Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu trong tương quan so sánh với pháp luật Australia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT










NGUYỄN THỊ ÁNH NGUYỆT









PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU TRONG TƯƠNG
QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT AUSTRALIA












LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




















Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT











Nguyễn Thị Ánh Nguyệt







PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU TRONG TƯƠNG
QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT AUSTRALIA




Chuyên ngành : Luật quốc
tế

Mã số : 60 38
60









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN BÁ
DIẾN












Hà Nội –
2011




MỤC LỤC
Trang


Lời cảm ơn
Lời cam đoan

Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU
1

Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ 5

BỒI THƯỜNG THIỆT DO Ô NHIỄM DẦU

1.1. Thực trạng về ô nhiễm dầu tại Việt Nam và các nước trên 5
thế giới
1.2. Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu và vai trò của chế định bồi 14


thường thiệt hại do ô nhiễm dầu


1.2.1 Một số khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
14


1.2.2 Vai trò của chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
19


1.3 Cơ sở pháp lý của chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiếm dầu
21


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT


NAM HIỆN HÀNH VÀ CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ MÀ
25

VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO Ô NHIỄM DẦU.
2.1. Các văn bản pháp luật trong nước điều chỉnh về bồi thường 25

thiệt hại do ô nhiễm dầu .


2.1.1 Các văn bản pháp luật chung 25


2.1.2 Một số văn bản pháp luật chuyên biệt 39


2.2 Các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về bồi thường 51
thiệt hại ô nhiễm dầu
2.3 Một vài bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về 58
chế định bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
Chương 3: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT AUSTRALIA VỀ 66

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO Ô NHIỄM DẦU VÀ
KINH
NGHIỆM

CHO
VIỆT NAM.
3.1. Hệ thống Pháp luật về phòng chống ô nhiễm dầu trên Biển và 66

bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu của Australia (Úc).


3.1.1 Giới thiệu khái quát về Australia 66

3.1.2 Các quy định chung của pháp luật
Australia
về ô nhiễm dầu. 68


3.1.3 Các đạo luật đáng chú ý của Liên bang Australia quy định về 73
trách nhiệm và chế tài liên quan đến ô nhiễm dầu trên biển.

3.1.4 Các Công ước quốc tế Australia là thành viên liên quan đến ô 75
nhiễm dầu.
3.1.5 Quy định về Quyền tài phán theo pháp luật Australia khi giải 75

quyết các vấn đề liên quan đến ô nhiễm dầu


3.1.6 Các quy định về thẩm quyền xét xử và tố tụng.
77


3.1.7 Vấn đề trách nhiệm dân sự
79


3.1.8 Khiếu nại đòi bồi thường thiệt hại
81


3.1.9 Biện pháp đảm bảo tài chính
83


3.1.10 Bồi thường thiệt hại
84


3.1.11 Quỹ bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu
88



3.1.12 Trách nhiệm hình sự
89


3.2 Bài học kinh nghiệm và khuyến nghị, đề xuất cho Việt Nam 92
trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về
bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.

3.2.1
Sự
cần thiết của việc
kiểm
soát ô
nhiễm dầu

trên
biển bằng Luật 92


3.2.2 Hoàn thiện các quy định về Ủy ban quốc gia ứng phó sự cố tràn dầu 100
độc lập và
Quỹ

quốc
gia đối phó với nạn ô nhiểm dầu trên biển.
3.2.3 Bổ sung và hoàn thiện các quy định về việc lượng giá các thiệt hại 103
kinh tế do ô nhiễm dầu trong các văn bản pháp luật.
3.2.4 Hoàn thiện các quy định về trình tự thủ tục giải quyết tranh 106
chấp về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.


3.2.5 Tích cực Tham gia các công ước quốc tế về ô nhiễm dầu. 106

KẾT LUẬN 109

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO





































DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AMSA : Cơ quan an toà n biể n củ a Australia .
BLHS 1999 : Bộ luậ t Hì nh sự năm 1999
BLDS 2005 : Bộ luật dân sự năm 2005.
BLTTDS 2005 : Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.
BUNKER 2001 : Công ướ c quố c tế về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệ t
hại do ô nhiễ m dầ u từ kho nhiên liệ u củ a tà u , 2001
BTTH : Bồi thường thiệt hại
BVMT : Bảo vệ môi trường
CLC 1992 : Công ướ c quố c tế về trá ch nhiệ m dân sự đố i vớ i cá c thiệ t hạ i
do ô nhiễ m dầ u 1992
CUQT/ ĐUQT : Công ước quốc tế/ Điều ước quốc tế
GT : Tức Gross Ton, bằng 2240 pounds hay 1.016,047kg
(tương đương Tấn)
GTVT : Giao thông vận tải.
HNS 1996 : Công ướ c quố c tế về trá ch nhiệ m dân sự và bồ i thườ ng tổ n thấ t
(thiệt hại) liên quan đế n vậ n chuyể n cá c chấ t nguy hiể m và độ c

