MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1:
PHÁP LUẬT VÀ THÔNG LỆ QUỐC TẾ VỀ THUÊ TÀI CHÍNH MÁY BAY
TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG 5
1.1 Thuê tài chính và thuê tài chính máy bay 5
1.1.1 Thuê tài
chính 5
1.1.2 Thuê tài chính máy bay 9
1.2. Các điều ước quốc tế liên quan đến thuê tài chính máy bay 11
1.2.1. Công ước về công nhận quốc tế các quyền đối với tầu bay, ký tại
Geneva ngày 19 tháng 6 năm
1948 11
1.2.2. Công ước Cap Town về quyền lợi quốc tế đối với trang, thiết bị di động
và Nghị định thư của công ước Cap Town qui định riêng cho trang, thiết bị là
tầu bay, ký tại Cap Town (Nam Phi) ngày 16 tháng 11 năm 2001 17
1.3. Các điều ước quốc tế trong ngành hàng không dân dụng có nội dung
dung hỗ trợ cho hoạt động thuê tài chính máy bay 36
1.3.1. Hệ thống các điều ước quốc tế về an ninh hàng
không 36
1.3.2. Hệ thống điều ước về trách nhiệm ngoài hợp đồng (Công ước Roma
1952) 40
1.3.3. Công ước Chi cago về hàng không dân dụng năm
1944 42
1.4. Thông lệ quốc tế về thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực hàng không
dândụng 47
1.4.1.Các hình thức tài trợ thuê và thuê tài chính máy bay 47
1.4.2. Một số cấu trúc điển hình của giao dịch thuê tài chính máy bay 50
1.4.3. Một số tổ chức hỗ trợ tín dụng xuất khẩu trong hoạt động thuê tài chính
máy bay của các nước 56
Chương 2:
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM VỀ THUÊ TÀI CHÍNH VÀ THUÊ
TÀI CHÍNH MÁY BAY TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG 60
2.1. Pháp luật Việt Nam về thuê tài chính và thuê tài chính máy bay trong
lĩnh vực hàng không dân
dụng 60
2.1.1. Pháp luật về thuê tài chính 60
2.1.2. Pháp luật về thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực hàng không dân
dụng 78
2.2. Thực tiễn của Việt Nam về thuê tài chính máy bay 88
2.2.1 Tại sao các hãng hàng không muốn thuê tài chính máy bay 88
2.2.2. Giao dịch thuê tài chính 10 máy bay A320 năm 1996 91
2.2.3. Giao dịch thuê tài chính 04 máy bay Boeing777 92
Chương 3:
CÁC VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG GIAO DỊCH THUÊ TÀI CHÍNH MÁY BAY
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM 95
3.1. Các vấn đề cần lưu ý trong giao dịch thuê tài chính máy bay 95
3.1.1. Các vấn đề mang tính chất quốc tế
95
3.1.2. Rủi ro chính trị 97
3.1.3. Đăng ký máy bay 98
3.1.4. Bảo
đảm 100
3.1.5. Rủi ro về tiền 101
3.1.6. Rủi ro về vỡ
nợ 102
3.1.7. Chọn luật 103
3.2. Hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thuê tài chính và thuê tài
chính máy bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng 104
3.2.1. Hoàn thiện về luật pháp và một số đề
xuất 105
3.2.2. Hoàn thiện về thể chế 114
KẾT LUẬN 119
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc
của đất nước trong tiến trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, ngành hàng không
là một trong những mũi nhọn kinh tế đột phá của Việt Nam trong việc vươn
ra kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên kinh doanh vận tải hàng không là một ngành có rất nhiều đặc
thù riêng. Vì vậy các qui định về hàng không của hầu hết các nước trên thế
giới đều có những tiêu chuẩn pháp lý hết sức chặt chẽ. Ngay cả trong khía
cạnh kinh doanh, thuê , mua máy bay vì đây là một tài sản rất lớn có liên quan
đến nhiều vấn đề pháp lý quốc tế và các quốc gia tham gia giao dịch đó.
Đối với ngành hàng không Việt Nam tính từ thời điểm ra đời của Tổng
công ty Hàng không Việt Nam ( Vietnam Airlines) năm 1995 theo Nghị định
số 04 của Thủ tướng Chính phủ 1995 về việc thành lập Tổng công ty hàng
không Việt Nam là một tổng công ty 91, thì việc tham gia các hoạt động kinh
doanh, cạnh tranh với các hãng khác trên thị trường quốc tế đã bắt đầu hình
thành một cách rõ rệt với tư cách là một tập đoàn kinh tế mũi nhọn của đất
nước trong lĩnh vực hàng không.
Với sự chuyển đổi từ một Hãng hàng không được quản lý theo chế độ
kinh tế tập trung ( nằm trong bộ Quốc phòng) sang nền kinh tế thị trường,
Hàng không Việt Nam đã nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh và điều kiện
mới. Trong đó phải tính đến việc thuê mua máy bay thế hệ mới hiện đại của
các nước tư bản để thay thế các máy bay cũ của Liên Xô trước đây. Với
nguồn ngân sách ít ỏi của nhà nước, việc đầu tư vào đội máy bay không có
cách nào tốt hơn là hình thức thuê tài chính máy bay.
Hình thức thuê tài chính máy bay đã có từ thế kỷ 19 ở các nước tư bản
phát triển như Anh , Mỹ, Pháp, Đức và Nhật bản…Về bản chất kinh tế đó là
2
những giao dịch và sự liên kết giữa các ngân hàng (người có vốn và tập trung
được vốn nhàn rỗi từ nhân dân) với các nhà đầu tư (các công ty chứng khoán),
các nhà sản xuất máy bay và các hãng hàng không để giúp các hãng hàng
không không có đủ vốn mua máy bay đưa vào khai thác thương mại. Mặt
khác vì máy bay là một tài sản rất lớn và mang tính rủi ro cao nên nếu chỉ một
công ty đầu tư toàn bộ số tiền mình có vào một máy bay thì sẽ nhiều rủi ro
hơn là việc chia sẻ cũng từng đó số tiền vào nhiều máy bay cùng với nhiều
công ty khác. Cũng chính vì lý do đó nên các qui định về pháp lý để ràng
buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên là rất phức tạp đòi hỏi phải có các
qui định vừa chặt chẽ vừa hợp lý bảo đảm cho việc khai thác thương mại máy
bay một cách hiệu quả nhất đồng thời đảm bảo được quyền lợi của tất cả các
bên tham gia giao dịch. Ngày nay hình thức này phát triển rất cao và hoàn
thiện với nhiều qui định pháp lý rất chặt chẽ nhất là đối với các vấn đề cơ chế
chia sẻ rủi ro, chia lợi nhuận, bảo hiểm…
Đối với Việt Nam thì hình thức thuê tài chính máy bay thực sự mới bắt
đầu từ năm 1995 còn trước đó chúng ta chỉ đi thuê máy bay dưới các hình
thức thuê khác. Do vậy bản thân các qui định về vấn đề này phần thì thiếu
phần thì có nhiều bất cập chưa tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho các
doanh nghiệp tham gia. Nhất là vấn đề các thủ tục pháp lý về đấu thầu, dự án
đầu tư, thẩm tra, thẩm định, việc thực thi các qui định theo tiêu chuẩn của
pháp luật quốc tế, các qui định về an toàn, khai thác, kỹ thuật, bảo dưỡng máy
bay ….
