau khi điều kiện áp thuế không còn. Một số nƣớc thậm chí đã lạm
dụng các biện pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế nhập
khẩu, hơn là để đạt đƣợc các mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà Hiệp
định cho phép.
Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Bộ trƣởng WTO tại Doha, chống
bán phá giá bị nhìn nhận nhƣ một vấn đề gây chia rẽ giữa một bên là các nƣớc
đang phát triển với một bên là các nƣớc công nghiệp phát triển khác. Một số
nƣớc đang phát triển lại cho rằng họ không đƣợc hƣởng những ƣu đãi đã dành
cho họ. Họ cáo buộc rằng các nƣớc công nghiệp phát triển lạm dụng biện
pháp chống bán phá giá đã hạn chế những lợi ích to lớn của tự do hóa thƣơng
mại. Từ đó cho thấy các quy định chống bán phá giá của WTO cần phải đƣợc
hoàn thiện hơn nữa cũng nhƣ vấn đề chống lạm dụng biện pháp chống bán
phá giá còn là cuộc đấu tranh lâu dài và phức tạp.
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, cho đến nay Pháp luật về
chống bán phá giá của WTO dù vẫn còn những hạn chế nhất định nhƣng đã
thực sự là một chế định pháp luật quan trọng, có tính nền tảng cho việc điều
chỉnh các vấn đề về chống bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế. Các quy
định này đƣợc ghi nhận tại: Điều VI GATT 1994; Hiệp định về Thi hành Điều
VI GATT 1994 (The Agreement on Implementation of Article of GATT
1994) thƣờng đƣợc gọi với tên là “Hiệp định về chống bán phá giá”, viết tắt

23
trong tiếng Anh là ADA. Đây là những văn bản pháp luật quốc tế làm căn cứ
cho các quốc gia khi xây dựng pháp luật của quốc gia mình về chống bán phá

giá.
1.2.2. Chống bán phá giá - công cụ bảo hộ mậu dịch hiện đại và xu
hƣớng phát triển
Bán phá giá thƣờng bị coi là hành vi thƣơng mại quốc tế không công
bằng. Do đó, Chính phủ nhiều nƣớc cho rằng họ cần phải có hành động chống
lại hành vi đó nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nƣớc mà thông thƣờng là
thông qua việc đánh thuế chống bán phá giá để bù đắp những thiệt hại cho
ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra. Để có
thể áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá thì
nƣớc nhập khẩu phải chứng minh đƣợc một cách rõ ràng các vấn đề: có việc
bán phá giá; có thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả
giữa việc bán phá giá và thiệt hại. Để xác định những vấn đề này, các quốc
gia phải tiến hành các hoạt động theo quy định của pháp luật của quốc gia
mình trên cơ sở không đƣợc trái với các quy định của WTO về chống bán phá
giá. Nhƣ vậy, chống bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế là biện pháp hợp
pháp đƣợc các quốc gia thừa nhận.
Mặc dù mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá (cũng nhƣ các
biện pháp chống trợ cấp và tự vệ) đƣợc cho là để loại trừ thiệt hại cho ngành
sản xuất của nƣớc nhập khẩu, đảm bảo sự công bằng trong thƣơng mại quốc
tế nhƣng trong thực tế không đơn giản nhƣ vậy. Các biện pháp chống bán phá
giá đã bị lạm dụng trở thành công cụ bảo hộ có chủ định và hợp pháp cho các
ngành sản xuất trong nƣớc.
Thực tế đã cho thấy, trong bối cảnh tự do hóa thƣơng mại ngày càng trở
nên phổ biến và đặc biệt, khi các biện pháp bảo hộ mang tính truyền thống

24
nhƣ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đang từng bƣớc đƣợc cắt giảm thì
biện pháp chống bán phá giá đã đƣợc các nƣớc “khéo léo” sử dụng nhƣ một
công cụ thay thế nhằm bảo hộ cho cho sự yếu kém của ngành sản xuất nội địa.
Trong điều kiện hàng rào thuế quan và phi thuế quan đƣợc cắt giảm, các

ngành sản xuất nội địa đứng trƣớc sức ép cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập
khẩu, cùng với các quy định của pháp luật về chống bán phá giá còn phức tạp
và thiếu rõ ràng (trong việc xác định bán phá giá, xác định thiệt hại ) thì họ
sẵn sàng khởi kiện chống bán phá đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm loại bỏ
các nhà sản xuất ra khỏi thị trƣờng hoặc ít ra là làm tăng giá của hàng hóa
nhập khẩu lên rất nhiều lần. Bởi lẽ khi hàng hóa nhập khẩu bị áp thuế chống
bán phá giá thì thƣờng bị áp ở mức cao hơn trung bình từ 10-20 lần so với
mức thuế MFN, có nhiều vụ kiện mức thuế này còn cao hơn 100 lần. Thông
thƣờng mức thuế AD của EU là 25%, của Hoa kỳ còn cao hơn một chút,
khoảng từ 30%-35%. Có những trƣờng hợp mức thuêa này còn hơn 100%,
thậm chí còn lên tới 350% [15, tr 173].
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá
giá không phải là chính sách công mà là chính sách tƣ. Đó là một phƣơng tiện
mà một đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng quyền lực của Nhà nƣớc để giành
lợi thể cạnh tranh trƣớc các đối thủ khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong
nƣớc, bên hƣởng lợi là ngành công nghiệp nội địa và nạn nhân của biện pháp
này là các nhà sản xuất, xuất khẩu nƣớc ngoài và ngƣời tiêu dùng tại nƣớc
nhập khẩu. Mục đích của pháp luật chống bán phá giá và chống trợ cấp trong
thực tế hiện nay không phải đƣợc sử dụng vào bảo vệ ngƣời tiêu dùng mà là
bảo vệ nhà sản xuất nhất định. Thực chất, các quy định của pháp luật chống
bán phá giá đã và đang bảo vệ cho các công ty và những ngƣời lao động tham
gia vào các hoạt động sản xuất ở nƣớc nhập khẩu.