hại bằng đường biển 1996.
IMO : Tổ chức Hàng Hải quốc tế
KHQG : Kế hoạch quốc gia
LHQ : Liên Hợp Quốc
MARPOL 73/78 :Công ướ c quố c tế về phò ng ngừ a ô nhiễ m biể n từ tà u 1973
đượ c sử a đổ i, bổ sung bở i Nghị đị nh thư 1978
OPRC 1990 : Công ướ c quố c tế về sẵ n sà ng ứ ng phó và hợ p tá c đố i vớ i ô
nhiễ m dầ u 1990
SCTD : Sự cố tràn dầu
SOLAS : Công ướ c quố c tế về An toà n sinh mạ ng ngườ i trên biể n
FUND (FC) : Công ước quốc tế thành lập Quỹ quốc tế bồi thường thiệt hại
từ ô nhiễm dầu.
SDR : Quyền rút vốn đặc biệt, tỷ lệ chuyển đổi hàng ngày cho các
quyền rút vốn đặc biệt (SDR) có thể được tìm thấy trên trang
web của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF ) tại www.imf.org dưới "Tài
chính IMF ".
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao.
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam.
TNMT : Tài nguyên môi trường.
TNDS : Trách nhiệm dân sự
TTCP : Thủ tướng Chính phủ
UBQG : Ủy ban quốc gia
UCSCTD : Ứng cứu Sự cố tràn dầu.
UNLOCS 82 : Công ước quốc tế về Luật Biển 1982
UBND : Ủy ban nhân dân.







DANH SÁCH BẢNG BIỂU

Bảng 3. 1. Nhữ ng sự cố gây ô nhiễ m dầ u tạ i Australia 68
Bảng 3.2: Căn cứ đánh giá mức độ sự cố tràn dầu 73
Bảng 3.3: Mứ c giới hạ n trá ch nhiệ m theo CLC và mứ c bồ i thườ ng theo FC (FUND)
tính đến năm 2003 86
Bảng 3.4: Mứ c giớ i hạ n trá ch nhiệ m C LC và mứ c bồ i thườ ng thiệ t hạ i theo FC
(FUND) từ năm 2003 87
Bảng 3.5: Mứ c bồ i thườ ng theo HNS 1996 88




























DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1 : Hình ảnh tràn dầu ở Trung Quốc năm 2010 6
Hình 1.2 : Hình ảnh về Sự cố tràn dầu trên vịnh Mexico- Hoa Kỳ năm 2010 7
Hình 1.3 : Hình ảnh tràn dầu ở tỉnh Quảng Nam năm 2007 8
Hình 1.4 : Ô nhiễm dầu không rõ nguồn gốc ở ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu
năm 2007 11
Hình 1.5 : Ô nhiễm và thu gom dầu thải tại Côn Đảo năm 2007 13




























MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong những thập niên gần đây, ô nhiễm dầu trở thành một trong những vấn
nạn của nhiều quốc gia vùng ven biển trên thế gới, trong đó có Việt Nam. Thực tế
cho thấy những vụ đắm tàu, tràn dầu đã và đang đe dọa nghiêm trọng đến môi
trường biển trên khắp hành tinh. Do đó đây là một vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà
cả thế giới quan tâm.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều các hoạt động khai thác dầu khí và hoạt
động vận tải trên biển. Theo thống kê từ 1987 đến nay đã xảy ra khoảng trên 90 vụ
tràn dầu lớn nhỏ, trong đó có một số vụ điển hình gây ra tình trạng ô nhiễm dầu đặc
biệt nghiêm trọng. Từ đó có tác động tiêu cực đến môi trường, hệ sinh thái và ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước mà trước tiên phải kể đến những
thiệt hại đối với nến kinh tế quốc gia như ngành kinh tế thuỷ sản, làm muối, du lịch
và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Cũng theo thố ng kê củ a Bộ
Tài nguyên môi trường , lượ ng dầ u trà n làm ô nhiễ m biể n Việ t Nam đến năm 1992 là
7.380 tấ n, năm 1995 là 10.020 tấ n, và theo mức độ gia tăng của vận tải biển , khai
thác dầu khí và công nghiệp hóa , năm 2000 lên đế n 17.650 tấ n. Dự bá o đế n năm
2010, lượ ng dầ u trà n gây ô nhiễ m biể n Việ t Nam có thể lên đế n trên 21.000 tấ n. Tuy