Vì những lý do trên việc nghiên cứu các khía cạnh pháp lý trong giao
dịch thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng thực sự là
cần thiết nhằm hoàn thiện và phát triển các qui định của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
3
Giao dịch thuê tài chính máy bay là một hoạt động liên quan đến rất
nhiều các lĩnh vực thương mại và pháp lý. Đã có một số bài viết đơn lẻ được
đăng trên các trang web và các tạp chí chuyên ngành nhưng chỉ dừng lại ở
mức độ giới thiệu các kiến thức cơ bản về pháp luật thuê tài chính.
Thuê tài chính máy bay và các yếu tố pháp lý của giao dịch này hiện
nay vẫn là một vấn đề chưa được thực sự tìm hiểu và nghiên cứu sâu, toàn
diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài:
- Mục đích:
Đánh giá các qui định của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế về
thuê tài chính máy bay và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật
Việt nam về vấn đề này.
- Nhiệm vụ:
+ Tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật và thông lệ quốc tế về thuê tài
chính máy bay (chủ yếu là các công ước về lĩnh vực thuê tài chính máy bay
và một số công ước có liên quan trong ngành hàng không dân dụng quốc tế).
+ Đánh giá pháp luật Việt Nam về thuê tài chính và thuê tài chính máy
bay.
+ Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt nam về thuê tài
chính máy bay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề pháp lý trong giao dịch
thuê tài chính, thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc
tế (các điều ước quốc tế đa phương về thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực
hàng không dân dụng) và các văn bản pháp luật có liên quan. Trên cơ sở đó
đưa ra một số biện pháp hoàn thiện pháp luật nước ta về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài:
4
- Phương pháp được sử dụng trong luận văn là phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, qui
nạp, so sánh , đối chiếu dựa trên các văn bản pháp luật trong nước và quốc tế
cũng như các nguồn tư liệu sách, báo, bài viết, các giáo trình của các học giả
trong và ngoài nước liên quan đến thuê tài chính và thuê tài chính máy bay.
6. Những đóng góp mới của đề tài:
- Về lý luận:
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về các nội dung pháp lý trong
giao dịch thuê tài chính máy bay. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế và
luật quốc gia có liên quan đề tài nghiên cứu, tìm ra những hạn chế và bất cập
của pháp luật nước ta và đưa ra các biện pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế. Từ đó đóng góp vào việc phát triển
pháp luật trong ngành hàng không dân dụng phục tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của ngành hàng không dân dụng nói riêng và của nước ta nói chung.
- Về thực tiễn:
Đề tài góp phần làm sáng tỏ thông lệ quốc tế và thực tiễn thuê tài chính
máy bay ở Việt Nam thông qua các giao dịch thuê tài chính máy bay của
Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam và đưa ra những biện pháp, hình thức,
kinh nghiệm thực tế của các nước nhằm vận dụng vào việc thực hiện các giao
dịch thuê tài chính máy bay của Việt nam trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn được bố cục gồm: Phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
Chương 1: Pháp luật và thông lệ quốc tế về thuê tài chính máy bay
trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn của Việt Nam về thuê tài chính và
thuê tài chính máy bay trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
Chương 3: Các vấn đề cần lưu ý trong giao dịch thuê tài chính máy bay
và hướng hoàn thiện pháp luật Việt nam.
5
CHƢƠNG 1
PHÁP LUẬT VÀ THÔNG LỆ QUỐC TẾ VỀ THUÊ TÀI CHÍNH MÁY BAY
TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG:
Nội dung của chương này sẽ gồm các vấn đề chính như sau:
- Thuê tài chính và thuê tài chính máy bay;
- Pháp luật quốc tế gồm một số điều ước quốc tế đa phương có liên
quan trực tiếp đến lĩnh vực thuê tài chính máy bay; khái quát hệ thống các
điều ước quốc tế đa phương trong ngành hàng không dân dụng hỗ trợ cho
hoạt động thuê tài chính máy bay;
- Thông lệ của một số nước tiêu biểu mà hoạt động thuê tài chính máy
bay phát triển nhất.
1.1 Thuê tài chính và thuê tài chính máy bay:
1.1.1 Thuê tài chính:
Hoạt động thuê tài chính hay thuê mua đã có nguồn gốc từ rất lâu đời
trong lịch sử văn minh thế giới. Từ hàng nghìn năm trước Công nguyên việc
cho thuê tài sản như các công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, quyền sử
dụng nước, ruộng đất, nhà cửa đã xuất hiện. Đó là những hình thức sơ khai
của hoạt động thuê tài chính. Đến đầu thế kỷ 19 ở các nước phương tây thì
hoạt động thuê tài chính đã gia tăng đáng kể do có sự phát triển mạnh của
khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Nhưng cũng phải đến đầu những năm 1950 thì hoạt động thuê tài chính
mới thực sự được hình thành và phát triển hoàn thiện và có tên gọi như hiện
nay. Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung hạn và dài hạn, nghiệp vụ tín dụng
thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra trước tiên ở Mỹ vào
năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển sang Châu Âu và
nhanh chóng lớn mạnh từ những năm 60. Tín dụng thuê mua cũng phát triển ở
Châu Á và nhiều khu vực khác trên thế giới từ đầu thập kỷ 70 đặc biệt là ở
Nhật bản. Ngành công nhiệp thuê tài chính có giá trị trao đổi chiếm khoảng
6
350 tỷ USD năm 1994. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm 25 đến
30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm [ 30].
Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển
nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao, tiện lợi và
hiệu quả cho các bên giao dịch.