25
Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là một biện pháp khắc phục
thƣơng mại mà các thành viên WTO đã đồng ý rằng là cần thiết để duy trì hệ
thống thƣơng mại đa phƣơng. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống
bán phá giá là để nhằm duy trì thƣơng mại công bằng. Tuy nhiên, theo một
nghiên cứu gần đây cho thấy, có tới 90% các biện pháp này không nhằm bảo
vệ cạnh tranh lành mạnh hoặc thƣơng mại công bằng, [20, tr 152]. Mặt khác,

biện pháp này đƣợc sử dụng để làm công cụ bảo hộ, không những tác động
tiêu cực đến hoạt động thƣơng mại của nƣớc xuất khẩu, mà việc bảo hộ này
còn làm tổn hại đến nền kinh tế của chính nƣớc sử dụng biện pháp chống bán
phá giá, đặc biệt trong trƣờng hợp nguồn cung cấp không lớn hoặc sản phẩm
bị áp thuế phá giá lại có vai trò của nguyên liệu đầu vào quan trọng của ngành
công nghiệp khác nhƣ thép, điện tử, hóa chất… cũng nhƣ ảnh hƣởng đến lợi
ích của ngƣời tiêu dùng.
Ngày nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa và việc cắt giảm các rào cản
thuế quan và phi thuế quan đang diễn ra mạnh mẽ hơn thì chống bán phá giá
vẫn đang đƣợc nhiều quốc gia sử dụng nhƣ là một vũ khí bảo hộ cho các
ngành sản xuất nội địa, trong đó chủ yếu là các ngành công nghiệp truyền
thống nhƣ thép, hóa chất, dệt may và các lĩnh vực khác là các ngành có sức
cạnh tranh yếu do nền tảng công nghệ của chính các quốc gia này. Theo tổng
kết của WTO, từ năm 1995 đến năm 2005, các nƣớc thành viên của WTO đã
tiến hành 2.840 cuộc điều tra chống bán phá giá, trong đó 1.804 cuộc điều tra
đã đi đến kết luận là có bán phá giá và bị áp thuế chống bán phá giá.
Bên cạnh việc các nƣớc công nghiệp phát triển vẫn tiếp tục sử dụng
biện pháp chống bán phá giá thì các nƣớc đang phát triển hoặc nƣớc có nền
kinh tế chuyển đổi cũng nhanh chóng áp dụng các biện pháp này nhiều hơn để
bảo vệ nền sản xuất còn yếu ớt của mình, đứng đầu là Ấn Độ với 316 biện

26
pháp, nhiều hơn Hoa Kỳ (234), Liên minh Châu Âu (219), Nam Phi (113),
Brazil (66) Bên cạnh việc các nƣớc đang phát triển tích cực sử dụng công cụ
chống bán phá giá thì đồng thời cũng là mục tiêu tấn công của các vụ kiện
chống bán phá giá.
Điều đáng quan tâm nữa là trên thực tiễn, việc sử dụng biện pháp chống
bán giá là một phần quan trọng luôn có trong chiến lƣợc kinh doanh của nhiều
ngành công nghiệp nội địa nhằm bảo vệ lợi ích của ngành mình trƣớc sự cạnh
tranh mạnh mẽ và gay gắt từ hàng hóa nhập khẩu. Trong phần lớn các lập

luận, các nghiên cứu và các cuộc tranh luận trong vòng đàm phán WTO nhƣ
Vòng đàm phán Kenedy (1964 - 1967), Vòng đàm phán Tokyo (1973 - 1979),
Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) và đặc biệt đang diễn ra trong Vòng
đàm phán Doha (bắt đầu từ năm 2001) các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ
Hoa Kỳ, Canada, Australia, EU… thƣờng tập trung vào nguyên tắc “thƣơng
mại công bằng” và các hành vi bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế đƣợc coi
nhƣ “hành vi thƣơng mại không công bằng”. Biện pháp chống bán phá giá đã
bị lạm dụng và nhiều nƣớc, đặc biệt là các nƣớc công nghiệp phát triển đã
biến nó thành các hàng rào thƣơng mại, duy trì chủ nghĩa bảo hộ thƣơng mại.
Nói cách khác, biện pháp đƣợc coi là hợp pháp của WTO, đến lƣợt nó, quay
lại bóp méo dòng chảy thƣơng mại quốc tế và hạn chế sự phát triển nội tại
khách quan của hoạt động này, đi ngƣợc lại mục đích của WTO là tự do hóa
thƣơng mại, giảm đáng kể thuế và các rào cản thƣơng mại khác, loại bỏ sự
phân biệt đối xử trong thƣơng mại quốc tế.
1.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm dụng biện pháp
chống bán phá giá trong thƣơng mại quốc tế.
1.2.3.1. Các quy định của pháp luật chống bán phá giá còn phức
tạp

×