nhiên, phầ n lớ n nhữ ng thiệ t hạ i do ô nhiễ m dầ u gây ra trên cá c vù ng biể n củ a nước
ta đề u chưa đượ c đá nh giá đú ng mứ c và không đượ c bồ i thườ ng . Lý do là hệ thống
pháp luật trong nước điều chỉnh về vấn đề này vừa thiếu lại vừa yếu . Các cơ quan có
thẩ m quyề n , cơ quan chuyên môn và cả chính quyề n đị a phương còn thiếu kinh
nghiệm trong việ c xử lý các sự cố tràn dầu cũng như tiến hành các nghiệp vụ cấn
thiết để yêu cầu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu. Đặc biệt là trong việc xá c định
nguồ n gố c dầ u gây ô nhiễ m và đá nh giá mứ c độ thiệ t theo quy định của pháp luậ t
quố c tế . Điều đó cho thấy sự cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với
vấn nạn này.
Cho đến nay nước ta chưa có mộ t đạ o luậ t hay mộ t văn bả n phá p luậ t chuyên
biệ t và thố ng nhấ t nào điều chỉnh về vấn đề BTTH do ô nhiễm dầu và phò ng chố ng ô
nhiễ m dầ u trên biể n . Phầ n lớ n cá c quy phạ m phá p luậ t liên quan đến vấn đề này nằ m
rải rác ở nh iều văn bản luật khác nhau như BLDS năm 2005, Luậ t BVMT 2005,
Luậ t Thủ y sả n 2003, Luậ t Dầ u khí 1993, BLHH 2005 ….và một số nghị định , quyế t
đị nh khá c của các bộ , ban nghành liên quan. Tuy nhiên bản thân nội dung các văn
bản trên cũng không có các chế tài quy định về việc BTTH do ô nhiễm dầu một cách
rõ ràng và cụ thể hoặc cá c chế tà i nếu có mớ i chỉ dừ ng ở việ c xử lý , ngăn chặ n cò n
việc khắ c phụ c thiệ t hạ i và BTTH thì hầ u như không đượ c giả i quyế t đế n nơi đế n chố n.
Hơn nữa Việt Nam cũng chưa tham gia nhiề u công ướ c quố c tế quan trọ ng về BTTH và
phòng chống ô nhiễm dầu, các nghị định thư bổ sung, các văn bản pháp lý có liên quan
nhằ m đả m bả o sự phù hợ p vớ i cá c nguyên tắ c và tiêu chuẩ n chung về ô nhiễ m môi
trườ ng biể n theo thông lệ quố c tế . Dẫn đến một thực tế là hầu hết các vụ việc liên quan
đến khiếu nại, khiếu kiện về trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu tại Việt Nam đều
không được xử lý và giải quyết thỏa đáng.
Trong tương lai nếu tình trạng ô nhiễm dầu không được khắc phục và việc giải
quyết các tranh chấp liên quan đến BTTH do ô nhiễm dầu không được pháp luật điều
chỉnh, dự liệu một cách đầy đủ thì nó sẽ trở thành một trong những nguyên nhân và
là thảm họa làm suy giảm nghiêm trọng môi trường sống, cảnh quan sinh thái, nền
kinh tế của đất nước (đặc biệt là các hoạt động kinh tế biển) cũng như sức khỏe của
con người. Bởi dầu mỏ là hỗn hợp phức tạp của hydrocacbon và các hợp chất hữu cơ

khác phát sinh từ các chất hữu cơ sản sinh cả trên lục địa lẫn trong biển. Chất độc
trong dầu có tác dụng công phá chức năng của màng tế bào và làm tổn hại đến sự
sống, sự phát triển và sự sinh sản của rất nhiều loại sinh vật, chim biển, động thực
vật, thực vật phù du cũng như đời sống của con người.[20]
Từ các nhận định trên cho thấy, việc luật hóa và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về việc phòng ngừa, xử lý, khắc phục và BTTH do ô nhiễm dầu tại Việt Nam đã trở
nên cấp bách. Do đó, với mong muốn được nghiên cứu khoa học và để tìm hiểu các
quy định pháp luật về ô nhiễm dầu, một vấn đề tuy không còn mới nhưng đáng báo
động ở nước ta nên học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường
thiệt hại do Ô nhiễm dầu trong tương quan so sánh với pháp luật Australia” làm
luận văn thạc sỹ của mình. Trên cơ sở nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các
quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật Australia
(Úc) về cùng một vấn đề là BTTH do ô nhiễm dầu, đề tài sẽ rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về BTTH do ô nhiễm dầu và
phòng ngừa xử lý , khắc phục ô nhiễm dầu ở Việt Nam trong thời gian tới . Đồng thời
sẽ đề xuấ t mộ t số kiế n nghị để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành liên quan đến ô nhiễm dầu sao cho đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng
có tính đến hoàn cảnh đặc thù của nước ta.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .
Đề tài “Pháp luật Việt Nam về việc bồi thường thiệt hại do Ô nhiễm dầu trong
tương quan so sánh với pháp luật Australia” có các mục đích và nhiệm vụ chính sau
đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về BTTH do ô nhiễm dầu, trong đó có các nội
dung chính như các khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề này cũng như vai trò của
chế định BTTH do ô nhiễm dầu trong hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện
hành về chế định BTTH do ô nhiễm dầu.
- Trên cơ sở tìm hiều về các quy định trong hệ thống pháp luật của Australia về
cùng một vấn đề này, đề tài sẽ đưa ra những bài học kinh nghiệm cho việc hoàn
thiện các quy định về BTTH do ô nhiễm dầu tại nước ta cũng như các chế định về