Vậy Thuê tài chính (thuê mua) là gì? Khái niệm này xuất phát từ
nguyên nghĩa tiếng Anh “ Finance Lease” là Thuê tài chính hay còn gọi là
thuê vốn “ Capital Lease”. Về bản chất đây là một hoạt động tín dụng trung
và dài hạn mà theo phương thức này, người cho thuê cam kết mua tài sản,
thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài
sản đó. Người thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời
hạn đã được thỏa thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi
kết thúc hợp đồng thuê, bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc
tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện thỏa thuận khi ký kết hợp đồng.
Đứng dưới góc độ của bên đi thuê thì thuê tài chính được xem như là
mua một thiết bị bằng một khoản vay được bảo đảm và tài sản được đem ra
làm bảo đảm chính là tài sản được cho thuê. Các điều khoản của hợp đồng
cho thuê có thể đem so sánh với các ràng buộc mà một ngân hàng sẽ đưa ra
khi họ chấp thuận một khoản vay có bảo đảm. Như vậy, thuê tài chính được
xem là một loại hình tài trợ giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được
nguồn vốn.
Có rất nhiều thuận lợi trong hình thức thuê tài chính, như với hình thức
thuê tài sản thì một doanh nghiệp có thể được tài trợ đến 100% vốn hoặc thuê
tài sản giúp bảo toàn vốn. Tuy nhiên lợi ích chính của loại hình thuê tài chính
lại nằm ở khoản tiết kiệm về thuế. Loại hình thuê tài sản cho phép chuyển
nhượng lợi ích về thuế từ bên có yêu cầu thuê tài sản nhưng không hưởng hết
toàn bộ lợi ích từ thuế của chủ sở hữu mà chuyển sang một đối tác nhằm hỗ
trợ họ có thể hưởng được ưu thế này. Nếu luật thuế thu nhập doanh nghiệp
7
được bãi bỏ thì loại hình cho thuê tài chính cũng không còn tồn tại. Vì theo
nguyên tắc chung của luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì thu nhập phải chịu
thuế của một doanh nghiệp là doanh thu của doanh nghiệp đó trừ đi các chi
phí hợp lý như tiền trả lương nhân công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí mua
ngoài như tiền điện, tiền nước, tiền thuê tài sản, thuê thiết bị để sản xuất kinh
doanh Như vậy, khi một doanh nghiệp mua một thiết bị để sản xuất, kinh
doanh thì số tiền bỏ ra để mua thiết bị đó không được trừ đi khi tính thuế thu
nhập của doanh nghiệp đó mà chỉ một phần nhỏ khấu hao tài sản, thiết bị đó
được tính vào chi phí . Nhưng nếu thay vì mua, doanh nghiệp đó chỉ đi thuê
thiết bị để sản xuât, kinh doanh thì toàn bộ số tiền bỏ ra để thuê tài sản đó sẽ
được coi là chi phí và được khấu trừ khi tính thuế thu nhập của doanh nghiệp
đó. Trong giao dịch thuê tài chính nói chung và thuê tài chính máy bay nói
riêng thì số tiền doanh nghiệp thuê một thiết bị trong suốt thời hạn hợp đồng
thuê sẽ bằng với số tiền họ mua thiết bị đó. Trên thực tế thì doanh nghiệp vẫn
là người khai thác và sử dụng thiết bị để sản xuất kinh doanh như người chủ
sở hữu. Hơn nữa họ lại còn được hưởng một lợi ích từ thuế, đó là khoản tiền
được khấu trừ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp khi thuê thiết bị
mà trong trường hợp mua thiết bị đó thì doanh nghiệp không được khấu trừ.
Đối với các thiết bị có giá trị lớn hàng trăm triệu USD và là thiết bị sản xuất,
kinh doanh chính của doanh nghiệp như máy bay thì đây quả là một khoản
tiết kiệm không nhỏ.
Nói rõ hơn thì thuê tài sản là quá trình được quyền sử dụng, khai thác
các tính năng hữu ích của tài sản nhưng không có quyền sở hữu tài sản đó.
Việc sử dụng tài sản có thể đạt được bằng việc ký kết một hợp đồng thuê.
Người sử dụng cũng có thể lựa chọn phương án mua tài sản đó nên việc lựa
chọn thuê hay mua dẫn đến các nội dung tài trợ thay thế nhau. Hầu hết các tài
sản trong thuê tài chính đều là các tài sản mới. Bên đi thuê xác định loại tài
sản cần dùng và ký hợp đồng với bên cho thuê. Bên cho thuê sẽ mua những
8
tài sản đó trực tiếp từ các nhà sản xuất và sau đó chuyển cho bên đi thuê sử
dụng.
Ngoài ra đối với một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ như các quốc đảo
Câyman Island, Seychelles, Virgin Island có qui định pháp luật là không thu
bất cứ loại thuế nào của các công ty được thành lập trên lãnh thổ của họ. Đây
là các quốc đảo nhỏ nên họ thiết lập ra các qui định này nhằm thu hút các
công ty đến đặt trụ sở và chính quyền chỉ thu lợi thông qua các nguồn như
quản lý phí, cho thuê trụ sở, văn phòng, sinh hoạt và phương tiện đi lại Do
vậy các bên tài trợ cho thuê tài chính thường thành lập công ty cho thuê tài
chính tại các quốc đảo này để giảm các khoản tiền phải đóng thuế so với
thành lập công ty cho thuê tài chính ở các nơi khác. Đặc biệt thông lệ này
luôn được áp dụng trong giao dịch cho thuê tài chính máy bay. Đây cũng là
những ưu thế và lợi ích từ thuế mà các bên tham gia giao dịch cho thuê tài
chính được hưởng.
Thuê tài chính có những đặc điểm sau:
- Trong giao dịch thuê tài chính thì bên cho thuê sẽ không cung cấp
dịch vụ bảo trì và các dịch vụ khác kèm theo.
- Bên cho thuê sẽ nhận được các khoản thanh toán tiền thuê định kỳ
đầy đủ gần như bằng giá trị đầu tư ban đầu của tài sản.
- Bên đi thuê thường có quyền ưu tiên tiếp tục thuê tài sản khi hết hạn
hợp đồng.
Tuy nhiên trong hầu hết các hợp đồng thuê tài chính không cho phép
bên đi thuê hủy ngang hợp đồng. Hay có thể nói cách khác là bên đi thuê phải
có trách nhiệm thanh toán tất cả các khoản tiền thuê theo định kỳ và phải chấp
nhận đối mặt với rủi ro không thực hiện được các nghĩa vụ tài chính hay rủi
ro về phá sản doanh nghiệp. Từ các đặc điểm trên phương thức tài trợ bằng
thuê tài chính có thể được lựa chọn thay thế cho các phương thức đầu tư mua
tài sản.