phòng ngừa xử lý và khắc phục ô nhiễm dầu ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống là tra cứu và
sưu tầm các tài liệu, phân tích, nhận định và bình luận các tài liệu để đưa ra các
quan điểm khoa học và hoàn thành luận văn. Do vậy, trên cơ sở các số liệu, các bài
báo, các bài viết, bài nghiên cứu của các chuyên gia cũng như thông qua việc nghiên
cứu các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như pháp
luật Australia, các công ước quốc tế. Luận văn đã có một cái nhìn tổng quát về các
khía cạnh pháp lý liên quan đến chế định BTTH do ô nhiễm dầu không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở Australia.
4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn.
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá hệ thống pháp luật trong nước về chế định
BTTH do ô nhiễm dầu Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm cũng như
những vấn đề bất cập để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Ngoài ra Luận văn đã
phát hiện ra những điểm tiến bộ và phù hợp trong các quy định của pháp luật
Australia về vấn đề trên. Từ đó có thể học hỏi để sửa đổi, bổ sung những điểm còn
hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam, kế thừa và phát huy những tiến
bộ của nước bạn tiến tơí xây dựng một đạo luật chuyên biệt điều chỉnh về vấn đề
trên.
Luận văn được bố cục thành 03 chương với các nội dung chính như sau:
Chương I: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT DO Ô NHIỄM DẦU
1.1 Thực trạng về ô nhiễm dầu tại Việt Nam và các nước trên thế giới.
Theo dự báo, thế kỷ 21 là kỷ nguyên phát triển rực rỡ của loài người nhưng
đồng thời cũng là giai đoạn thử thách gay go về môi trường sống đối với hành tinh
xanh, nổi bật hàng đầu đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do dầu trên trái đất. Theo
thống kê Chương trình môi trường của LHQ (UNEP) cho biết, ước tính mỗi năm có
khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ ra biển[23]. Đây là một trong những nguồn gây ô nhiễm
lớn nhất và để lại nhiều hậu nghiêm trọng nhất cho môi trường. Vì vậy, cho đến nay
đã có nhiều điều ước quốc tế được ký kết và thực thi để bảo vệ và gìn giữ môi trường

biển nói riêng và môi trường nói chung khỏi các sự cố làm ô nhiễm môi trường từ
dầu.
Trên thế giới đã từng chứng kiến những vụ tràn dầu lớn, để lại hậu quả nặng
nề cho môi trường, có thể điểm qua những vụ tràn dầu lớn trên thế giới từ năm 1967
đến năm 2010 như sau: [12, 36]
Ngày 18/3/1967, tại vùng eo biển La Manche (Đại Tây Dương), tàu chở dầu
Torrey Canyon đã mắc cạn ở bờ biển của nước Anh, hệ quả là làm tràn 38 triệu
gallon dầu; Ngày 15/12/1976, tại Vịnh Buzzards, bang Massachusetts, Mỹ, tàu Argo
Merchant va vào đất liền và vỡ tại đảo Nantucket, làm tràn 7,7 triệu gallon dầu;
Ngày 16/3/1976, tại biển Portsall, Pháp, siêu tàu chở dầu Amoco Cadiz làm tràn 68
triệu gallon ; Tháng 4/1977 xảy ra vụ nổ giếng dầu tại dàn khoan dầu Ekofisk khiến
81 triệu gallon dầu thô tràn ra Biển Bắc ; Tháng 7/1995 tàu Iron Baron làm tràn 550
tấ n dầ u bunker ở vù ng biể n Bắ c Tasma nia Australia; Ngày 15/2/1996, tại biển xứ
Wales, siêu tàu chở dầu Sea Empress va vào đất liền tại vịnh Milford Haven, làm
tràn 70 triệu lít dầu thô; Ngày 28/7/2003, tàu chở dầu Tasman Spirit mắc cạn và nứt
làm đôi, làm một trong số 4 bồn chứa dầu bị vỡ, tràn 28.000 tấn dầu thô, tại cảng
Karachi, Pakista; Ngày 7/12/2007, Tàu Hebei Spirit đụng phải một dây thép nối giữa
một tàu kéo và một xà lan làm tràn 2,8 triệu gallon dầu thô tại 5 dặm ngoài khơi bờ
biển phía tây Hàn Quốc.

Hình 1.1: Hình ảnh tràn dầu ở Trung Quốc năm 2010
(theo http:// Vnexpress.net)

Gần đây nhất là ngày 20-24/4/2010, dàn khoan dầu Deepwater Horizon (BP) bị nổ
và chìm khiến 60.000 thùng dầu thô bị tràn mỗi ngày tại vịnh Mexico - Hoa Kỳ và
đây là thảm họa môi trường khủng khiếp nhất mà Mỹ từng phải đối phó. Ít nhất 43
triệu gallon dầu đã tràn ra đại dương kể từ khi giếng dầu Deepwater Horizon bốc
cháy và chìm xuống biển trong tháng 4, lớn hơn rất nhiều con số 11 triệu gallons dầu
do tàu Exxon Valdez gây ra vào năm 1989. Tổng thống Obama đã phả chỉ đạo thực
hiện một chiến dịch có quy mô chưa từng thấy trong lịch sử nước Mỹ để đối phó với

một thảm họa sinh thái, huy động tới hơn 19.000 chiếc tàu, với 20.000 người tham gia
dọn dầu loang. Nhưng các nhà khoa học độc lập và các viên chức Mỹ nói có một thảm
họa chúng ta không thể thấy ở vịnh Gulf of Mexico do vụ dầu tràn gây ra vì nó quá sâu.
Hai “đám mây khổng lồ”, sâu vài trăm mét và kéo dài nhiều dặm đã thành hình dưới
đáy biển. Đó là dầu và chắc chắn nhiều loài sinh vật sẽ bị ảnh hưởng.


Hình 1.2 : Hình ảnh về Sự cố tràn dầu trên vịnh Mexico- Hoa Kỳ
năm 2010 (nguồn )
Tại Australia, mộ t trong nhữ ng quố c gia có đườ ng bờ biể n dà i hạ ng nhấ t trên
thế giớ i. Mặ c dù chưa phả i gá nh chị u nhữ ng sự cố đặ c biệ t nghiêm trọ ng về ô nhiễ m
dầ u trên biể n song mộ t số vụ trà n dầ u như vụ tà u Kirki mấ t lá i để thấ t thoá t 18.000
tấ n dầ u thô nhẹ trên vù ng biể n phí a tây , tàu Era xả 300 tấ n dầ u bunkerr tạ i Vị nh
Spence ngoà i khơi vù ng biể n phí a Nam và o thá ng 8/1992 và tàu Iron Baron mất 550
tấ n dầ u bunker ở vù ng biể n Bắ c Tasmania thá ng 7/1995 Hoặc sự kiện tàu LauraD
Amato gặp nạn tại Sydney dẫn đến hậu qủa là làm tràn 250 tấn dầu là nhữ ng sự
kiệ n đá ng nhớ .
Tại Việt Nam, trong 50 năm trở lại đây, ô nhiễ m biể n do dầ u và vấ n đề phò ng ,
chố ng ô nhiễ m do dầ u gây ra ở cá c vù ng biể n đã và đang là vấ n đề lý luậ n , thự c tiễ n
khá khẩn thiết . Thể hiện là số lượng các sự cố tràn dầu xảy ra ở vùng sông, biển
nước ta ngày càng tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, môi
trường, sinh thái, nền kinh tế và sự phát triển bền vững của đất nước.

Hình 1.3 : Hình ảnh tràn dầu ở tỉnh Quảng Nam năm 2007
(nguồn )
Nguyên nhân gây ra tình trạng ô nhiễm dầu rất đa dạng tuy nhiên một trong
các nguyên nhân chủ yếu là do các hoạt động khai thác dầu khí và vận tải trên biển,
trên sông mà đặc biệt là các vụ tai nạn hàng hải (tức các sự cố tràn dầu)[16]. Bởi lẽ
tại vùng biển của Việt Nam nói riêng và biển Đông nói chung là một trong các vùng
biển có nhiều hoạt động khai thác dầu khí và vận tải biển trên thế giới. Chỉ tính riêng

cho vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng
dầu khí với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng khai
thác khoảng 2 tỷ tấn. Do đó khai thác dầu khí ở Việt Nam đứng hàng thứ tư Đông
Nam Á, sau Malaysia, Indonesia và Philippin, đứng thứ 44 trong danh sách các nước
sản xuất dầu lửa trên thế giới. Hiện dầu thô được khai thác tại các dàn khoan Bạch Hổ,
Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông Bên cạnh đó, khí đốt cũng được khai thác ở một số dàn
khoan như Bạch Hổ, Thăng Long Tổng công ty dầu khí đang xây dựng dự án khai
thác khí đốt tại vùng Nam Côn Sơn (khu vực Lan Anh, Lan Đổ) Song song với các
hoạt động khai thác và vận chuyển dầu khí tăng lên thì các sự cố gây ô nhiễm cũng
ngày một nhiều lên [23].
Theo thống kê chưa đầy đủ vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan
thăm dò và khai thác dầu khí. Từ năm 1986 đến năm 2000 sản lượng dầu thô khai
thác hàng năm của Việt Nam đã tăng từ 40.000 tấn lên 16.500.000 tấn. Quan trắc
chất lượng nước ở các khu công nghiệp dầu khí miền Nam Việt Nam được thực hiện
tại sáu trạm chính. Người ta đánh giá rằng lượng dầu thất thoát từ các giàn khoan
vào biển là 270 tấn năm 1995 và 550 tấn năm 2000. Từ năm 1990 đến 1995 đã có 12
vụ tràn dầu được ghi nhận. Từ năm 1995 đến 2000 đã có 91.497 tấn từ 31 vụ tràn
xảy ra ở biển Việt Nam [23]. Ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung
bình mỗi năm hoạt động khai thác dầu khí này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác
thải dầu khí, trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và
nơi xử lý [27]. Ngoài ra, còn có nguyên nhân từ các giàn khoan sau khi dỡ bỏ không
khai thác, các miệng dầu không được bịt kín, gây thất thoát dầu ra bên ngoài làm ô
nhiễm môi trường
Bên cạnh các hoạt động khai thác dầu khí thì hoạt động giao thông vận tải trên
sông trên biển, mà đặc biệt là các vụ tai nạn do đâm va của tàu dầu và tai nạn hàng
hải là một trong những nguồn chính gây ra các sự cố tràn dầu làm ô nhiễm dầu tại
Việt Nam (chiếm khoảng 43% tổng lượng dầu được đưa vào Việt Nam) [27]. Thực
tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy với gần 90.000 lượt tàu biển ra vào cảng
biển với tổng dung tích hơn 320 triệu GT, trong đó có 44.224 lượt tàu nước ngoài,
nguy cơ xảy ra tai nạn hàng hải mà đặc biệt là những vụ tai nạn tràn dầu luôn thường