9
Loại hình thuê tài chính chỉ phát huy ưu thế khi hội đủ ít nhất một trong
các điều kiện sau:
-Thuê tài chính phải được hưởng lợi ích từ thuế.
-Hợp đồng thuê tài chính phải giảm tính không chắc chắn về khoản giá
trị còn lại của tài sản.
-Các chi phí giao dịch để mua tài sản sẽ cao hơn là thuê tài chính. Đây
là nhưng chi phí giao dịch để huy động vốn, vay vốn, thế chấp, cầm cố tài
sản. Điều này dẫn đến việc giá để trả mua tài sản sẽ cao hơn khi được tài trợ
bằng nợ hoặc bằng vốn cổ phần so với đi thuê tài chính.
Nhưng điều quan trọng hơn cả đối với một doanh nghiệp lựa chọn thuê
tài chính là lợi ích từ khoản giảm thuế. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, thuê tài
chính với những ưu thế của nó đã được áp dụng phổ biến và rộng rãi với
những hình thức biến thể rất đa dạng, phong phú với trình độ kỹ thuật pháp
luật cao.
1.1.2 Thuê tài chính máy bay:
Trong lĩnh vực hàng không dân dụng thì hoạt động thuê tài chính máy
bay cũng đã phát triển từ rất sớm. Có thể nói rằng bản thân nghiệp vụ thuê tài
chính nói chung đã là một hoạt động đặc thù mang tính pháp lý rất riêng biệt.
Nhưng nói đến thuê tài chính máy bay thì chúng ta thấy rõ ngay tính đặc thù
pháp lý cao hơn nữa. Về khái niệm Thuê tài chính máy bay cơ bản cũng là
hoạt động tín dụng trung và dài hạn như đã nói ở trên nhưng áp dụng cho các
tàu bay dân dụng khai thác với mục đích thương mại như qui định của điều 3
Công ước Chicago 1944 về hàng không quốc tế và một phần không đáng kể
động cơ máy bay ( khi không được gắn liền với máy bay). Tầu bay là một loại
tài sản rất đặc thù có liên quan nhiều đến các vấn đề pháp lý của quốc gia
cũng như quốc tế, là nguồn nguy hiểm cao độ, liên quan đến an toàn, tính
mạng của nhiều người, an ninh, chủ quyền quốc gia của một đất nước. Ngoài
ra nó còn là một tài sản có giá trị kinh tế rất lớn, hoạt động trong phạm vi toàn
10
cầu. Một máy bay khai thác hàng không dân dụng quốc tế vừa phải đáp ứng
các qui định theo tiêu chuẩn pháp lý quốc tế vừa phải chịu sự điều chỉnh bởi
pháp luật của nhiều quốc gia. Do vậy, có những vấn đề đặc thù trong các qui
định pháp lý trong nghiệp vụ thuê tài chính máy bay. Đây là một trong những
giao dịch có nhiều khía cạnh pháp lý rất phức tạp. Nhưng tựu trung là các vấn
đề pháp lý liên quan đến các quyền pháp lý quốc tế cũng như các qui định
pháp lý của mỗi quốc gia đối với máy bay khai thác dân dụng. Đó là các trách
nhiệm và nghĩa vụ thực thi những cam kết quốc tế cũng như thiết lập một
hành lang pháp lý của các quốc gia nhằm tạo điều kiện cho các hãng hàng
không của quốc gia đó có đủ điều kiện tham gia vào hoạt động thuê tài chính
máy bay.
Ở cấp độ quốc tế đã có hàng loạt các công ước quốc tế trong lĩnh vực
hàng không dân dụng đề cập đến vấn đề này như Công ước Chicago 1944 về
hàng không dân dụng quốc tế; Công ước Geneva năm 1948 về công nhận
quốc tế các quyền đối với tầu bay; Công ước Cap Town 2001 về quyền lợi
quốc tế đối với trang thiết bị di động và Nghị định thư của Công ước Cap
town 2001 qui định riêng cho trang thiết bị là tầu bay. Đây là những văn bản
pháp lý quốc tế cơ bản và quan trọng có qui định điều chỉnh hoạt động thuê
tài chính tàu bay.
Như vậy, nhìn từ góc độ pháp lý thuê tài chính máy bay có rất nhiều
khía cạnh cần được xem xét. Đây là giao dịch có giá trị lớn, có những nét đặc
thù liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới cũng
như pháp luật quốc tế trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Cũng cần nói rằng
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào các thiết chế pháp lý ở cả
cấp độ toàn cầu, khu vực hay song phương như nước ta hiện nay thì việc
nghiên cứu và tìm hiểu các hình thức tài trợ vốn có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Từ đó chúng ta có thể xây dựng những cơ sở, thể chế pháp lý tương
xứng và hoàn thiện các văn bản pháp luật đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế tạo
11
điều kiện cho các ngành kinh tế mũi nhọn hòa nhập tốt trong cơ chế cạnh
tranh gay gắt trên thế giới hiện nay.
1.2. Các điều ƣớc quốc tế liên quan đến thuê tài chính máy bay:
Trong hoạt động thuê tài chính máy bay trên thế giới thì chúng ta
không thể không nhắc đến hai văn bản pháp lý quan trọng trong lĩnh vực này.
Đó là Công ước Geneva năm 1948 về công nhận quốc tế các quyền đối với
tầu bay và Công ước Cap Town 2001 về quyền lợi quốc tế đối với trang thiết
bị di động và Nghị định thư của Công ước Cap Town 2001 qui định riêng cho
trang thiết bị tầu bay.
1.2.1. Công ƣớc về công nhận quốc tế các quyền đối với tầu bay, ký
tại Geneva ngày 19 tháng 6 năm 1948 (Convetion for the International
Recognition of Rights in Aircraft signed at Geneva on 19
th
June 1948):
Ngay khi công ước Chicago 1944 được ký kết các quốc gia tham gia đã
khuyến nghị về việc cần sớm thông qua một công ước giải quyết vấn đề
chuyển nhượng quyền sở hữu tầu bay để đáp ứng việc phát triển giao lưu
thương mại trong việc thuê mua máy bay trong tương lai. Lý do để ký kết
công ước này là nhu cầu xuất khẩu tầu bay dưới mọi hình thức cần phải được
bảo đảm về mặt pháp lý. Các quốc gia thành viên cần phải cam kết về pháp lý
các quyền đối với tầu bay. Tuy Công ước chỉ có 23 điều nhưng Công ước đã
điều chỉnh được vấn đề cơ bản và cấp thiết là các quyền pháp lý đối với tầu
bay trong đó có các quyền theo hợp đồng thuê tài chính máy bay. Thực chất
nội dung chính được qui định từ điều 1 đến điều 10 của Công ước.