trực và hậu quả mà nó để lại đối với môi trường sinh thái nói chung và nền kinh tế
biển nói riêng là vô cùng to lớn. Từ năm 1987 đến nay đã xảy ra khoảng trên 90 vụ
tràn dầu ở Việt Nam, trong đó có một số vụ điển hình gây ra những quả đặc biệt
nghiêm trọng[12, 32].Cụ thể:
1. Tàu Neptune Aries đâm vào cầu cảng Cát Lái - TP.HCM năm 1994 (tràn
1.864 tấn dầu DO), được đền bù 4,2 triệu USD/19 triệu USD theo đánh giá.
2. Sự cố tràn dầu tàu Nhật Thuần, ngày 16-4-1998, 97 tấn dầu DO tràn ra
sông Nhà Bè.
3. Tàu Formosa One đâm vào tầu Petrolimex 01 tại vịnh Gành Rái - Vũng Tàu
ngày 07/09/2001(tràn 900 m
3
dầu tương đương 1000 tấn dầu DO), được đền bù
4.744.000 USD/14,2 triệu USD theo đánh giá.
4. Sự cố tàu Mỹ Đình, ngày 20-12-2004, 150 tấn dầu DO và 50 tấn dầu FO
tràn ra vùng biển Cát Bà.
5.Tàu Kasco Monrovia va vào cầu cảng tại Cát Lái – TP HCM ngày
21/01/2005 làm tràn 518 tấn dầu DO

Đặc biệt trong 2 năm 2006 – 2007 tại ven biển các tỉnh miền Trung và miền
Nam đã xảy ra một số sự cố tràn dầu không rõ nguồn gốc, nhất là từ tháng 1/2006
đến tháng 6/2007, xuất hiện nhiều vệt dầu trôi dạt dọc bờ biển của 20 tỉnh từ đảo
Bạch Long Vỹ tới mũi Cà Mau. Đợt tràn dầu không rõ nguồn gốc diễn ra trên diện
rộng dọc dải ven bờ của 20 tỉnh vào năm 2007 này được xem là lớn nhất từ trước
đến nay, với 14 vệt dầu với tổng khối lượng dầu rất lớn, ước tính khoảng 21.620 -
51.400 tấn dầu đã tràn ra biển. Ngoài ra có 2 vụ tràn dầu lớn tại kho xăng dầu hàng
không Liên Chiểu của Vinapco miền Trung và kho H182 của quân đội trên đèo Hải
Vân. Trong 2 vụ này đã có gần 1.000m3 xăng, dầu tràn ra khỏi bồn chứa, ngấm
xuống đất và chảy ra biển, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là khu vực từ
biển Xuân Thiều đến đèo Hải Vân (nơi xảy ra sự cố tràn dầu). Chỉ tính riêng vụ tràn
dầu ở kho xăng dầu hàng không Liên Chiểu đã gây tốn kém chi phí ứng cứu gần 800

triệu đồng và thiệt hại về ngư nghiệp 122 triệu đồng, chưa kể việc bồi thường phục
hồi môi trường bị suy thoái. Gần đây nhất là vụ 14,5 tấn dầu FO đã tràn ra ngoài bồn
chứa dầu của Nhà máy đường Quảng Phú (thuộc Công ty Cổ phần Đường Quảng
Ngãi) và loang rộng trên sông Trà Khúc. Hậu quả là do số dầu loang trên sông quá
lớn nên khu vực sông từ phường Trần Phú (Thành Phố Quảng Ngãi) trở về hạ lưu bị
ô nhiễm nặng và ảnh hưởng lâu dài đến môi trường sinh thái.









Hình 1.4: Ô nhiễm dầu không rõ nguồn gốc ở ven biển Bà Rịa-Vũng Tàu
năm 2007 (nguồn )
Theo ước tính lượng dầu tràn gây ô nhiễm biển ở nước ta đến năm 1992 là 7.380 tấn,
năm 1995 là 10.020 tấn, và theo mức độ gia tăng của vận tải biển, khai thác dầu khí
và công nghiệp hóa, năm 2000 lên đến 17.650 tấn. Dự báo đến năm 2010, lượng dầu
tràn gây ô nhiễm tại Việt Nam là 21 ngàn tấn [32].
Những vụ tràn dầu trên đã làm cho hàm lượng dầu trong nước biển của Việt
Nam nhìn chung đều vượt giới hạn tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn
Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN). Đặc biệt, có những thời điểm vùng nước
khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt mức 1,75 mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho
phép; vịnh Hạ Long có 1/3 diện tích biển hàm lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73
mg/l [27].
Hậu quả là ô nhiễm môi trường do dầu sẽ làm huỷ hoại các hệ sinh thái động
thực vật trên biển, ven biển, trên sông, các hệ sinh thái nhạy cảm như san hô, rừng
ngập mặn, đặc biệt nó còn tác động trực tiếp và gây nên những thiệt hại kinh tế vô

cùng to lớn cho các tổ chức, cá nhân sinh sống và có các hoạt động phát triển ven
sông, ven biển như các hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản, du lịch biển, làm
muối, nông nghiệp, Thậm chí nó còn gây ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe, tính
mạng của nhân dân. Bởi lẽ theo các chuyên gia đánh giá, nồng độ dầu trong nước đạt
0,1mg/l có thể gây chết các loài sinh vật phù du; cá; chim biển ảnh hưởng lớn đến
con non và ấu trùng của các sinh vật đáy; làm giảm tỉ lệ sóng sót của san hô, làm
rừng ngập mặn bị chết; dầu bám vào cơ thể hoặc sinh vật hấp thụ qua quá trình lọc
nước làm giảm giá trị sử dụng và cản trở các hoạt động kinh tế vùng ven biển[40,
20].
Cũng theo tính toán của các nhà hải dương học, trước hết ô nhiễm dầu sẽ ảnh
ảnh hưởng trực tiếp lên hệ sinh thái biển và ven biển, như làm biến đổi cân bằng oxy
của hệ sinh thái; nhiễu loạn các hoạt động sống trong hệ sinh thái (dầu bám vào cơ
thể sinh vật sẽ ngăn cản quá trình hô hấp, trao đổi chất và sự di chuyển của các sinh
vật trong nước); Gây ra các độc tính tiềm tàng trong hệ sinh thái; cản trở các hoạt
động kinh tế ở vùng ven biển (ảnh hưởng nguồn giống thủy hải sản từ đó giảm năng
suất nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, ô nhiễm dầu gây mùi khó chịu và mất mỹ
quan nên làm giảm doanh thu của ngành du lịch và ngành sản xuất muối….). Dầu
mỏ cũng có tác động đặc biệt nguy hại đối với các loài chim biển. Các loài chim duy
trì một thân nhiệt cao và ổn định. Vì vậy, ngay sau khi bị dầu bao phủ bề mặt, làm
các lông cánh không cài vào nhau nữa khiến cho chim biển sẽ bị mất đi tính cách
nhiệt và nhiều khả năng sẽ chết. Dầu mỏ cũng làm chim khó bay, đồng thời chim
thường ăn phải chất độc khi rỉa lông và cản trở các hoạt động kinh tế tại vùng biển.
Khi có các sự cố tràn dầu, dầu sẽ trôi theo dòng chảy mặt nước, theo sóng, gió, dòng
chiều dạt vào vùng biển ven bờ, bám vào đất đá, kè đá, các bờ đảo làm mất mỹ quan
và gây mùi khó chịu đối với các du khách khi tham quan du lịch. Do vậy doanh thu
của ngành du lịch sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Ngoài ra ô nhiễm do dầu làm ảnh hưởng
đến nguông giống tôm cá, sự phát triển và sinh sản của các nguồn thủy hải sản nên
làm chúng bị chết dẫn đến giảm năng suất nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản ven
biển.[40]











Hình 1.5: Ô nhiễm và thu gom dầu thải tại Côn Đảo năm 2007
(nguồn )

Mặc dù việc ô nhiễm dầu đã và đang diễn ra rất nghiêm trọng nhưng trên thực
tế hiện nay có tới 77% sự cố tràn dầu trên hải phận Việt Nam chưa được bồi thường
hoặc đang trong quá trình giải quyết[32]. Nguyên nhân là pháp luật của nước ta còn có
nhiều lỗ hổng, cho đến nay chưa có một văn bản chuyên biệt nào quy định cụ thể về
BTTH do ô nhiễm dầu, các quy định liên quan đến ô nhiễm dầu chủ yếu nằm rải rác
trong một số văn bản luật nhưng không rõ ràng và quá chung chung. Thủ tục BTTH
do ô nhiễm dầu nếu có mới chỉ dừng lại ở việc xử lý ngăn chặn còn vấn đề khắc phục
thiệt hại trong tương lai hầu như không được đề cập tới và giải quyết. Trang thiết bị
phục vụ cho công tác ứng cứu khi có các SCTD hoặc để tính toán, đo đạc mức độ thiệt
hại của nước ta cũng rất thiếu. Các cơ quan chức năng thiếu kinh nghiệm và rất lúng
túng trong việc xử lý các sự cố tràn dầu và giải quyết các vụ việc liên quan đến BTTH
do ô nhiễm dầu. Do đó cần thiết phải có điều chỉnh một cách toàn diện bằng công cụ
pháp luật để giải quyết triệt để những thiếu xót nêu trên.
1.2 Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu và vai trò của chế định bồi thường thiệt
hại do ô nhiễm dầu.
1.2.1 Một số khái niệm về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
Chúng ta biết rằng, bồi thường thiệt hại do ô nhiễm là một vấn đề không phải
mới nhưng cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện cả phương diện lý luận và