1.2.1.1. Đối tƣợng và phạm vi áp dụng của công ƣớc Geneva 1948:
Ngay tại điều 1.1 của Công ước đã qui định đối tượng của Công ước là
các quyền pháp lý đối với tầu bay:
“ Các quốc gia kết ước cam kết công nhận:
a. Quyền sở hữu tầu bay,
12
b. Quyền thụ đắc tầu bay thông qua việc mua sắm gắn liền với quyền
chiếm hữu tầu bay,
c. Quyền chiếm hữu tầu bay trên cơ sở hợp đồng thuê có thời hạn từ
sáu tháng trở lên,
d. Thế chấp, cầm cố và các quyền tương tự đối với tầu bay được thiết
lập trên cơ sở thỏa thuận như là một sự bảo đảm cho việc thanh toán
một khoản nợ ” [23].
Như vậy giao dịch thuê tài chính máy bay nằm trong đối tượng điều
chỉnh của công ước Geneva 1948. Các quyền giữa các bên tham gia giao dịch
thuê tài chính máy bay sẽ được các quốc gia thành viên công ước công nhận
và bảo vệ. Các quyền này bao gồm quyền sở hữu tầu bay, quyền nhận các
khoản tiền thuê máy bay của bên cho thuê như là một khoản nợ có bảo đảm
mà bên đi thuê phải thanh toán theo hợp đồng thuê và quyền chiếm hữu tầu
bay trên thực tế của người đi thuê theo hợp đồng thuê máy bay trung và dài
hạn (từ 6 tháng trở lên).
Phạm vi áp dụng của công ước là đối với các tầu bay hoạt động trong
lĩnh vực hàng không dân dụng. Điều 13 qui định : “ Công ước này không áp
dụng đối với tầu bay sử dụng trong quân sự, hải quan, cảnh sát”[23].
1.2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể:
Nội dung chính của Công ước Geneva 1948 là qui định các quyền và
nghĩa vụ, trách nhiệm của các quốc gia tham gia và của các chủ thể khác có
liên quan (người bán, người mua, người cho thuê, các chủ nợ, nhà chức trách
hàng không và những người có liên quan khác ) đối với việc thực thi và bảo
đảm các quyền pháp lý đối với máy bay trong đó chủ yếu là quyền của người
cho thuê máy bay và người đi thuê máy bay. Đó là quyền của người đi thuê
máy bay chiếm hữu máy bay để khai thác và sử dụng đối với các hợp đồng
thuê có thời hạn từ sáu tháng trở lên (mục c điều 1.1). Mà chủ yếu các hợp
13
đồng thuê máy bay trung và dài hạn là các hợp đồng được thực hiện theo hình
thức thuê tài chính máy bay.
- Quyền pháp lý của ngƣời đi thuê máy bay:
Quyền pháp lý của người đi thuê máy bay được qui định tại mục b và c
điều 1 Công ước Geneva 1948. Đó là quyền chiếm hữu, sử dụng và khai thác
máy bay thông qua hợp đồng thuê tài chính máy bay hoặc hợp đồng thuê máy
bay có thời hạn từ sáu tháng trở lên. Qui định này nhằm đảm bảo quyền
chiếm hữu và khai thác máy bay trên thực tế của người đi thuê trong hoạt
động kinh doanh của họ. Người đi thuê có toàn quyền quyết định việc khai
thác máy bay như thế nào để có lợi nhất cho mình trong lĩnh vực thương mại
theo các điều khoản của hợp đồng mà bên cho thuê không được can thiệp vào.
- Quyền pháp lý của ngƣời cho thuê máy bay:
Quyền và nghĩa vụ của người cho thuê máy bay được các quốc gia
thành viên công nhận (mục d điều 1.1). Đây chính là các quyền của chủ sở
hữu máy bay được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận (hợp đồng thuê máy bay)
như là một sự bảo đảm cho việc thanh toán một khoản nợ ( tiền thuê máy bay)
trong giao dịch cho thuê tài chính máy bay vì người cho thuê máy bay đã bỏ
vốn tài trợ để mua máy bay rồi giao cho người đi thuê khai thác và sử dụng.
Các quyền này tương tự như quyền thế chấp và cầm cố tài sản và cũng được
coi như là một hình thức giao dịch có bảo đảm.
Trong Công ước này chúng ta thấy một nguyên tắc cơ bản xuyên suốt
đó là việc áp dụng luật của quốc gia đăng ký tầu bay thông qua các điều kiện
công nhận, trừ một số ngoại lệ được qui định tại công ước. Điều 1.1 qui định
rằng:
“ với điều kiện các quyền nói trên
(i). Được thiết lập phù hợp với luật pháp của quốc gia kết ước nơi tầu
bay đăng ký quốc tịch tại thời điểm thiết lập các quyền đó.
14
(ii). Các quyền đó được đăng ký hợp lệ trong một sổ đăng ký công khai
ở quốc gia ký kết nơi tầu bay đăng ký quốc tịch” [23].
Điều này có nghĩa là các quyền pháp lý đối với máy bay được qui định
trong một giao dịch hay hợp đồng cụ thể sẽ được các quốc gia kết ước công
nhận nếu các quyền đó được thiết lập không trái với luật pháp về lĩnh vực
tương ứng của quốc gia đăng ký tầu bay tại thời điểm đăng ký. Ngoài ra các
quyền pháp lý này phải được đăng ký tại quốc gia nơi tầu bay đăng ký theo
các trình tự và thủ tục do pháp luật quốc gia đó ban hành. Chúng ta hãy xem
xét một ví dụ như trong giao dịch thuê tài chính máy bay giữa một bên là
pháp nhân Việt nam và một bên nước ngoài khi Việt nam là thành viên của
công ước Geneva 1948 đồng thời cũng là quốc gia nơi tầu bay được đăng ký.
Trong trường hợp này thì các qui định của công ước Geneva 1948 sẽ được áp
dụng. Quyền của các bên tham gia (bên cho thuê, bên đi thuê ) được thiết
lập, phát sinh từ giao dịch thuê tài chính máy bay đó sẽ được Việt nam công
nhận và bảo vệ khi các quyền đó phù hợp với luật pháp về thuê tài chính máy
bay của Việt nam và được đăng ký trong sổ đăng ký của Cục hàng không dân
dụng Việt nam theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật về đăng ký tầu bay
của Việt nam.
- Thi hành án và luật áp dụng:
Về thủ tục bán đấu giá máy bay để thi hành án thì áp dụng nguyên tắc
luật quốc gia nơi tiến hành bán tầu bay. Điều này được thể hiện thông qua
qui định của điều 7 của công ước Geneva 1948: “ Thủ tục bán đấu giá một
tầu bay để thi hành án được xác định theo luật của quốc gia kết ước nơi tiến
hành bán” [23]. Chúng ta có thể thấy các qui định dẫn chiếu ngược lại đến
pháp luật của các quốc gia nơi đăng ký hay nơi bán tầu bay thi hành án. Như
vậy vai trò của các qui định trong pháp luật quốc gia về các vấn đề này rất
quan trọng vì chính các qui định của pháp luật quốc gia sẽ được áp dụng vào
các trường hợp trên thực tế để thực thi các quyền pháp lý đối với máy bay.
15
- Quyền pháp lý đối với phụ tùng máy bay:
Công ước Geneva 1948 còn mở rộng phạm vi điều chỉnh là công nhận
các quyền pháp lý đối với cả các phụ tùng của máy bay với điều kiện là các
phụ tùng đó vẫn còn ở những nới xác định và cũng được ghi vào sổ đăng bạ
tàu bay. Điều 10 qui định:
“ 1. Nếu một quyền qui định tại điều 1 đã được đăng ký đối với một tầu
bay và được bảo đảm thanh toán, phù hợp với luật quốc gia ký kết nơi
đăng ký tầu bay, mở rộng tới các phụ tùng thay thế được lưu giữ tại
những nơi xác định, thì quyền đó được các quốc gia kết ước công nhận
trong chừng mực các phụ tùng thay thế vẫn còn ở những nơi xác
định ” [23]
- Các ngoại lệ đƣợc áp dụng ngoài pháp luật của các quốc gia
thành viên:
Tuy nhiên công ước Geneva 1948 cũng qui định một số ngoại lệ cần
phải được các quốc gia kết ước tuân thủ ngoài các qui định của pháp luật quốc
gia. Ngoài các quyền qui định tại khoản 1 điều 1 là sở hữu tầu bay, chiếm hữu
tầu bay thông qua việc mua sắm, chiếm hữu tầu bay thông qua hợp đồng thuê
và quyền thế chấp, cầm cố và các quyền tương tự với tầu bay. Các quốc gia
kết ước có thể công nhận các quyền khác ngoài các quyền này. Nhưng khi áp
dụng pháp luật quốc gia thì các quyền ngoại lệ đó không được ưu tiên hơn các
quyền mà công ước qui định. Điều này vừa mở rộng phạm vi công nhận các
quyền pháp lý của các quốc gia kết ước đáp ứng sự phát triển đa dạng và
phong phú của các quan hệ thương mại theo thỏa thuận hợp đồng, đồng thời
nhấn mạnh việc ưu tiên hàng đầu thực thi các cam kết quốc tế của các quốc
gia. Khoản 2 điều 1 qui định rằng:
“ Không điều nào trong công ước này ngăn cản việc công nhận bất kỳ
quyền nào đối với tầu bay theo luật của bất kỳ quốc gia kết ước nào;
nhưng các quốc gia kết ước không được thừa nhận hoặc công nhận bất
16
kỳ quyền nào được ưu tiên hơn những quyền được nói tại khoản 1 của
điều này” [23].
Hoặc khi bán tầu bay để thi hành án thì trước khi áp dụng luật quốc gia
nơi tiến hành bán các qui định sau sẽ phải được tuân thủ như ngày, nơi bán
phải định ra trước ít nhất 6 tuần, chủ nợ thi hành án phải cung cấp cho tòa án
hay nhà chức trách có thẩm quyền bản trích lục được chứng nhận của các
đăng ký liên quan đến tầu bay, phải thông báo công khai việc bán tại nơi tầu
bay đăng ký ít nhất một tháng trước ngày ấn định, ngoài ra còn phải thông
báo cho chủ sở hữu và cho những người khác có quyền đối với tầu bay được
ghi trong sổ đăng bạ tầu bay (điều 7 khoản 2). Các quyền yêu cầu về việc bồi
thường chi phí cho việc cứu hộ tầu bay hoặc các chi phí cho việc gìn giữ tầu
bay phải được các quốc gia ký kết công nhận và ưu tiên trên tất cả các quyền
khác đối với tầu bay (điều 4.1) trong vòng 3 tháng từ ngày kết thúc cứu hộ
hoặc gìn giữ tầu bay. Sau 3 tháng thì các quyền nói trên không được công
nhận trừ khi quyền đó được ghi vào sổ đăng bạ. Việc bán tầu bay để thi hành
án sẽ không có hiệu lực trừ khi các quyền được ưu tiên trên trái quyền của
chủ nợ được thi hành án phù hợp với các qui định của công ước đã được thiết
lập trước nhà chức trách có thẩm quyền mà thủ tục bán đã được giải quyết
hoặc đã được người mua thừa nhận ( điều 7.4). Như vậy ngoài việc áp dụng
luật trong nước, các quốc gia kết ước cũng phải tuân thủ một số tiêu chuẩn
chung do công ước đề ra khi thực thi các quyền pháp lý đối với máy bay của
các chủ thể liên quan.
Ngoài ra Công ước còn một số qui định về các thủ tục ký kết, gia nhập,
thủ tục bãi bỏ công ước, cơ quan lưu trữ các văn kiện gia nhập
Qua các phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng Công ước Geneva
1948 đã bước đầu tạo ra cơ sở pháp lý trong hoạt động thuê tài chính máy
bay. Công ước Geneva 1948 qui định các quốc gia kết ước đều phải có trách
nhiệm đảm bảo các quyền pháp lý đối với tầu bay bằng chính pháp luật của
17
quốc gia đó. Như vậy để đáp ứng được các qui định trên, các quốc gia kết ước
buộc phải thiết lập ra hàng loạt qui định của pháp luật trong nước, các cơ
quan đăng ký các quyền cùng với các trình tự, thủ tục đăng ký các quyền
pháp lý đối với máy bay và phương thức giải quyết khi có các tranh chấp xảy
ra.