thực tế. Như đã phân tích thì những năm gần đây ô nhiễm dầu đã, đang và sẽ để lại
những thiệt không nhỏ cho môi trường, cho nền kinh tế và sức khỏe của cộng đồng
dân cư nơi xảy ra các sự cố gây ô nhiễm dầu. Do đó nhận thức một cách đầy đủ về
mặt lý luận những nội dung liên quan tới trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu là một
việc quan trọng và cần thiết. Từ đó tạo ra nền tảng pháp lý và là căn cứ yêu cầu
BTTH đối với các hành vi gây ô nhiễm dầu tại Việt Nam. Do đó học viên sẽ tập
chung làm rõ một số khái niệm cơ bản về BTTH do ô nhiễm dầu tại mục này như
sau:
- Khái niệm ô nhiễm dầu: Ô nhiễm dầu là tình trạng môi trường (bao gồm
môi trường đất, nước, không khí…) bị ô nhiễm bởi các chất hóa học có trong dầu
làm biến đổi các thành phần môi trường và làm cho các thành phần môi trường
không phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường. Từ đó gây ảnh hưởng xấu đến con
người, các cơ thể sống khác và các yếu tố tạo nên môi trường tự nhiên và nền kinh tế
của đất nước.
Như vậy ô nhiễm dầu là một dạng ô nhiễm môi trường và môi trường chỉ được
coi là bị ô nhiễm do dầu nếu các thành phần có trong dầu đạt đến mức có khả năng
tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
- Nguyên nhân gây ra ô nhiễm dầu: Có nhiều nguyên nhân nhưng một trong
những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm dầu là do các sự cố tràn dầu có
nguồn gốc chủ yếu từ các hoạt động khai thác thăm, dò dầu khí và các hoạt động liên
quan đến vận tải biển. Ngoài ra còn bắt nguồn từ tình trạng xả dầu trái phép từ hoạt
động của các nhà máy nội địa, tai nạn hàng hải hoặc từ các sự cố khác…
- Sự cố tràn dầu: Là hiện tượng dầu tràn ra biển, sông, vũng, vịnh từ các hoạt
động: tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, phân phối, cung ứng và
tàng trữ dầu khí và các sản phẩm của chúng; rò rỉ từ các tàu thuyền hoạt động ngoài
biển và trong các vịnh; rò rỉ từ các giếng khoan dầu trên vùng biển thềm lục địa;
các sự cố tràn dầu do các tàu và xà lan chở dầu bị đắm hoặc va đâm và dầu rửa trôi
từ các hoạt động sản xuất ở vùng ven biển đổ vào biển qua hệ thống cống rãnh, sông
ngòi hoặc rửa trôi trực tiếp từ các âu tàu ở vùng cửa sông ven biển làm cho dầu
và sản phẩm dầu (mà dưới đây sẽ được gọi tắt là dầu) thoát ra ngoài gây ô nhiễm

môi trường, ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái và thiệt hại đến các hoạt động kinh tế,
đặc biệt là các hoạt động có liên quan đến khai thác và sử dụng các dạng tài nguyên
thuỷ sản.
- Khái niệm thiệt hại và thiệt hại do ô nhiễm dầu:
Theo nghĩa thông thường và theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới thì:
“thiệt hại là tổn thất và mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của
cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ.

Tại Việt Nam vấn đề thiệt hại và BTTH
được quy định tại BLDS 2005(điều 307) và Luật BVMT 2005(điều 131). Theo đó,
có hai loại thiệt hại : 1, Thiệt hại đối với môi trường tự nhiên; 2, Thiệt hại về sức
khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra. Cụ
thể, tại điều 307, BLDS 2005 quy định:
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất
vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất hoặc bị giảm sút. …………
Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa thế nào là thiệt hại do ô
nhiễm dầu nhưng theo học viên thì thiệt hại do ô nhiễm dầu được hiểu là những tổn
thất, mất mát cho môi trường, cho nền kinh tế, cho sức khỏe và tính mạng của người
dân khi có các hành vi làm ô nhiễm dầu mà chủ yếu từ sự cố tràn dầu gây ra. Do
đó, bất cứ ai (có thể là công dân, pháp nhân của Việt Nam hay của nước ngoài ) có
hành vi làm ô nhiễm dầu và gây thiệt hại cho chủ thể khác (nhà nước Việt Nam,
công dân, pháp nhân Việt Nam ) trên lãnh thổ Việt Nam, thì phải có nghĩa vụ BTTH
theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Khái niệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu: Bồi thường thiệt hại do ô
nhiễm dầu là việc một hay nhiều chủ thể (người có nghĩa vụ) phải có trách nhiệm đến

bù những tổn thất, những thiệt hại phát sinh bởi hành vi gây ô nhiễm dầu của mình đối
với người có quyền và bị thiệt hại các hành vi gây ô nhiễm dầu (nhà nước Việt Nam,
công dân, pháp nhân Việt Nam và chủ thể khác).
- Một số đặc điểm về BTTH do ô nhiễm dầu theo pháp luật việt Nam:
Vì trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu là một dạng trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng và thuộc nhóm BTTH do làm ô nhiễm môi trường. Nên phải nghiên cứu
các quy định tại BLDS và các văn bản liên quan. Theo đó tại điều 604 BLDS 2005và
Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTA ngày 08/07/2006 đã quy định về điều kiện
phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng bao gồm 4 điều kiện:
1. Có thiệt hại xảy ra;
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật;
3. Có lỗi của người gây ra thiệt hại và
4. có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Tuy nhiên tại điều 624, BLDS 2005 có quy định: Cá nhân, pháp nhân và chủ
thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi. Từ việc
nghiên cứu các quy định của pháp luật cho thấy trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu
có một số đặc thù như sau[19,38]:
Thứ nhất, trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu thuộc trường hợp trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng, vì vậy trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu chỉ phát sinh khi
có dấu hiệu cấu thành trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo BLDS 2005 và các
văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị quyết số 03/2006/HĐTP - TANDTA ngày
08/07/2006 đã nêu trên. Tuy nhiên đối với trách nhiệm BTTH do ô nhiễm dầu thì yếu tố
lỗi không phải là điều kiện bắt buộc để phát sinh nghĩa vụ bồi thường mà chỉ cấn có các
yếu tố sau: Có hành vi gây ô nhiễm dầu, có thiệt hại xảy ra (thiệt hại về môi trường, về
kinh tế, về tính mạng và sức khỏe) và có mối liên hệ giữa thiệt hại với hành vi trái pháp
luật.

×