1.2.2. Công ƣớc Cap Town 2001 về quyền lợi quốc tế đối với trang
thiết bị di động và Nghị định thƣ của công ƣớc Cap Town 2001 qui định
riêng cho trang thiết bị tầu bay, ký tại Cap Town (Nam Phi) ngày 16
tháng 11 năm 2001 (Convetion on International Interests in Mobile
Equipment and Protocol to the Convetion on International Interests in
Mobile Equipment on Matters Specific to Aircraft Equipment, signed at
Cap Town on 16
th
November 2001):
Đứng trước các thay đổi to lớn trong lĩnh vực hàng không dân dụng,
việc tài trợ và cho thuê dựa trên tài sản là những phương pháp lựa chọn tài trợ
tốt nhất để mua và sử dụng máy bay. Hình thức tài trợ thuê tài chính máy bay
đã đặt ra vấn đề trách nhiệm của các quốc gia trong việc công nhận và thực
thi các quyền pháp lý đối với máy bay, đặc biệt là các quyền liên quan tới khả
năng nhanh chóng thực hiện các quyền theo hợp đồng. Tuy vậy hiện nay luật
pháp của các nước thường không phù hợp với các nguyên tắc nhấn mạnh đến
việc tài trợ và cho thuê dựa trên tài sản. Các rủi ro tiềm ẩn của một khuôn khổ
pháp lý quốc gia không đầy đủ trong lĩnh vực này là rất lớn.
Các vấn đề nêu trên cần phải được đề cập đến trong các văn bản pháp
lý quốc tế. Đó là lý do công ước Cap Town ra đời năm 2001 và là văn bản
pháp lý quốc tế đầy đủ nhất về thuê tài chính máy bay. Công ước là một văn
bản hợp nhất được hình thành từ hai tài liệu là Công ước cơ bản chung và
Nghị định thư cụ thể đối với trang thiết bị máy bay.
Khái niệm “ Quyền lợi quốc tế – International interests” trong Công
ước Cap Town 2001 chính là các quyền pháp lý và lợi ích thương mại của
18
các bên tham gia các giao dịch thương mại trong kinh doanh quốc tế cũng
như lĩnh vực hàng không dân dụng đối với trang thiết bị di động nói chung và
máy bay nói riêng được thừa nhận bằng việc các quốc gia thành viên thực thi
các cam kết quốc tế theo qui định của Công ước Cap Town 2001.
1.2.2.1. Đối tƣợng và phạm vi áp dụng của Công ƣớc Cap Town
2001:
Công ước Cap Town 2001 được soạn thảo trong lĩnh vực thương mại
và hàng không dân dụng, liên quan đến trách nhiệm của các quốc gia thành
viên trong việc hình thành, thực thi tính ưu tiên của các quyền lợi về an ninh,
cho thuê đối với trang thiết bị di động trong đó có máy bay. Công ước cũng
có các qui định về phá sản nhằm bảo vệ các quyền về hợp đồng trong trường
hợp bị giải thể. Điều 2 qui định các loại trang thiết bị là đối tượng áp dụng
của Công ước Cap Town 2001:
“ Các trang thiết bị theo công ước bao gồm:
a. khung tầu bay, động cơ tầu bay và trực thăng;
b. xe lửa và
c. các tài sản trên không” [ 24]
Các quyền và lợi ích quốc tế phát sinh trong giao dịch cho thuê tài
chính máy bay sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Cap Town 2001
khi vào thời điểm ký kết hợp đồng bên đi thuê hay con nợ có trụ sở ở một
quốc gia thành viên công ước Cap town 2001 mà không cần quan tâm đến
việc bên cho thuê, chủ nợ có trụ sở tại quốc gia thành viên công ước Cap
Town hay không. Điều 3 qui định:
“ 1. Công ước này được áp dụng khi vào thời điểm ký kết thỏa thuận
thiết lập và trao các qyền lợi quốc tế, con nợ có trụ sở tại một quốc gia
ký kết.
2. Việc chủ nợ có trụ sở tại một quốc gia không tham gia ký kết Công
ước không ảnh hưởng đến việc áp dụng Công ước này” [ 24 ].
19
“ Nơi con nợ có trụ sở” là một khái niệm quá mơ hồ và không xác định.
Do vậy tại điều 4 Công ước Cap Town 2001 đã đưa ra các tình huống và khả
năng nơi mà con nợ đặt trụ sở tại đó:
“ Con nợ có trụ sở tại bất kỳ quốc gia ký kết nào mà:
a. theo luật, con nợ được thành lập hoặc hình thành;
b. nơi con nợ có văn phòng hoặc trụ sở được đăng ký hợp pháp;
c. nơi con nợ có trung tâm điều hành; hoặc
d. nơi con nợ có địa điểm kinh doanh.
Nếu con nợ có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh, thì địa điểm kinh
doanh sẽ được hiểu là địa điểm kinh doanh chính hoặc là nơi thường
trú nếu như con nợ không có địa điểm kinh doanh” [24].
Qui định này là rất rõ ràng và mang tính chất mở rộng phạm vi tiềm
năng áp dụng của Công ước để trong mọi trường hợp đều xác định được địa
điểm “ Nơi con nợ có trụ sở”.
1.2.2.2. Nội dung của Công ƣớc Cap Town 2001:
Nội dung chính của công ước Cap Town 2001 là:
Thứ nhất, thiết lập một tiêu chuẩn thống nhất để tạo ra một “quyền lợi
pháp lý quốc tế” như thỏa thuận về an ninh, thỏa thuận về giữ quyền sở hữu
hay thỏa thuận về cho thuê được nêu cụ thể đối với thiết bị máy bay. Trong
Công ước Geneva 1948 thì các quyền pháp lý của các bên tham gia giao dịch
thuê tài chính máy bay được đảm bảo chủ yếu bằng các qui định của pháp luật
quốc gia nơi đăng ký máy bay. Các quyền pháp lý này được thể hiện ở mức
độ quốc tế, thống nhất hơn trong Công ước Cap Town. Điều này có nghĩa là
các quốc gia ký kết đều công nhận các quyền pháp lý quốc tế được ghi nhận
trong Công ước Cap Town cao hơn các quyền pháp lý theo pháp luật quốc gia
đó. Các quyền pháp lý quốc tế trong Công ước Cap Town được đảm bảo chủ
yếu bằng các qui định của bản thân Công ước chứ không phải là bằng pháp
luật quốc gia.Việc thừa nhận các quyền pháp lý quốc tế này đã khắc phục
20
được nhược điểm là sự thiếu sót, không đầy đủ của pháp luật quốc gia trong
lĩnh vực cho thuê tài chính máy bay.
Thứ hai là một quyền ưu tiên trước hết cho việc nộp hồ sơ và thông báo
đăng ký trang thiết bị di động (máy bay) cho Cơ quan đăng ký quốc tế (cơ
quan này do bản thân công ước Cap Town 2001 thành lập), được áp dụng.
Như vậy Cơ quan đăng ký quốc tế của Công ước Cap Town rõ ràng là thống
nhất và đồng bộ hơn nhiều so với các Cơ quan đăng ký của từng quốc gia
theo qui định của Công ước Geneva 1948. Cơ quan đăng ký quốc tế của Công
ước Cap Town chính là nơi trao đổi, cung cấp thông tin và phối hợp hành
động giữa các Cơ quan đăng ký của từng quốc gia thành viên. Điều này tạo
điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia giao dịch thuê tài chính máy bay khi
đăng ký các quyền pháp lý cũng như khi họ muốn tìm hiểu các thông tin về
các giao dịch thuê tài chính máy bay trên toàn thế giới hay truy cập để tìm
hiểu về tình trạng đăng ký của một máy bay cụ thể nào đó đã đăng ký tại Cơ
quan đăng ký quốc tế của Công ước Cap Town.
Thứ ba là việc bồi thường vi phạm hợp đồng áp dụng cho các chủ nợ;
quyền chiếm hữu yên ổn cũng được áp dụng cho người đi thuê (Bên cho thuê,
bên cho vay không được can thiệp vào quyền sử dụng và khai thác máy bay
của người đi thuê). Đây là một nội dung mới rất có ý nghĩa được Công ước
Cap Town 2001 đề cập. Các trường hợp xử lý chấm dứt hợp đồng thuê tài
chính máy bay do các bên vi phạm các cam kết và các chế tài bồi thường đã
được qui định cụ thể và trực tiếp ngay trong bản thân Công ước Công ước
Cap Town 2001 chứ không phải bằng các qui định của pháp luật quốc gia.
Các qui định này giúp cho các bên tham gia giao dịch cho thuê tài chính máy
bay ngay lập tức thực hiện các chế tài, yêu cầu thực hiện chế tài khi có các vi
phạm hợp đồng xảy ra.
Thứ tư là các qui định về các hệ thống pháp luật có quyền tài phán. Các
qui định về thẩm quyền xét xử các tranh chấp phát sinh từ giao dịch cho thuê
21
tài chính máy bay được mở rộng để tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn các cơ quan
giải quyết tranh chấp cho các bên tham gia giao dịch thuê tài chính máy bay.
Bốn nội dung chính này của Công ước 2001 sẽ được phân tích sâu hơn
ở phần dưới đây.
1.2.2.3. Một số nội dung của công ƣớc Cap Town chung cơ bản
2001:
-Tạo thành một lợi ích quốc tế:
Lợi ích quốc tế ở đây là những lợi ích, quyền được chủ nợ (bên cho
thuê máy bay), con nợ ( bên đi thuê máy bay) nắm giữ khi tham gia giao dịch
thuê tài chính máy bay. Các lợi ích này chính là các quyền pháp lý của bên
cho thuê, bên đi thuê theo thỏa thuận trong các hợp đồng thuê tài chính máy
bay. Công ước Cap Town 2001 qui định các điều kiện chính thức đối với việc
tạo thành một lợi ích quốc tế, gồm có 4 tiêu chí. Trước tiên, các thỏa thuận có
liên quan (các hợp đồng thuê tài chính máy bay) phải được làm thành văn
bản. Thứ hai, các lợi ích quốc tế là riêng biệt không lệ thuộc vào luật pháp
quốc gia. Nhưng đồng thời các quyền về tài sản tồn tại trước khi hình thành
lợi ích quốc tế ( trước khi tham gia giao dịch thuê tài chính máy bay) theo
luật áp dụng tương ứng vẫn có ý nghĩa quan trọng. Có thể đưa một ví dụ minh
họa là một kẻ trộm ăn cắp một động cơ máy bay thì anh ta không thể giao kết
các lợi ích quốc tế đối với đối tượng bị đánh cắp đó. Điều kiện thứ ba và thứ
tư là trong một hợp đồng cho thuê tài chính máy bay thì cả đối tượng của hợp
đồng và các nghĩa vụ đảm bảo phải được xác định. Điều 7 qui định quyền lợi
quốc tế của bên cho thuê, chủ nợ:
“ Một quyền lợi quốc tế được thiết lập theo Công ước này phải có một
thỏa thuận tạo ra và quyền lợi đó:
a. bằng văn bản;
b. liên quan đến một trang thiết bị mà người bảo đảm, người bán có
điều kiện hoặc người cho thuê có quyền định đoạt;
22
c. cho phép trang thiết bị đó được xác định theo Nghị định thư; và
d. Trong trường hợp có một thỏa thuận bảo đảm thì nghĩa vụ có bảo
đảm đó được xác định nhưng không cần thiết phải nêu số tiền hoặc
giá trị cao nhất được bảo đảm.” [ 24]
Đối với bên đi thuê máy bay thì quyền lợi quốc tế chính là quyền chiếm
hữu yên ổn đối với trang thiết bị di động được qui định cụ thể trong từng
Nghị định thư. Đối với hoạt động cho thuê tài chính máy bay thì đó là quyền
khai thác và hưởng lợi ích thương mại của người đi thuê từ hoạt động sử dụng
máy bay mà họ đã thuê. Bên cho thuê và các bên liên quan khác không được
phép can thiệp vào việc khai thác và sử dụng máy bay của bên thuê (Các qui
định về quyền chiếm hữu yên ổn của bên đi thuê sẽ được nói rõ hơn ở Nghị
định thư về máy bay).
Như vậy một trong các mục tiêu chủ yếu của công ước Cap Town
hướng tới là trách nhiệm của các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ các
quyền pháp lý của bên cho thuê, bên đi thuê trong các giao dịch cho thuê tài
chính máy bay như đã nêu trên. Điều 2 công ước Cap Town 2001 qui định: “
Công ước này qui định về việc thành lập và thực thi các quyền lợi quốc tế đối
với tầu bay và các quyền liên quan ” [ 24 ].
-Các biện pháp khắc phục lỗi:
Trong giao dịch cho thuê tài chính máy bay có một đặc điểm là bên cho
thuê - người chủ sở hữu pháp lý đối với máy bay – không chiếm hữu máy bay
mà người thực tế nắm quyền sử dung, khai thác máy bay lại là bên đi thuê.
Do vậy điều cần được quan tâm nhất trong hợp đồng cho thuê tài chính máy
bay đó là việc xử lý, khắc phục khi bên đi thuê vi phạm hợp đồng hay còn gọi
là có lỗi. Các biện pháp khắc phục lỗi chính là các chế tài được áp dụng khi
có vi phạm hợp đồng xảy ra.
Bên cho thuê và bên đi thuê có thể tự do đồng ý với nhau trong hợp
đồng những gì được gọi là trường hợp mắc lỗi. Hợp đồng đó nếu được lập sẽ